2023
Một Giáo hội Mỏng Giòn, Vượt Qua và Hiệp Hành – Bức Tranh Thần học về Giáo hội ở Châu Á hậu Covid
Một Giáo hội Mỏng Giòn, Vượt Qua và Hiệp Hành – Bức Tranh Thần học về Giáo hội ở Châu Á hậu Covid
Hình Đức Hồng y Charles Bo tặng quà lưu niệm cho Linh mục Nguyễn Hai Tính SJ và Đức Giám mục Gerald Matthias tại Đại hội FABC 50, ngày 17.10.2022
“Chúa… đã tạo cho con một thân thể” (Hr 10,5)
MỘT GIÁO HỘI MỎNG GIÒN, VƯỢT QUA VÀ HIỆP HÀNH – BỨC TRANH THẦN HỌC VỀ GIÁO HỘI Ở CHÂU Á HẬU COVID
(Bài trình bày trước Đại hội của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu – FABC 50, ngày 17.10.2022)
Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hai Tính, S.J.
Đại dịch Covid-19 đã để lại một số hậu chứng trên cá nhân và xã hội chúng ta, chắc hẳn Giáo hội ở Châu Á cũng không phải ngoại lệ. Trong bài này, chúng ta cùng nhìn vào thực trạng Giáo hội hậu Covid, nhưng từ quan điểm thần học. Nói cách khác, chúng ta thử trả lời câu hỏi đâu là những ảnh hưởng của đại dịch trên Giáo hội, xét trong tương quan với Thiên Chúa, cụ thể là với Đức Kitô và Thần Khí, cũng như xét trong tương quan với nhân loại như là con cái Thiên Chúa.
Trong khi tìm cách vẽ bức tranh về Giáo hội Á Châu hậu đại dịch Covid-19, chúng ta nhìn Giáo hội bằng con mắt của người trong cuộc và của những người đã cùng trải qua cơn đại dịch với mọi con dân Châu Á. Như thế, chúng ta sẽ mô tả Giáo hội như “người đồng hành” cùng với các dân tộc Á Châu trong hành trình lịch sử đương đại.
Với tâm thế đó, chúng ta có thể khám phá một chân dung Giáo hội Á Châu theo mẫu hình Đức Kitô, Đấng nhận lấy “một thân thể”, tức là hiện hữu nhân sinh, trong mầu nhiệm Làm Người (x. Hr 10,5). Chân dung này không chỉ giúp chúng ta biết mình là ai và đang ở đâu trong lịch sử, mà còn mời gọi chúng ta hoán cải để thể hiện chân dung ấy cách chân thực hơn. Quả thế, thư gởi tín hữu Hipri mô tả Đức Kitô, khi làm người, đã ý thức “thân thể”, hay hiện hữu nhân sinh của mình do Thiên Chúa ban tặng là phương thế hay cách thức Ngài hoàn thành Ý muốn của Thiên Chúa. Bằng cách đón nhận hiện hữu nhân sinh, Đức Kitô trở nên một trong chúng ta và đồng hành với chúng ta trong lịch sử thế giới. Bằng cách đối lập “thân thể” này với các hy tế của Lề Luật, thư Hipri nhấn mạnh giá trị cứu độ của “thân thể” này, mà Đức Kitô dâng hiến cách vâng phục như hy tế dâng lên Thiên Chúa (x. Hr 10,4-10)[1]. Như thế, theo thư Hipri, Đức Kitô hoàn thành Ý muốn Thiên Chúa và cứu độ chúng ta bằng cách làm người, tức mang lấy một “thân thể”, vốn có thể dâng lên làm hy tế vâng phục. Nói cách khác, Ngài mang lấy một “thân thể” mỏng giòn, “phơi nhiễm” trước đau khổ và sự chết; đỉnh cao của sự “mỏng giòn” ấy được thể hiện trên Thập giá. Dựa trên ý nghĩa của “thân thể” Đức Kitô, như là một hiện hữu mỏng giòn, như là sự chuẩn bị cho mầu nhiệm Vượt Qua, và như phương thế để Thiên Chúa đồng hành với nhân loại trong lịch sử, chúng ta có thể trình bày chân dung Giáo hội hậu đại dịch bằng ba nét chính sau: thân thể tính mỏng giòn, sự vượt qua và tính hiệp hành.
Video thuyết trình của Đức Giám mục Gerald Matthias và Linh mục Nguyễn Hai Tính SJ tại Đại hội FABC 50, ngày 17.10.2022
- Thân thể tính mỏng giòn – một Giáo hội của mầu nhiệm Làm Người
Như Đức Kitô có một “thân thể”, Giáo hội với tư cách là Nhiệm Thể Đức Kitô trên trần gian, cũng mang nét thân thể tính, mỏng giòn trước các thay đổi của lịch sử, của khổ đau, cái chết và ngay cả tội lỗi. Thân thể tính này được biểu lộ rõ nét trong suốt đại dịch Covid-19. Đại dịch Covid-19 nhắc nhở toàn nhân loại về tính mỏng giòn của mình, nó cũng phơi bày rõ nét thân thể tính của Giáo hội. Thân thể tính của Giáo hội có thể mang nhiều ý nghĩa, nhưng ở đây chúng ta có thể kể ra ba nghĩa thể chế, con người và luân lý. Về mặt thể chế, thân thể tính ám chỉ tới các yếu tố hữu hình của Giáo hội (x. Lumen Gentium, 8) vốn bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Về mặt con người, thân thể tính có thể chỉ về người nghèo, vốn là những người bị ảnh hưởng nặng nền nhất bởi đại dịch[2]. Chúng ta thường nghĩ về “người nghèo” như đám đông không rõ khuôn mặt, đại dịch nhắc nhở chúng ta không nghĩ về họ như những con số thống kê, nhưng như những con người thật, có mặt có tên như Lazaro (x. Lc 16, 20). Cuối cùng, về mặt luân lý, thân thể tính chỉ về việc Giáo hội ôm ấp những tội nhân như chúng ta, những người đã góp phần làm cho đại dịch thành “nhân tai” và trầm trọng hơn. Quả thế, đại dịch Covid-19 không chỉ là thiên tai mà còn là kết quả của việc chúng ta bóc lột thiên nhiên thái quá; đại dịch cũng trở nên trầm trọng hơn do lòng tham, sự sợ hãi, sự vô tâm, tâm thế cá nhân chủ nghĩa và cơ hội chủ nghĩa của chúng ta.
Do đó, có thể nói rằng chân dung Giáo hội Á Châu hậu đại dịch nổi rõ nét vẽ của đau khổ[3], vốn vừa là hậu quả của tội vừa là cơ hội của ân sủng. Đại dịch đã để lại vết thương sâu xa trên thân xác, tâm trí và tinh thần người dân Châu Á, mà không phải lúc nào vết thương đó cũng được nhận ra. Cùng đau khổ với mọi người dân Châu Á, Giáo hội sống thân thể tính của mình, ít nhất theo ba cách sau:
Giáo hội tại Châu Á ý thức rằng với tư cách là một thực thể tại thế, Giáo hội cũng “phơi nhiễm” trước những biến động lịch sử, rằng các yếu tố hữu hình của Giáo hội có thể bị tác động và phải thay đổi tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử, để đáp ứng nhu cầu con người, vốn luôn biến đổi theo thời gian. Các dân tộc Á Châu, vốn đặt nặng lối sống cộng đồng, đã bị ảnh hưởng rất nhiều từ đại dịch khi mà các sinh hoạt cộng đồng xã hội bị ngưng trệ.
Giáo hội tại Châu Á cũng ý thức rằng, trong cung lòng mình hay liên hệ với mình, người nghèo của Thiên Chúa là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi đại dịch. Chính họ, những người nghèo đau khổ là thân thể đích thực của Đức Kitô (x. Mt 25) và là đại diện chân thực nhất của Giáo hội, vì họ thuộc về cốt lõi của căn tính và hiện hữu của Giáo hội. Hiện diện ở Châu Á, lục địa có nhiều người nghèo nhất, Giáo hội cảm nhận nỗi đau của người nghèo như nỗi đau của chính mình và ý thức rõ nét hơn mình là Giáo hội của những người nghèo thế nào.
Giáo hội cũng ý thức rằng tội lỗi của con cái mình góp phần làm cho đại dịch trở nên trầm trọng hơn. Đại dịch đã không chỉ biến chúng ta thành nạn nhân mà còn phơi bày tội lỗi xấu xa của chúng ta, trong tư cách cá nhân và tập thể. Hiện diện ở Châu Á, với nhiều quốc gia mang tiếng vì nạn tham nhũng và bóc lột người nghèo, ngay cả khi đại dịch đang diễn ra, thành viên Giáo hội cần tự nhắc nhở rằng mình là tội nhân cần được tha thứ, sám hối và hoán cải. Với tư cách là thừa tác viên của Giáo hội, chính chúng ta đã không chỉ ngăn cản mà còn đẩy anh chị em chúng ta xa khỏi vòng tay yêu thương tha thứ của Mẹ Giáo hội. Trong tâm trí chúng ta, trong những quy chuẩn và cấu trúc xã hội chúng ta luôn tồn tại một loại “virus” của ích kỷ, dửng dưng và bóc lột, mà Covid-19 chỉ là chất xúc tác làm cho nó mạnh hơn[4]. Vì thế, Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch, dựa vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa không chỉ sám hối mà còn hoán cải bằng cách thực hiện những phương cách ngăn chặn để những “đại dịch” về đạo đức như thế không xảy ra nữa.
