2023
ĐTC cầu nguyện cho các nạn nhân của hỏa hoạn ở Hawaii
ĐTC cầu nguyện cho các nạn nhân của hỏa hoạn ở Hawaii
Đức Thánh Cha Phanxicô vô cùng đau buồn khi biết về thiệt hại nhân mạng và sự tàn phá do cháy rừng gây ra trên đảo Maui của Hawaii.
Bốn đám cháy bắt đầu vào ngày 8/8/2023 trong mùa hè khô, và gió mạnh từ cơn bão Dora gần đó đã làm cho các đám cháy càng mạnh hơn. Nhiều người dân đã bất ngờ trước ngọn lửa lan nhanh và phải đi bộ tháo chạy, trong khi hàng ngàn du khách đã được sơ tán. Trận hỏa hoạn khủng khiếp trên đảo Maui đã phá hủy thành phố lịch sử Lahaina, một địa điểm du lịch nổi tiếng.
Hỏa hoạn tại thành phố Lahaina trên đảo Maui, Hawaii
Trong điện văn gửi Đức Tổng Giám mục Christophe Pierre, Sứ thần Tòa thánh tại Hoa Kỳ, Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin viết: “Đức Thánh Cha Phanxicô vô cùng đau buồn khi biết về thiệt hại nhân mạng và sự tàn phá do cháy rừng gây ra trên đảo Maui của Hawaii.” Đức Thánh Cha bày tỏ “tình liên đới với những người phải chịu đựng thảm kịch này, đặc biệt với tất cả những người có người thân đã chết hoặc mất tích”.
Tình trạng khẩn cấp đã được ban bố trên toàn đảo Maui và chính quyền khuyến cáo người dân không nên đi lại. Trong ngày 11/8 chính quyền đảo Maui ghi nhận thêm 19 người chết, nâng tổng số người chết lên 55. Một ngàn người được cho là mất tích và hơn 11.000 người phải sơ tán. Tại thị trấn Lahaina, hơn 1.770 tòa nhà ở trung tâm lịch sử hiện đã bị tàn phá và nhiều người phải chạy xuống biển để thoát khỏi ngọn lửa.[ Photo Embed: Thành phố lịch sử Lahaina bị hỏa hoạn thiêu rụi]
Thống đốc bang Hawaii Josh Green cho biết khoảng “80%” thành phố đã bị phá hủy, “như thể nó bị đánh bom.” Ông Green nói rằng đây là thảm kịch thiên nhiên lớn nhất của thế hệ này ở Hawaii và nghĩ rằng số người chết có lẽ sẽ tăng “rất đáng kể” và hiện tại, có khoảng 1.000 người không thể liên lạc được.
Hàng ngàn người đã tìm nơi ẩn náu trong những nơi trú ẩn tạm thời, trong khi các du khách đang cố gắng rời đảo. Trong khi đó, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp và cam kết rằng “mọi tài sản chúng tôi có sẽ dành” cho người dân Hawaii.
Trong điện văn, Đức Hồng y Parolin đảm bảo với các nạn nhân của hỏa hoạn lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cho những người đã chết, những người bị thương và những người phải di dời, cũng như cho các nhân viên cấp cứu tham gia vào các nỗ lực cứu trợ. Và như một dấu chỉ của sự gần gũi thiêng liêng của ngài, Đức Thánh Cha khẩn cầu “các phúc lành của sức mạnh và hòa bình của Thiên Chúa toàn năng xuống trên tất cả mọi người”.
Người dân Lahaina lâm cảnh khốn khó
Vatican News
2023
Đức Giáo hoàng nên được gọi bằng tước hiệu gì?
Một cái nhìn thú vị về những vị giáo hoàng không lấy tên mới và những vị đã lấy tên mới – tại sao, khi nào và điều gì tiếp theo sau đó.
Ngay sau khi một tân giáo hoàng được bầu chấp nhận vai trò của mình, ngài phải đối mặt với câu hỏi: “Ngài sẽ được gọi bằng tước hiệu gì?”
Ngày nay, người ta cho rằng bất cứ vị nào trở thành giáo hoàng đều sẽ nhận cho mình một tước hiệu giáo hoàng mới. Trên thực tế, gần nửa thiên niên kỷ đã trôi qua kể từ khi một vị giáo hoàng sử dụng tên thật (tên khai sinh) của mình.
Tuy nhiên, trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, các vị giáo hoàng đều đã sử dụng tên thật của mình. Quan niệm về việc nhận tước hiệu mới của giáo hoàng (tông hiệu) vốn bắt đầu vào năm 533, khi một linh mục tên là Mercurius được chọn làm giáo hoàng và ngài quyết định rằng thật không phù hợp đối với Giám mục Rôma khi sử dụng một tên gọi vốn dành để tôn vinh vị thần ngoại giáo là Mercury. Vì vậy, ngài đã bỏ qua tên thật của mình và trở thành Đức Giáo hoàng Gioan II.
Mặc dù không có nhiều thông tin về triều đại giáo hoàng kéo dài hai năm của ngài, nhưng dường như Đức Giáo hoàng Gioan II là một con