Tóm lại, Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch sống mầu nhiệm Làm Người bằng cách ý thức và thừa nhận thân thể tính của mình, vốn mỏng giòn trước đau khổ và các biến động lịch sử. Sống thân thể tính này và cùng đau khổ với nhân loại, Giáo hội sống căn tính đích thực của mình không chỉ như là thực tại đến từ Thiên Chúa mà còn là Giáo hội hiện hữu trong thế giới và cho thế giới (x. Gaudium et Spes, 1).
- Vượt qua từ đau khổ tới chữa lành – một Giáo hội của mầu nhiệm Vượt Qua
Công cuộc Làm Người của Đức Kitô liên hệ chặt chẽ và hướng về mầu nhiệm Vượt Qua như là đỉnh điểm và sự hoàn thành của mình[5]. Tương tự, thân thể tính mỏng giòn của Giáo hội Á Châu chỉ có ý nghĩa và giá trị đích thực khi được nhìn trong ánh sáng mầu nhiệm Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 618). Giáo hội trải qua đại dịch không chỉ như một trong số những tai hoạ của lịch sử mà còn như một trải nghiệm cụ thể của mầu nhiệm Vượt Qua.
Đức Kitô, với “thân thể” của mình, đã có thể mang lấy tội lỗi, bệnh tật của nhân loại và chữa lành họ (x. 1Pr 2,24). Cũng thế, thân thể tính mỏng giòn là cơ hội và phương thế để Giáo hội sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đầu của mình. Quả thế, các trải nghiệm chúng ta có trong đại dịch mang đầy đủ những nét của kinh nghiệm Thập Giá và Phục Sinh của Đức Kitô. Thực tế, rất nhiều người, đặc biệt là những người nghèo khổ, đã sống mầu nhiệm ấy cách anh hùng trong suốt đại dịch[6]. Giáo hội hậu đại dịch vẫn mang và cần duy trì dấu ấn không phai nhòa của Mầu nhiệm Vượt Qua ấy.
Như người tôi tớ đau khổ, âm thầm mang lấy tội của người khác mà không mở lời than trách (x. Is 52,13–53,12), nhiều người, ngay cả những tội nhân như chúng ta, đã chịu đau khổ cách vô cớ mà không lên tiếng than trách bất kỳ ai khác. Đây vẫn còn là hoàn cảnh hiện tại khi mà cuộc chiến vô cớ ở Ukraina đang diễn ra. Bao người dân vô tội trên toàn thế giới vẫn đang âm thầm chịu đựng những khó khăn và đau khổ do cuộc chiến gây ra, chỉ vì tham vọng ích kỷ của một số ít người. Những đau khổ bất công vô cớ này sẽ vô nghĩa và vô ích nếu không được trải nghiệm dưới ánh sáng của Thập giá Đức Kitô. Chính ở đây chúng ta thấy vai trò của Giáo hội đối với thế giới: Giáo hội hiện hữu để cùng trải qua những thăng trầm, cùng đau khổ với thế giới, nhưng cũng để chiếu ánh sáng ý nghĩa vào những trải nghiệm đen tối của thế giới đau khổ. Giáo hội là và nên là Giáo hội của mầu nhiệm Vượt Qua. Chỉ Đức Kitô, Đấng âm thầm chịu những đau khổ vô cớ và bất công, nhưng với tình yêu dành cho Chúa Cha và toàn nhân loại, chỉ Ngài mới có thể mang lại cho chúng ta ánh sáng của ý nghĩa, của hy vọng và của sự sống. Nhìn lên Đức Kitô trên Thập giá, Giáo hội hậu đại dịch không chỉ ý thức những đau khổ và tội lỗi của con cái mình, nhưng còn đảm nhận thân thể tính mỏng giòn của mình cách vâng phục và với tình yêu. Cái “nhìn” này, vốn là thái độ đức tin nội tâm, là bước đầu tiên quan trọng hướng tới chữa lành và cứu độ (x. Ga 3,14-15; Ds 21,8-9), trước khi chúng ta bàn về các phân tích và kế hoạch mang tính khoa học, xã hội hay mục vụ. Việc nhấn mạnh mầu nhiệm Vượt Qua rất phù hợp với người dân Châu Á, nhiều người trong số họ rất sùng kính các cử hành Tuần Thánh và linh đạo Thập Giá[7]. Hơn nữa, nhiều người, nếu không muốn nói là đa số người dân Châu Á đang sống mầu nhiệm Vượt Qua trong suốt lịch sử bị bách hại hay đàn áp của họ, trong quá khứ cũng như hiện tại. Tinh thần của mầu nhiệm Vượt Qua đã ở trong xương máu họ.
Tuy nhiên, đại dịch không chỉ gợi lên đau khổ và tội lỗi, mà còn là khoảnh khắc của ân sủng; nó đưa ra những cơ hội chứ không chỉ thách đố; nó đã gây tổn thương cho chúng ta nhưng cũng làm chúng ta mạnh mẽ hơn cả về mặt thể lý, xã hội, luân lý và đức tin. Thực tại Phục Sinh đã được thể hiện trong suốt đại dịch và sau đó. Đức Kitô Phục Sinh và Thần Khí của Ngài hoạt động mạnh mẽ nơi những người hy sinh ích lợi cá nhân để phục vụ người khác, nơi những sáng tạo, liên đới và biến đổi trong nhiều khía cạnh của đời sống cá nhân và xã hội[8]. Giáo hội hậu đại dịch đã vượt qua đại dịch dưới cờ của Đấng Phục Sinh và vẫn cần giữ Tinh Thần Phục Sinh của Ngài sống động trong đời sống và hoạt động của mình. Một cách thực tiễn, điều này có nghĩa canh tân phụng vụ, hoạt động mục vụ, tổ chức và các yếu tố hữu hình khác của Giáo hội, sao cho Giáo hội luôn có thể đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi của con người. Sống tinh thần Phục Sinh cũng có nghĩa quan tâm hơn tới người nghèo, không chỉ loan báo Tin Mừng cho họ bằng lời nói mà còn hỗ trợ thực tế để họ có đời sống tốt đẹp hơn. Cuối cùng, sống tinh thần Phục Sinh còn có nghĩa bức gốc tội lỗi nơi con cái của Giáo hội, bằng cách thay đổi lòng (meta-noia) và thay đổi lối sống, chống lại tinh thần và lối sống thế gian.
Đức Kitô Phục Sinh, khi hiện ra với các môn đệ, dù vẫn mang những vết thương của Thập giá, mang đến cho họ bình an, hiệp nhất, tha thứ, chữa lành ,v.v… (x. Ga 20,24-29). Ngài mang đến ơn cứu độ dưới nhiều dạng thức khác nhau, tương ứng với nhu cầu đa dạng của những con người khác nhau. Tương tự, Giáo hội hậu đại dịch, dù vẫn mang nơi mình những hậu quả của đại dịch, luôn khao khát mang đến cho con người sự chữa lành toàn diện phát xuất từ Thiên Chúa nơi Đức Kitô và Thần Khí của Ngài. Sự chữa lành toàn diện này bao gồm mọi chiều kích thiêng liêng, luân lý, xã hội, thể lý và vũ trụ.
Tóm lại, sống trong đại dịch, Giáo hội tại Châu Á sống mầu nhiệm Thập Giá của Đức Kitô; vượt qua đại dịch, cả theo nghĩa đen và nghĩa thiêng liêng, Giáo hội được chữa lành và trở nên sống động hơn nhờ Thần Khí của Đấng Phục Sinh. Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch có thể tiếp tục sống mầu nhiệm Vượt Qua bằng cái nhìn đức tin hướng lên Thập Giá, đảm nhận những đau khổ bằng Tinh Thần vâng phục và yêu thương mà Đức Kitô dành cho Thiên Chúa và nhân loại. Giáo hội tiếp tục để Tinh Thần này làm cho mình sống động bằng nỗ lực liên tục canh tân chính mình nhằm mang lại sự chữa lành toàn diện cho nhân loại.
- Hiệp hành – một Giáo hội của mầu nhiệm Hiện Xuống
Đại dịch cho thấy chúng ta liên hệ với nhau thế nào, cả về thể lý, tâm lý lẫn xã hội và lịch sử, rằng không ai có thể được cứu đến khi tất cả được cứu. Từ đại dịch, nhân loại đã học bài học liên đới và đã có nhiều nghĩa cử cao đẹp ở mọi cấp độ cá nhân, cộng đoàn, quốc gia và quốc tế[9]. Giáo hội hậu đại dịch có thể tham gia và đồng hành với nhiều người thiện chí trong nỗ lực liên đới này, và hiệp hành là phương thế thức thời để làm việc này.
Với “thân thể” mình, Đức Kitô hiện diện giữa chúng ta, nhưng sự hiện diện thể lý của Ngài dẫn đưa chúng ta đến một thể thức hiện diện khác của Ngài, mang tính thiêng liêng, vốn đạt đỉnh cao nơi sự Phục Sinh và việc trao ban Thần Khí của Đấng Phục Sinh. Điều này diễn ra rõ nét trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí hiện xuống trên các môn đệ Đức Kitô. Đây cũng là kinh nghiệm của chúng ta ngày nay về sự hiện diện của Ngài. Chúng ta có thể xem xét ba đặc tính của mầu nhiệm Hiện Xuống, có thể áp dụng cho tiến trình hiệp hành mà Giáo hội đang tiến hành: hiện diện, hướng tha và thúc bách.
Trước hết, đặc tính hiện diện: Khi đón nhận Thần Khí của Đấng Phục Sinh vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ không còn giam hãm mình trong sợ hãi nữa. Cảm nhận thế giới là nhà, họ lao ra khỏi phòng kín và lao vào thế giới để gặp gỡ con người thuộc các văn hóa khác nhau, nói với họ về Tin Mừng theo cách mà họ hiểu được (x. Cv 2,1-11). Hiệp hành không chỉ là lên kế hoạch và làm việc chung với nhau, không chỉ là chia sẻ cái “có” và cái “làm” của nhau, mà trước hết là tham dự vào cái “là” của nhau. Hiệp hành trước hết đến từ việc thưởng ngoạn sự hiện diện của nhau cách tự nhiên, với niềm vui và tình yêu, từ việc lắng nghe nhau cách sâu xa và thấu cảm, từ việc đồng hành với nhau trong niềm vui nỗi buồn của cuộc sống, v.v… Như thế, hiệp hành chỉ về cái “là” của mầu nhiệm Giáo hội, chứ không chỉ nói lên điều Giáo hội phải “làm”; hiệp hành thuộc về chính bản chất của Giáo hội chứ không chỉ là đặc nét trong cách Giáo hội quản trị và thi hành sứ vụ. Các trải nghiệm trong đại dịch đã dạy và chuẩn bị chúng ta cho một sự hiệp hành chặt chẽ hơn với toàn nhân loại, Giáo hội hậu đại dịch được mời gọi tiếp tục tinh thần đó.
Thứ hai, đặc tính hướng tha: Có thể nói rằng, các môn đệ Đức Kitô đón nhận Thần Khí không chỉ khi đang tụ họp trong nhà (x. Cv 2,2-4), mà còn trong khi họ gặp gỡ con người và rao giảng Tin Mừng cho họ (x. Cv 2,5tt). Tương tự, tinh thần hiệp hành mời gọi chúng ta hướng về người khác, hiện diện, đồng hành và rao giảng Tin Mừng cho họ. Khi nói về “người khác”, ba “đối tác” có thể được nhấn mạnh trong tiến trình hiệp hành của Giáo hội tại Châu Á. Trước tiên, hiệp hành cần được tiến hành từ cấp độ căn bản nhất là gia đình, vốn có thể được gọi là “Giáo hội tại gia” (LG 11); nói cách khác, Giáo hội cần hiệp hành ngay ở cấp độ tại gia của mình. Các gia đình đã trải qua đại dịch với những mất mát và hồi sinh riêng của mình[10]. Một trong những nét thiết yếu của Giáo hội tại gia là khả năng hình thành một mái ấm, một cộng đoàn những ngôi vị yêu thương, đối thoại với nhau (x. Familiaris Consortio, 18), chứ không chỉ là nơi trú ngụ của những cá nhân. Tiến trình hiệp hành mời gọi Giáo hội hậu đại dịch đặc biệt chú trọng mục vụ chăm sóc gia đình. Cùng với đó là mục vụ giới trẻ, những người mà tương lai của họ là một tình trạng “bình thường mới” vốn không thể bình thường lại như xưa. Xét rằng Châu Á là lục địa đông người trẻ và rằng tinh thần đặt nặng các giá trị gia đình của người Châu Á đang bị thách đố mạnh mẽ bởi chủ nghĩa toàn cầu hoá, hiệp hành ở cấp độ gia đình và người trẻ có thể là một trong những điểm nhấn của Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch.
Thứ đến, Giáo hội cũng có thể sống tinh thần hiệp hành với những người ngoài biên giới hữu hình của mình, những người thuộc tôn giáo khác, những người thiện chí, v.v… Với “thân thể” mình, Đức Kitô đã tham dự vào lịch sử và các điều kiện nhân sinh khác của chúng ta. Theo nhiều nghĩa, Ngài dựa vào chúng ta và lịch sử chúng ta để hoàn thành hiện hữu và sứ mạng mình. Mang lấy hiện hữu nhân sinh, Đức Kitô suy nghĩ và làm việc theo cách chúng ta suy nghĩ và làm việc; Ngài học cách vâng phục Cha, tức là thực hiện cái “là” của mình như là Con Thiên Chúa, bằng cách chịu đau khổ nơi “thân thể” Ngài (x. Hr 5,8). Tương tự, Giáo hội tại Châu Á có thể trở nên chính mình bằng cách học vâng phục trong những biến động của lịch sử nhân loại. Như Đức Kitô, Giáo hội dựa vào con người để hoàn thành hiện hữu và sứ mạng mình. Xét rằng người Công giáo chỉ là thiểu số nhỏ ở Châu Á, dạng thức hiệp hành này càng trở nên cấp bách và cần thiết hơn lúc nào hết đối với Giáo hội hậu đại dịch.
Cuối cùng, hiệp hành cũng có thể áp dụng cho mối tương quan của chúng ta với vũ trụ và thiên nhiên. Dù tác động trên mọi khía cạnh đời sống con người, đại dịch Covid-19 được cảm nhận trước hết như là cuộc tấn công vào thân xác chúng ta, vốn là một phần của “một toàn thể, mà toàn thể đó cấu thành sự hiệp nhất của toàn bộ vũ trụ vật chất”[11]. Nói cách khác, thân xác là cách thức chúng ta sống mối tương quan thuộc về vũ trụ và thiên nhiên. Tấn công vào thân xác chúng ta, đại dịch cho thấy sự xung khắc giữa chúng ta và thiên nhiên; nó dạy chúng ta bài học cay đắng rằng phá hủy thiên nhiên là phá hủy chính mình. Hiện diện với thiên nhiên, thưởng ngoạn sự hiện hữu của nó, lắng nghe “tiếng rên xiết và quằn quại” của nó (x. Rm 8,22), đồng hành với nó trong những thay đổi và tiến hóa của nó, v.v… đó chỉ là một vài trong nhiều cách thức chúng ta có thể làm để hiện thực hóa hiệp hành với thiên nhiên. Đã từ lâu chúng ta được mời gọi quan niệm việc “làm chủ thiên nhiên” (x. St 1,26.28) không như mối tương quan một chiều, sử dụng thiên nhiên nữa, mà như cùng “nhảy múa” với thiên nhiên theo nhịp điệu của Ba Ngôi[12]. Xét rằng người dân Châu Á có mối tương quan rất đặc thù với thiên nhiên – vừa chìm đắm trong thiên nhiên vừa phá hoại thiên nhiên tàn bạo – Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch được mời gọi chú trọng cấp độ này của tiến trình hiệp hành.
Đặc tính thứ ba của hiệp hành, thúc bách: Trong biến cố Hiện Xuống, chúng ta nhận thấy trong tâm trí các môn đệ Đức Kitô có một cảm thức thúc bách, tương tự như điều thánh Phaolô diễn tả sau này (x. 2Cr 5,14). Sau khi nhận Thần Khí, họ tức khắc bắt đầu nói các thứ tiếng mà Thần Khí làm cho họ có thể nói (x. Cv 2,4); các hoạt động truyền giáo của họ sau này cũng cho thấy cảm thức thúc bách đó. Tương tự, tiến trình hiệp hành không hề là một cuộc tụ họp vui chơi của những người thích tận hưởng những thú vui hời hợt, nhưng hiệp hành gợi lên một cảm thức cấp bách nơi chúng ta. Người ta hay mô tả tình hình hậu đại dịch như là “bình thường mới”, bởi lẽ cuộc sống trong tình huống “khẩn cấp” rất dễ gây căng thẳng và chỉ có thể tiếp diễn trong một tình huống “bình thường”. Âu cũng là lẽ thường tình, chúng ta có khuynh hướng muốn cuộc sống trở lại bình thường. Tuy nhiên, đại dịch cũng cảnh báo chúng ta về tình huống “khẩn cấp” về nhiều mặt của nhân loại, để chúng ta không tự mãn phớt lờ các vấn đề và cho rằng mọi thứ vẫn diễn tiến bình thường. Tin Mừng cũng mời gọi chúng ta tránh lối sống ỷ y, tự mãn hay hưởng thụ như thể thế giới đang trong trạng thái bình thường (x. Lc 12,16-20) mà cần phải sống như trong tình huống cấp bách, vì thế giới này đang qua đi và Đức Kitô sắp đến rồi (x. 1Cr 7,29-31). Tính thúc bách của Tin Mừng mời gọi chúng ta xác quyết sâu xa về căn tính Kitô hữu, sẵn sàng tìm mọi cách dấn thân, sẵn sàng chịu cực khổ để loan truyền chân lý và giá trị Phúc Âm, cũng như sẵn sàng hy sinh thân mình cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, v.v… Châu Á, lục địa đông dân nhưng với tỉ lệ Kitô hữu nhỏ bé, gợi lên trong chúng ta cảm thức cấp bách đó của Tin Mừng; chúng ta không được phép mãn nguyện, ỷ y với những thành quả trong những giáo xứ nhỏ bé của mình; đồng lúa của Chúa vẫn bao la rộng lớn và chín vàng, cần nhiều thợ gặt. Châu Á cũng là vùng đất của nhiều vị tử đạo, trong quá khứ cũng như hiện tại; người dân Châu Á, không chỉ hiền lành và tìm kiếm sự hài hoà, mà còn kiên định, dấn thân và sẵn sàng hy sinh. Phúc Âm đã đến với Châu Á qua các thừa sai ngoại quốc cũng như bản địa, những người sống cảm thức thúc bách của Tin Mừng. Ngày nay, Kitô hữu Á Châu vẫn cần để Tin Mừng thúc bách chúng ta giữ cho ngọn lửa đức tin và loan truyền ơn cứu độ cho chính đồng bào mình và những người khác.
Tóm lại, thân thể tính là cách thế thức thời để Giáo hội sống hiệp hành, vốn là hoa trái của Thần Khí và thuộc về bản chất Giáo hội. Giáo hội tại Châu Á hậu đại dịch được mời gọi đồng hành cách đặc biệt với các gia đình, với người trẻ; Giáo hội cũng cần tiếp tục mở ra với mọi người thuộc mọi văn hóa, tôn giáo khác, và ngay cả với thiên nhiên.
Kết luận, bắt đầu bằng hình ảnh “thân thể” mà Đức Kitô nhận lãnh từ Thiên Chúa khi làm người, chúng ta đã khám phá một hình ảnh về Giáo hội tại Châu Á liên kết chặt chẽ với các mầu nhiệm của Đức Kitô và Thần Khí. Thân thể tính của Giáo hội là phương thế quan trọng để Giáo hội sống mầu nhiệm Làm Người, Vượt Qua và Hiện Xuống, cùng đi với nhân loại trên con đường hướng về Thiên Chúa, Đấng là nguồn và cùng đích mọi sự.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 133 (Tháng 1 & 2 năm 2023)
[1] X. Albert Vanhoye, L’ Epistola agli Ebrei – “Un Sacerdote Diverso”, trans. Carlo Valentino (Bologna: Centro Editoriale Dehoniano, EDB, 2010), 25-27, 220-221; Raymond Brown, Josephy Fitzmyer and Roland Murphy, eds., The New Jerome Biblical Commentary (New Jersey: Prentice Hall, 1990), 938.
[2] “Người nghèo” ở đây bao gồm tất cả những ai đã qua đời trong cô đơn vì đại dịch, những ai mất người thân mà không thể nhìn thấy họ lần cuối, những trẻ em mồ côi, những người mất việc, những người đói khổ vì đại dịch, v.v…
[3] Châu Á thiệt hại với gần 200 triệu người phát hiện bị nhiễm và khoảng 1,5 triệu người chết vì Covid-19 (x. https://www.worldometers.info/coronavirus/, truy cập ngày 23.09.2022), cùng với các hậu quả nghiêm trọng khác liên quan đến gia đình, công việc, kinh tế, cuộc sống của người dân. Về phần Giáo hội, các hiện tượng như nhà thờ bị đóng cửa, mọi hoạt động phụng vụ và mục vụ bị ngưng, cộng đoàn bị phân tán vì đại dịch, v.v… đã để lại những hậu quả còn tồn đọng lâu dài, với mức độ khác nhau tuỳ vào nơi chốn và văn hóa (x. FABC- OTC, The Body of Christ in the Pandemic: Theological Reflection from Asian Perspectives, Part 1, B; tài liệu có thể được tải về từ https://fabc.org/document/fabc-papers-168 và https://fabc.org/document/fabc-papers-169/).
[4] X. FABC-OTC, The Body of Christ in the Pandemic, Part 2, A, II, 1; C, II. Chúng ta có thể nghĩ tới gần 2000 chuyến bay mang danh là “giải cứu” nhưng thực chất là bóc lột đồng bào, các hợp đồng mờ ám trong việc mua sắm thiết bị y tế xảy ra ngay trong đại dịch, v.v…
[5] Hans Urs von Balthasar, Mysterium Paschale: The Mystery of Easter, trans. Aidan Nichols, O.P. (Michigan: William B. Eerdmans Publishing Co., 1993), 11-48.
[6] X. FABC-OTC, The Body of Christ in the Pandemic, Part 2, A, II, 2.
[7] Ví dụ, ở Philippines và Việt Nam, không kể những thực hành cực đoan mang tính mê tín, đối với nhiều người qua nhiều thế kỷ, các cử hành trong Tuần Thánh là xương sống của năm phụng vụ. Đời sống thiêng liêng của nhiều người vốn nguội lạnh suốt năm phụng vụ, bỗng trở nên sống động trong Mùa Chay và Tuần Thánh, với những cử hành mang đậm nét văn hóa riêng hoặc đã bắt rễ sâu xa vào văn hóa họ qua nhiều thế kỷ
[8] Điều này được mô tả chi tiết hơn trong tài liệu FABC-OTC, The Body of Christ in the Pandemic.
[9] Những nghĩa cử cao đẹp như chăm sóc người bệnh trong gia đình, làng xóm, phân phát thức ăn, bình oxy, v.v… ở cấp độ địa phương và quyên tặng vaccine, thuốc men, v.v… ở cấp độ quốc gia và quốc tế.
[10] X. FABC-OTC, The Body of Christ in the Pandemic, Part 2, A, II & III.
[11] Karl Rahner, “Death” in Encyclopedia of Theology – The Concise Sacramentum Mundi, ed. K. Rahner (New York: Burns & Oates, 1975), 330: “the totality which constitutes the unity of the material universe”.
[12] Cf. FABC-OTC, The Body of Christ in the Pandemic, Part 3, C.
2023
Đức cha Paglia: Thông điệp Humanae Vitae và suy tư của các thần học gia về tính dục và sinh sản
ĐỨC CHA PAGLIA: THÔNG ĐIỆP HUMANAE VITAE VÀ SUY TƯ CỦA CÁC THẦN HỌC GIA VỀ TÍNH DỤC VÀ SINH SẢN
Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống, Đức cha Vincenzo Paglia, đề cập đến một số khía cạnh của thông điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI, ở trung tâm của một cuộc hội thảo được tổ chức tại Rôma bởi diễn đàn đạo đức sinh học quốc tế Jérôme Lejeune, vào ngày 19 và 20/5/2023.
Vatican News: Đạo đức sinh học khuyến khích suy tư về sự sống về tất cả các khía cạnh của nó. Ngày nay, chúng ta được mời gọi tập trung vào phần rỗi của hành tinh và nhân loại, và chiều kích của đạo đức sinh học toàn cầu đòi hỏi một liên minh giữa tất cả các ngành khoa học. Theo nghĩa này, khi nhìn vào các tài liệu của Giáo hội, Đức Cha đánh giá thế nào về thông điệp Humanae Vitae, 55 năm sau khi nó được công bố ?
Đức cha Paglia: Tôi muốn dừng lại ở một khía cạnh mà tôi cho là thiết yếu. Tôi muốn nói về mối liên hệ cấu thành giữa tính dục, tình yêu vợ chồng và sinh sản, vốn là chủ đề rất thời sự của Humanae Vitae. Đức Phaolô VI nhắc lại bốn “đặc điểm” cơ bản của tình yêu vợ chồng: một tình yêu hoàn toàn nhân linh, nghĩa là vừa cảm giác vừa thiêng liêng, một tình yêu toàn vẹn, nghĩa là một hình thức rất đặc biệt của tình bạn cá nhân, một tình yêu chung thủy và độc hữu cho đến chết, một tình yêu phong nhiêu. Tình yêu vợ chồng như thế là phong nhiêu, lập tức vượt qua vấn đề muôn thuở về mối tương quan giữa các mục đích của hôn nhân, mục đích chính (sinh con và giáo dục con cái, prolis generatio et educatio) và mục đích phụ (giúp đỡ lẫn nhau và phương dược xoa dịu dục vọng, mutuum adiutorium et remedium concupiscentiae).
Bằng cách này, sự phong nhiêu của việc sinh sản được coi là một đặc điểm nội tại của tình yêu vợ chồng chứ không phải là một phần thêm về sau. Như chúng ta đã hiểu được một cách khôn ngoan ngày nay, cần phải tự hỏi làm thế nào vấn đề được Humanae Vitae đặt ra có thể tiếp tục nuôi dưõng sự hiểu biết về mối liên hệ giữa tính dục, tình yêu vợ chồng và sinh sản, một sự hiểu biết đã trở nên rõ ràng hơn dưới ánh sáng của viễn cảnh chủ thuyết nhân vị. Đó là lý do tại sao tôi cho rằng điều rất quan trọng là chúng ta tiếp tục suy tư và thảo luận về chủ đề này, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã lặp lại cách chính xác về các biện pháp ngừa thai, khi khẳng định rằng “bổn phận của các thần học gia là nghiên cứu, suy tư thần học”. Chúng ta không thể làm thần học với chữ “không” trước mặt. Vì thế, chính Huấn quyền sẽ nói: “Không, bạn đã đi quá xa, hãy quay lại. Nhưng sự phát triển thần học phải cởi mở, các thần học gia ở đó vì điều đó” (Họp báo trên chuyến bay trở về từ Canada, ngày 29/7/2022).
Vatican News: Đâu là sứ điệp và giá trị của Thông điệp này ?
Đức cha Paglia: Việc nhìn nhận mối liên hệ bất khả phân ly giữa tình yêu vợ chồng và sinh sản trong Humanae Vitae không có nghĩa là bất kỳ mối quan hệ vợ chồng nào đều nhất thiết phải có khả năng sinh sản. Với lời khẳng định này, Thông điệp lấy lại tuyên bố mào đầu của Đức Piô XII trong bài phát biểu nổi tiếng dành cho các nữ hộ sinh năm 1951. Chính vì lý do này mà, khi lấy lại một trực giác rất thích đáng của Công đồng (Gaudium et Spes, số 50 và 51), Đức Phaolô VI nhìn nhận rằng việc sinh sản phải “có trách nhiệm”, và chỉ ra các phương pháp tự nhiên như là phương tiện để thực hiện trách nhiệm này. Sau đó, trong Tông huấn Familiaris consortio, Đức Gioan-Phaolô II sẽ nhấn mạnh sự cần thiết của việc suy tư thần học để đào sâu – ngoài khía cạnh sinh học đơn thuần – ý nghĩa nhân học và luân lý của “sự lựa chọn các chu kỳ tự nhiên”: sự lựa chọn này “thực sự bao hàm cả việc chấp nhận thời gian của nhân vị, nghĩa là của người nữ, và với cả việc chấp nhận đối thoại, tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ trách nhiệm, làm chủ bản thân”.
Vatican News: Ở đoạn số 14 của Humanae Vitae, Đức Phaolô VI khẳng định rằng mọi phương tiện ngăn cản việc sinh sản đều là bất hợp pháp, một lệnh cấm có thể gây ra “khoảng cách” giữa các tín hữu và Huấn quyền. Đức Cha nghĩ sao về điều này?
Đức cha Paglia: Về phần mình, tôi đồng ý với tất cả các đoạn văn của Humanae Vitae. Bạn sẽ không tìm thấy ai bảo vệ sự sống con người cách quyết liệt và kiên cường hơn tôi. Tôi nghĩ rằng Thông điệp này phải được đọc trong tính thời sự của nó, vốn liên quan đến việc sinh sản của các mối quan hệ con người. Chúng ta đang đối mặt với những thách thức mang tính thời đại: vào thập niên 1960, “viên thuốc” dường như là một cái xấu tuyệt đối. Ngày nay, chúng ta đang đối mặt với những thách thức còn lớn hơn nữa: sự sống của toàn thể nhân loại đang lâm nguy nếu chúng ta không ngăn chặn được vòng xoáy của các cuộc xung đột, vũ khí, nếu chúng ta không ngăn chặn việc phá hủy môi trường. Tôi muốn có một lối đọc sáp nhập Humanae Vitae với các thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô (và của Đức Gioan-Phaolô II) và với Tông huấn Amoris laetitia, để mở ra một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa nhân bản toàn diện. Toàn diện, bằng cách bỏ đi các lối đọc một phần. Rốt cuộc, Đức Hồng y Zuppi, trong thông điệp gởi tới cuộc hội thảo, đã viết rằng điều “rất quan trọng là chúng ta tránh tiến hành theo những vòng tròn hẹp và đồng nhất, mà cuối cùng sẽ có ý định lặp lại các lập trường của các tham dự viên, mà không kích hoạt một cuộc đối thoại chân thành và đích thực”. Quả thật, bởi vì – tôi xin nhắc lại – ngày nay, thách thức của sự tiếp tục, của việc bảo vệ, của sự phát triển sự sống con người phải được đặt ra theo cách thức chiều ngang, như Thông điệp Laudato si’ và Fratelli tutti dạy chúng ta.
Vatican News: Liệu có thể liên kết lại, và nếu có thì bằng cách nào, Thông điệp Humanae Vitae với Tông huấn Amoris laetitia?
Đức cha Paglia: Mối liên kết là gia đình. Bằng cách định vị mình như là mô hình sinh sản của các mối tương quan nhân học cơ bản, gia đình chứng tỏ là “động cơ của lịch sử”, một trường học đích thực về sự sống, mở ra cho xã hội và thế giới, một “phòng thí nghiệm” các mối tương quan nhân loại và trách nhiệm dân sự. Như thế, từ thế hệ này sang thế hệ khác, gia đình mở ra cho thế giới và truyền đạt một cách sống trong đó, được ghi dấu không phải bằng sự chiếm hữu hay thống trị chuyên quyền, nhưng trao hiến và trách nhiệm, theo phong cách của nền sinh thái toàn diện mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã phác họa trong Thông điệp Laudato si’.
Trong chân trời này, chúng ta cũng có thể hiểu rõ mối liên hệ sâu xa giữa gia đình và Giáo hội. Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày điều này trong chương 3 của Amoris laetitia, khi ngài khẳng định “Giáo hội là một gia đình của các gia đình” (AL,87) và nói thêm: “Giáo hội tốt cho gia đình, gia đình tốt cho Giáo hội” (số 87).
Tý Linh
(theo VaticanNews)
2023
Nền văn minh Thánh Thể có dáng vẻ nào?
Nền văn minh Thánh Thể có dáng vẻ nào?
“Làm thế nào Thánh Thể có thể cứu nền văn minh” của R. Jared Staudt (ảnh: TAN Books)
NỀN VĂN MINH THÁNH THỂ CÓ DÁNG VẺ NÀO?
Tác giả: R. Jared Staudt
Ngày 16 Tháng Năm, 2023
– Một đoạn trích từ cuốn sách mới, “Làm thế nào Thánh Thể có thể cứu nền văn minh” (R. Jared Staudt, 16.05.2023).
Bí tích Thánh Thể không phải là một học thuyết để tin, mà là một thực tế để sống – một thực tế sẽ định hình cuộc sống của chúng ta và mọi việc chúng ta làm. Trong cuốn sách mới của tôi, “Bí tích Thánh Thể có thể cứu nền văn minh như thế nào”, tôi xem xét cách thức sự biến đổi sẽ lan tỏa khắp thế giới, trở thành hạt giống cho sự đổi mới nền văn minh của chúng ta, nếu chúng ta cho phép Bí tích Thánh Thể thay đổi chúng ta. Những gì sau đây là một đoạn trích từ chương cuối cùng:
Tôi thực sự tin rằng nền văn hóa Kitô giáo sẽ trỗi dậy trở lại, trừ khi thế giới sớm kết thúc. Trước tiên, mọi thứ có thể trở nên tồi tệ hơn, nhưng Giáo hội giữ cho những hạt giống của nền văn minh tồn tại, như chúng ta thấy trong cuốn tiểu thuyết hậu tận thế của Walter Miller A Canticle for Leibowitz – Một bài thánh ca cho Leibowitz – nơi mà sau chiến tranh hạt nhân, các tu sĩ một lần nữa giữ vững niềm tin và học cách để sống còn. Đây đơn giản là những gì Thánh Thể làm trên trần thế; giữa những thăng trầm văn hóa, Thánh Thể từ từ thay đổi mọi thứ! Chúng ta không nên quan niệm về một nền văn minh mới như một sự áp đặt đức tin Kitô giáo hay Giáo hội lên thế giới. Thiên Chúa, mặc dù Ngài toàn năng, nhưng không ép buộc chúng ta, và Ngài dành một khoảng trống rộng rãi cho sự tự do của chúng ta. Ngài muốn chúng ta trở nên đầy sức sống và muốn các tổ chức của con người đạt được công lý phù hợp với những thiện ích thực sự của tự nhiên. Vì Thánh Thể là trái tim của Giáo Hội cũng như trái tim của thế giới, Thánh Thể làm cho cõi trần nên sinh động để đạt được cùng đích của nó: thiện ích chung của xã hội.
Một nền văn minh mới sẽ không xảy ra một cách tình cờ. Nền văn minh đó sẽ nảy sinh nhờ công việc khó nhọc chậm chạp của các Kitô hữu đang hoạt động để làm cho mọi sự trở nên mới mẻ, được truyền cảm hứng và nên vững mạnh bởi sự hiện diện của Chúa Giêsu trong họ. Đây là cách Chúa Giêsu thay đổi thế giới: từng người một. Các giám mục Hoa Kỳ đã giải thích hiệu ứng lan tỏa này trong tài liệu “Mầu nhiệm Thánh Thể trong Đời sống Giáo hội” của các ngài về sự hồi sinh Thánh Thể: “Sự biến đổi cá nhân và luân lý được Thánh Thể nâng đỡ vươn tới mọi lĩnh vực của đời sống con người. Tình yêu thương của Chúa Kitô có thể thấm nhuần tất cả các mối tương giao của chúng ta: với gia đình, bạn bè và hàng xóm của chúng ta. Nó cũng có thể định hình lại toàn bộ cuộc sống của xã hội chúng ta. Mối tương giao của chúng ta với Chúa Kitô không bị giới hạn trong phạm vi riêng tư; nó không dành cho riêng chúng ta” (số 35). Một nền văn minh được hồi sinh nhờ Thánh Thể sẽ nhìn nhận việc thờ phượng Thiên Chúa là thiện ích cao nhất của nền văn minh đó, như một nguồn sống vượt trên chính nó mà nó phụ thuộc vào, đồng thời rút ra từ sức mạnh này khả năng sắp xếp mọi thứ trên thế giới một cách đúng đắn trong công bằng và bác ái.
Thánh Thể có thể cứu nền văn minh bằng cách cung cấp khả năng tâm linh để khôi phục trật tự và sự lành mạnh cho nền văn hóa của chúng ta. Sức mạnh của Thánh Thể trước hết là sức mạnh nội tâm, cần có để vượt qua khoảng trống đạo đức và tâm linh trong nền văn hóa của chúng ta. Chúng ta cử hành phụng vụ vì chính Thánh Thể, chứ không phải như một phương tiện để đạt được mục đích thực tế. Thánh Thể vẫn là một dấu hiệu cho thấy điều tốt đẹp nhất của chúng ta nằm ngoài thế giới này trong ngày Sabát vĩnh cửu của Thiên Chúa. Do đó, mục tiêu của Thánh Thể không phải là một nền văn minh mới mà là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Mặt khác, các mục tiêu của nền văn minh có thể được thực hiện nhờ sức mạnh của Thánh Thể, một sức mạnh thúc đẩy một trật tự đúng đắn và sự hài hòa trong cuộc sống con người. Nếu chúng ta tìm cách khôi phục mọi thứ bằng sức riêng của mình, chúng ta sẽ thất bại, nhưng với sự giúp đỡ của vị Vua thực sự của thế giới, chúng ta có thể truyền đi sức mạnh của sự thật và tình yêu chữa lành của Thiên Chúa. Mục tiêu của một nền văn minh Kitô giáo mới không phải là một chế độ thần quyền, vì Giáo hội luôn công nhận tính hợp pháp rõ ràng và riêng biệt của trật tự chính trị. Đại giáo đường không thể thay thế tòa thị chính, mặc dù nó phải đóng vai trò là trung tâm thực sự của thành phố và là điểm quy chiếu liên tục của thành phố trong những điều quan trọng nhất.
Văn hóa của thế giới Kitô giáo không phải là một thực thể chính trị đơn thuần. Dawson giải thích cách thế “Giáo hội thời trung cổ không phải là một quốc gia trong một quốc gia, mà là một xã hội siêu chính trị trong đó nhà nước là một cơ quan dưới quyền, mang tính địa phương và hạn chế. Lý tưởng nhất là có một xã hội vĩ đại – xã hội của những Kitô hữu – với một phẩm trật kép bao gồm các thừa tác viên lo việc tâm linh và các bộ trưởng lo việc trần thế.” Một nền văn minh Kitô giáo không do Giáo hội điều hành, vì nền văn minh đó phát sinh khi các thành viên của Giáo hội làm cho xã hội thấm nhuần các giá trị Kitô giáo thông qua sự lãnh đạo và công việc của họ. Vấn đề không chỉ đơn giản là có đủ người Công giáo ở các vị trí có ảnh hưởng, bởi vì chúng ta đã có điều đó nhưng lại không có tác dụng tốt, mà là để Chúa Giêsu hành động thông qua sự trung thành và ảnh hưởng hàng ngày của những người Công giáo bình thường. Ban đầu, nền văn minh Kitô giáo nảy sinh nhờ cuộc gặp gỡ bởi ý Chúa của Tin mừng với nền văn hóa Địa Trung Hải cổ đại, chủ yếu là triết học Hy Lạp và luật La Mã, được truyền đến các dân tộc mới ở châu Âu, những người man rợ. Bản thân nền văn hóa này không có gì đặc biệt đối với châu Âu, vì một mô hình giáo dục và công lý tương tự có thể phát sinh ở bất cứ đâu trên thế giới. Không có một cách làm việc đặc thù nào trong một xã hội Kitô giáo, không phải một nền văn hóa hay chính trị cụ thể nào, mà là một lối sống Kitô giáo làm thay đổi cách chúng ta suy nghĩ và tất cả những gì chúng ta làm.
Đức tin nhất thiết phải tạo ra văn hóa bằng cách làm cho thế giới thấy được những thực tại tâm linh, mặc dù trước hết chúng ta phải có đức tin để xây dựng lại nền văn minh! Dawson nhận ra một cách đúng đắn rằng bất cứ nơi nào nền văn hóa đó phát sinh, “thì việc quay trở lại Kitô giáo là điều kiện không thể thiếu để phục hồi trật tự tâm linh và làm cho cộng đồng tâm linh trở nên hiện thực, vốn sẽ là nguồn sống mới cho nền văn minh của chúng ta.” TS Eliot nêu rõ một điểm tương tự: “Dù lời loan báo nghe có vẻ tin tưởng mù quáng, nhưng Kitô hữu có thể hài lòng với không gì khác hơn là một tổ chức xã hội Kitô giáo – điều này không giống với một xã hội chỉ bao gồm những Kitô hữu sùng đạo. Đó sẽ là một xã hội trong đó mục đích tự nhiên của con người – đức hạnh và phúc lợi trong cộng đồng – được thừa nhận cho tất cả mọi người, và mục đích siêu nhiên – hạnh phúc đích thật – cho những ai có mắt để nhìn thấy nó.” Eliot đặt ra hai mục tiêu thiết yếu: thừa nhận và sống những điều tốt đẹp của tự nhiên, đồng thời hướng chúng đến một mục tiêu cuối cùng bên kia thế giới này. Vì chúng ta đã trải qua điều mà Nietzsche gọi là sự nghịch đảo trật tự mọi giá trị, nên việc khôi phục nền văn minh Kitô giáo sẽ một lần nữa gây ra sự truy ngược để trở về tình trạng trước kia, lộn đầu thế giới xuống (Công vụ 17: 6) để nó sẽ lại nằm ở phía bên phải – coi trọng sự khiêm nhường hơn là kiêu hãnh, hy sinh hơn là ích kỷ, thư thái hơn là bận rộn điên cuồng, và trao tặng hơn là tiêu dùng.
Về mặt làm việc vì lợi ích tự nhiên, Kitô hữu có thể hợp tác với tất cả những người thiện chí, đặc biệt là anh em Kitô hữu của chúng ta. Bí tích Thánh Thể truyền cảm hứng cho chúng ta lật đổ nền văn hóa sự chết bằng cách nhấn mạnh đến giá trị nội tại của sự sống. Tông huấn Sacramentum Caritatis – Bí tích Tình yêu – của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Lương thực sự thật đòi hỏi chúng ta tố cáo những tình trạng vô nhân đạo trong đó con người chết đói vì bất công và bóc lột, và nó mang lại cho chúng ta sức mạnh và can đảm mới để làm việc không mệt mỏi phục vụ nền văn minh tình thương” (số 90). Từ ngữ tình yêu đã được làm sáng tỏ ý nghĩa. Thay vì là một cảm giác tìm kiếm sự thỏa mãn cho riêng mình, thì tình yêu đích thực hy sinh vì lợi ích của người khác. Một xã hội Kitô giáo phải khước từ những lời nói dối tai hại và khước từ đem lại cho điều ác một vị thế công khai. Thực vậy, chính vì tình yêu mà xã hội Kitô giáo phải từ chối khẳng định điều ác là điều tốt trong khi bảo vệ những người dễ bị tổn thương khỏi sự bóc lột của xã hội công nghệ của chúng ta. Như Đấng Đáng Kính Jérôme Lejeune đã nói một cách khéo léo, “Phẩm chất của một nền văn minh được đo lường bằng sự tôn trọng mà nền văn minh đó dành cho những thành viên yếu kém nhất.” Một nền văn minh Kitô giáo được đánh dấu bằng tình yêu, tạo ra một môi trường làm cho việc trở nên người lương thiện được dễ dàng hơn, bởi vì nền văn minh đó tìm kiếm những mục tiêu đúng đắn, những mục tiêu dẫn đến sự triển nở của con người.
Một nền văn minh Kitô giáo chấp nhận một sự giản dị hơn bởi vì nó không tìm kiếm một điều không tưởng trên trái đất hay sự vui chơi của loài người (như trong dự án siêu phàm của ma quỷ). Nền văn minh đó đặt thiện ích trần gian trong quan điểm đúng đắn là có giới hạn và được sắp đặt để hướng tới những điều cao cả hơn. Nhân đức của tôn giáo, nhân đức vốn trả lại Thiên Chúa những gì là của Ngài và quy về Ngài trong mọi sự, là nhân đức của người công dân vì Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của mọi của cải trần thế. Một xã hội lành mạnh tôn vinh Thiên Chúa và sống theo cách làm đẹp lòng Ngài, điều này cũng dẫn đến hạnh phúc của các công dân của xã hội đó. Một nền văn minh Kitô giáo giữ đức tin trong danh dự, tìm kiếm các giải pháp lấy cảm hứng từ đức tin đó và đoàn kết mọi người lại với nhau để theo đuổi những thiện ích cao nhất. Để vượt qua trào lưu tục hóa, nền văn minh Kitô giáo cho phép thực hành đức tin một cách công khai, chứ không chỉ đơn giản là một đức tin riêng tư vốn phải đấu tranh để thể hiện bản thân một cách nhất quán và đủ bản lĩnh. Giống như những ngọn tháp chóp nón của Vương cung thánh đường Sagrada Familia ở Barcelona, nền văn minh Kitô giáo có thể trỗi dậy trong thế giới hiện đại, không chỉ đơn giản là trở về quá khứ. Nền văn minh Kitô giáo sẽ là một sáng tạo mới, dựa trên di sản vĩ đại của nền văn hóa Kitô giáo và thể hiện nền văn hóa đó theo một cách mới mẻ, kết hợp những tiến bộ đích thực của thế giới hiện đại đồng thời tích hợp chúng vào một tầm nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống con người.
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: ewtn.co.uk (17.05.2023)
2023
Truyền thông trong tầm nhìn của Đức Thánh Cha Phanxicô
1. Một cách tốt để tiếp cận ý nghĩa truyền thông là qua ngả sứ mạng
Kể từ Công đồng Vatican II, chúng ta đã nghe và nói nhiều về Hội Thánh là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ mạng. Chẳng hạn, chủ đề Năm thánh 2010 của Giáo hội Việt Nam…
Hiện nay, chúng ta đào sâu phong cách hiệp hành của Hội Thánh, với các chiều kích hiệp thông, tham gia và sứ mạng được hiểu một cách toàn nhập, trong đó sứ mạng là định hướng nền tảng.
Mới năm ngoái, một số cải cách giáo triều được thực hiện (với Tông hiến Praedicate Evangelium, 19.3.2022), trong đó Bộ Loan báo Tin Mừng (tức là ‘Bộ Sứ mạng’ đó!) được xếp thứ nhất trong các Bộ, và được đặt dưới sự đứng đầu trực tiếp của chính Đức thánh cha…
Tất cả những điều này xác nhận bản chất hay lý do hiện hữu của Giáo hội là sứ mạng thừa sai. Trong Hội Thánh, mọi sự đều được định hướng sứ mạng. Bất cứ gì không được định hướng sứ mạng thì có nguy cơ đi lạc!
2. Sứ mạng Kitô giáo là loan báo Tin Mừng
Chúng ta cũng thường nói: ‘rao giảng’, ‘giảng dạy’, ‘truyền bá Phúc Âm’, ‘truyền bá đức tin’, ‘truyền giáo’, ‘đối thoại’ (với văn hóa, tôn giáo, với người nghèo), ‘làm chứng’ (trao chứng từ, chứng tá)… Những động từ này đều thuộc về ý nghĩa truyền thông! Như vậy, truyền thông là hành động, là công việc của Giáo hội. Đối với Giáo hội, sống là truyền thông. “Làm sao người ta nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14).
Thật vậy, Giáo hội chưa bao giờ coi nhẹ truyền thông; nếu có những bất cập, thì thường là do ‘lực bất tòng tâm’… Đặc biệt, trong thời đại truyền thông bùng nổ của chúng ta, với biết bao cơ hội và thách đố của nó, Giáo hội càng quan tâm đến truyền thông và giáo dục truyền thông. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức giáo triều, có Bộ Truyền Thông (Dicastery for Communication). Rất nhiều mạng lưới truyền thông Kitô giáo đã được thiết lập và hoạt động ở cấp hoàn vũ, châu lục, quốc gia, giáo phận, giáo xứ… Các khóa đào tạo hay bồi dưỡng về truyền thông được tổ chức, và thường nhắm những mục tiêu thiết thực như:
– Giúp hiểu vai trò thiết yếu của truyền thông trong sứ mạng của Giáo hội.
– Giúp hiểu sức mạnh của truyền thông và ảnh hưởng của nó trên đời sống con người.
– Giúp phân tích với óc phê bình các sản phẩm truyền thông.
– Giúp đạt được các kỹ năng truyền thông hữu hiệu hơn, cải thiện việc truyền đạt và tiếp thu.
– Nhận ra nhu cầu phải quan tâm nhiều hơn đến truyền thông xã hội trong các chương trình đào tạo…
3. Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội
Với tầm quan trọng của truyền thông như vậy, Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội đã được Đức thánh cha Phaolô VI thiết lập vào năm 1967, và được cử hành hằng năm cho đến nay. Ba năm gần đây, đồng nhịp với sự kiện Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành, Đức Phanxicô có một loạt Sứ điệp về truyền thông vừa rất sâu sắc vừa rất thực tiễn. Các chủ đề lần lượt là:
– Năm 2021: Hãy đến và xem! (Ga 1,46) –Truyền thông [là] gặp gỡ mọi người trong thực tế của họ.
– Năm 2022: Lắng nghe bằng trái tim
– Năm 2023: Nói bằng trái tim – “Sự thậttrong tình yêu” (Ep 4,15).
Như thế, Đức thánh cha quảng diễn giáo huấn về truyền thông của ngài gắn với các hành động truyền thông cơ bản: đến, xem, lắng nghe, và nói – tất cả đều từ trái tim!
4. “Hãy đến và xem! (Ga 1,46) – Truyền thông [là] gặp gỡ mọi người trong thực tế của họ”
Nguồn cảm hứng ở đây là một loạt các mẩu chuyện trong Tin Mừng Gioan:
– Chúa Giêsu mời hai môn đệ đến và xem Người là ai, chỗ của Người thế nào (x. Ga 1,35-39)…
– Philipphê giới thiệu về Chúa Giêsu, Nathanael nghi ngờ, và Philipphê đề nghị “Cứ đến mà xem” (x. Ga 1,45-46)…
– Những người dân của làng Samari nọ nói với người phụ nữ: “Giờ đây chúng tôi tin không phải vì chị nói, mà vì chính chúng tôi đã trực tiếp gặp và nghe…” (Ga 4,42).
Internet là công cụ truyền thông kỳ diệu của thế giới hiện đại. Với đặc tính ‘toàn cầu’ và ‘ngay lập tức’, nó dường như có thể đưa chúng ta đến và xem trực tiếp bất cứ sự kiện nào ở bất cứ đâu mà không cần phải di chuyển gì cả. Nói chung là đúng như vậy, và ta biết ơn với sự trân trọng công cụ này. Nhưng Đức thánh cha đặc biệt lưu ý, những thông tin và hình ảnh trực tiếp ấy rất dễ bị thao túng. Ta dễ bị đánh lừa và lạc xa sự thật. Song điều thiết yếu nhất mà Đức thánh cha nhấn mạnh, đó là không gì thay thế được việc có mặt và gặp gỡ trực tiếp. Ta nghĩ đến tầm quan trọng của việc các tướng lĩnh thị sát mặt trận; các giám mục, linh mục đến thăm dân chúng; các phóng viên, nhà báo làm phóng sự trực tiếp từ chiến trường, hiện trường… Không công nghệ nào có thể thay thế được những việc ‘thị sát’ trực tiếp ấy!
Chúng ta nghĩ gì về các chuyến tông du mục vụ liên tiếp của vị giáo hoàng đã rất cao tuổi? Và nghĩ gì về cái cám dỗ ‘mục vụ từ xa’ qua việc lạm dụng các phương tiện thông tin (điện thoại, email, page, website…)? Hãy nghĩ đến chính kinh nghiệm của bạn về sự khác biệt giữa gặp trực tiếp và những cách thức gián tiếp khác!…
5. “Lắng nghe bằng [lỗ tai của] trái tim”
Nối tiếp lời mời gọi đến xem và gặp gỡ trực tiếp là lời mời gọi lắng nghe. Chính Thiên Chúa thông truyền điều răn của Ngài bằng lời kêu gọi đã trở thành công thức: “Shema’ Israel – Nghe đây, hỡi Israel” (Đnl 6:4). Thiên Chúa yêu thương, ngỏ lời với loài người, và Ngài “nghiêng tai” để lắng nghe họ. Thánh Phaolô nhắc: “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17)… Tầm quan trọng của lắng nghe là điều thực ra quá hiển nhiên rồi, trong khung cảnh thế giới lẫn Giáo hội. Sự nhấn mạnh của Đức thánh cha nằm ở chỗ: lắng nghe bằng trái tim!
Rất tiếc là do định kiến chủ quan và tự mãn, con người thường có xu hướng ‘bịt tai’ để tránh lắng nghe – như những người Do thái đối xử với Têphanô: “Họ bịt tai lại, và nhất tề xông vào ông” (Cv 7,57). Đức thánh cha nêu một số biểu hiện của tình trạng thiếu khả năng lắng nghe, mà ta có thể xác nhận qua quan sát thế giới truyền thông lẫn từ kinh nghiệm của bản thân mình:
– không chăm chú nghe, mà vội nói (vì thế, Thư Gc 1,19 khuyên: “Phải mau nghe, đừng vội nói”);
– nghe lén (nhằm dò xét, khai thác người khác cho lợi ích riêng mình);
– mạnh ai nấy nói (nhằm tranh thủ sự đồng thuận chứ không phải tìm kiếm sự thật);
– độc thoại kiểu song tấu (duologue) chứ không đối thoại (dialogue), vì không hề có giao tiếp thực sự;
– thiếu kiên nhẫn và thiếu khả năng ngạc nhiên…
Vì thế, như Đức thánh cha ghi nhận, sau dụ ngôn về người gieo giống, Chúa Giêsu đã lưu ý: “Hãy để ý tới cách thức anh em nghe” (Lc 8,18). Chỉ những ai đón nhận Lời với tấm lòng “cao thượng và quảng đại” và trung thành tuân giữ thì mới sinh hoa kết quả là sự sống và ơn cứu độ (x. Lc 8,15). Nghe với tấm lòng, đó là nghe bằng trái tim. Đây là ơn mà Vua Salomon đã thiết tha xin, và được gọi là khôn ngoan thực sự: “Xin ban cho con một tâm hồn biết lắng nghe” (1V 3,9). Các thánh rất hiểu tầm quan trọng của ‘cách thức nghe’ này – như thánh Augustinô (nghe bằng con tim, corde audire), thánh Phanxicô Assisi (hãy nghiêng đôi tai của tâm hồn).
Bối cảnh Thượng Hội đồng về tính hiệp hành hiện nay của chúng ta càng đặc biệt thích hợp để đào sâu thái độ lắng nghe bằng trái tim – vì một cách thực tiễn, hiệp hành cốt ở việc lắng nghe và phân định, cách đặc biệt việc lắng nghe của mục tử/bề trên đối với những thành viên bé nhỏ và yếu thế nhất trong cộng đoàn.
Bạn hãy nhớ lại chuyện anh mù ở Giêrikhô lên lời xin thương xót, có hai thái độ hay hai cách lắng nghe đấy, của Chúa Giêsu và của đoàn người đang bước đi. Ai đã lắng nghe bằng trái tim? Bạn có kinh nghiệm bản thân thế nào về sự khác biệt giữa nghe thông tin thuần túy và nghe cả cảm xúc, tâm tình? Đâu phải thông điệp nào cũng chỉ có một tầng ý nghĩa, nhiều thông điệp có những tầng ý nghĩa sâu xa đó chứ, phải không?
6. “Nói bằng trái tim – Sự thật trong tình yêu” (Ep 4,15)
Đây là chủ đề Sứ điệp Ngày Truyền thông năm nay của Đức thánh cha (2023).
– Đã đến, xem, và lắng nghe bằng trái tim, thì người ta sẽ có khả năng nói sự thật bằng trái tim. Tiêu chuẩn “bằng trái tim”, tức tiêu chuẩn “yêu thương”, một lần nữa được Đức thánh cha nêu bật. Ngài nhắn nhủ “Đừng sợ loan báo sự thật, nhưng hãy sợ nói sự thật mà không có lòng bác ái!” Chúa Giêsu cảnh báo: “Xem quả thì biết cây” (x. Lc 6,44), và “Người tốt lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu; vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (c. 45). Vì thế, cần thanh tẩy trái tim, nhất là trong một thế giới ồn ào nhiễu loạn, bóp méo thông tin và do đó sự thật bị thao túng.
– Người ‘Bạn đồng hành’ của hai môn đệ trên đường Emmaus là kiểu mẫu của truyền thông bằng trái tim, qua thái độ tận tình chia sẻ mà không áp đặt; giúp hiểu sâu xa về chuyện thời sự; làm cho lòng người nghe bừng cháy lên (x. Lc 24,32). Trong tình trạng phân cực và đối kháng hiện nay của cả thế giới lẫn trong Giáo hội, ta cần “giữ gìn miệng lưỡi khỏi mọi lời điêu ngoa” (x. Tv 34,14), “đừng thốt ra lời độc địa nào từ môi miệng mình, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,29). Đức thánh cha chia sẻ kinh nghiệm rằng trong thực tế, việc truyền thông bằng cả tấm lòng có thể đánh động ngay cả những trái tim chai cứng nhất…
– “Để nói thật tốt, chỉ cần yêu thương”! Đây là xác tín của thánh Phanxicô Salesio, bổn mạng các nhà báo Công giáo. Có thể mô tả tính cách của ngài bằng lời sách Huấn Ca: “Ăn nói dịu dàng thì tăng thêm bạn hữu, phát biểu dễ thương thì tăng thêm lời thân ái” (Hc 6,5). Với tuyên ngôn nổi tiếng “từ trái tim nói với trái tim”, ngài nhắc nhở rằng “ta truyền thông cái gì, thì ta là cái đó”!
– Nói bằng trái tim trong tiến trình hiệp hành: Đức thánh cha nhắc rằng cách riêng trong Giáo hội, lắng nghe là món quà đem lại sức sống và quí giá nhất mà chúng ta có thể trao cho nhau. Và chúng ta cần sự truyền thông có sức thắp sáng những trái tim, làm dịu các vết thương và chiếu sáng trên hành trình của các anh chị em mình. Đó là một nền truyền thông được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, biết dịu dàng song cũng có tính ngôn sứ, biết tìm ra những cách thế mới cho công cuộc rao giảng Tin Mừng! Một nền truyền thông biết cách thắp lửa đức tin thay vì lo giữ đống tro tàn của một cốt cách tự mãn qui chiếu về chính mình. Đó là một nền truyền thông không bao giờ tách rời sự thật khỏi lòng bác ái.
– “Lưỡi mềm bẻ gãy xương”, Đức thánh cha dẫn lời này trong sách Châm ngôn (25,15) để cổ võ một ngôn ngữ hòa bình trong thế giới nhiễm nặng xu hướng đối đầu của chúng ta. Ngày nay, việc nói bằng trái tim càng khẩn thiết để củng cố một nền văn hóa hòa bình, hòa giải ở những nơi lan tràn chiến tranh và thù hận. Cần phải vượt qua cái thói “làm mất uy tín và xúc phạm đối thủ một cách phủ đầu [thay vì] mở ra một cuộc đối thoại đầy tôn trọng”. Cần loại bỏ cái tâm bệnh hiếu chiến đồn trú trong trái tim mình. “Hòa bình đích thực chỉ có thể được xây dựng trong lòng tin tưởng nhau” (Pacem in Terris). Vận mệnh của hòa bình được quyết định bởi sự hoán cải của các tâm hồn, vì vi rút chiến tranh phát xuất từ trong lòng người ta. Mỗi chúng ta được mời gọi liên can vào nỗ lực này, và cách riêng đây là trách nhiệm của những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông.
Hãy tự vấn: Có trường hợp nào mà chúng ta nói năng, hành động mà không cần động cơ bác ái không? Chúa Phục sinh giúp hai môn đệ Emmaus hiểu chuyện ‘thời sự’, điều này có thể gợi nhắc gì cho ta? Phải chăng chúng ta dễ sa đà trả lời những câu hỏi mà không ai hỏi? Bạn có những băn khoăn, thao thức rất quan trọng mà bạn không dám nói ra, vì bạn sợ mình không được lắng nghe bằng trái tim? Bạn nghĩ gì về những phát ngôn đầy sân si thù hận hay thô tục, bạo lực một cách bất xứng của nhiều người Công giáo trên mạng xã hội?
7. Một số đề cập khác của Đức Phanxicô về truyền thông
Sẽ là thiếu sót lớn nếu giới thiệu tầm nhìn về truyền thông của Đức thánh cha Phanxicô mà không nhắc đến những đề cập của ngài liên hệ đến chủ đề này trong các văn kiện giáo huấn quan trọng. Sau đây là một số nội dung đáng chú ý:
– Tông huấn Evangelii Gaudium (2013): Chương 3, về bài giảng lễ (số 135-144) và việc chuẩn bị bài giảng lễ (số 145-159) của các thừa tác viên chức thánh. Và Chương 5, dưới tiêu đề “Những người loan báo Tin Mừng đầy Thánh Thần” (số 259-288), Đức thánh cha gợi những nguyên tắc và cách thức canh tân động lực loan báo Tin Mừng.
– Tông huấn Gaudete et Exsultate (2018): Chương 4, về “Các dấu hiệu của sự thánh thiện trong thế giới ngày nay”, Đức thánh cha nêu các dấu hiệu đầu tiên là kiên trì, nhẫn nại và hiền hòa, trong đó ngài cảnh giác về những cách phát ngôn tùy tiện trên mạng xã hội (số 115) và kêu gọi chúng ta không để mình bị cuốn vào xu hướng bạo lực (số 116).
– Tông huấn Christus Vivit (2019), gửi các bạn trẻ và toàn dân Thiên Chúa: Chương 3 dưới tiêu đề “Các con là hiện tại của Thiên Chúa”, Đức thánh cha đề cập đến “môi trường kỹ thuật số” (số 86-90) với những cơ hội và những cạm bẫy cần được nhận diện trong môi trường này.
– Thông điệp Fratelli Tutti (2020): Chương 1, trình bày bối cảnh thế giới qua hình tượng “Mây đen phủ trùm một thế giới đóng kín”, Đức thánh cha gọi tên một phần ‘mây đen’ đó là “ảo tưởng của truyền thông” (số 42-50), với những lưu ý về sự hung hăng thù hận đang lan tràn, và sự khẩn thiết phải vãn hồi khả năng gặp gỡ, lắng nghe và đối thoại…
Quả thật, truyền thông hiện đại, nhất là mạng xã hội, đặt ra nhiều vấn đề gai góc, chúng ta nên dứt khoát ‘OFF’ hay ngắt nối kết cho an toàn? Hay là chúng ta nên ‘ON’ và ‘UP’ những sản phẩm truyền thông của mình, ngần nào có thể, và luôn ‘bằng trái tim’ theo lời mời gọi của Đức thánh cha?
8. Lời kết
Trên đây chưa phải là sưu tập đầy đủ về các góc cạnh trong tầm nhìn của Đức thánh cha Phanxicô về truyền thông. Nhưng ta có thể nhận ra mối quan tâm đặc biệt của ngài, sự phong phú trong các nội dung ngài đề cập, và đặc tính mục vụ rất nổi bật trong giáo huấn của ngài về truyền thông. Ai quan sát ngài đều có thể ghi nhận, ngài là một mục tử rất giàu những tố chất ‘đến và xem’, ‘lắng nghe bằng trái tim’ và ‘nói sự thật bằng trái tim’.
Chúng ta biết ơn ngài bằng cách hưởng ứng các giáo huấn của ngài trong thực tế, trong tư cách là người tiếp nhận truyền thông cũng như là người làm truyền thông. Và như vậy, chúng ta có thể hy vọng mở ra một tương lai sáng sủa hơn cho sứ mạng của Giáo hội.
Xin mượn tâm tình gợi ý cầu nguyện của chính Đức thánh cha: “Xin Chúa Giêsu, là Lời thuần khiết tuôn chảy từ trái tim Chúa Cha, giúp chúng ta làm cho việc truyền thông của mình nên sáng tỏ, cởi mở và thân ái. Xin Chúa Giêsu, là Lời nhập thể, giúp chúng ta lắng nghe nhịp đập của các con tim, để khám phá lại mình là anh chị em của nhau, và giải giới lòng thù hận vốn gây chia rẽ. Xin Chúa Giêsu, Lời chân lý và tình yêu, giúp ta nói sự thật trong bác ái, để chúng ta cảm nhận mình là những người bảo vệ lẫn nhau”… Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
Ngày 21.5.2023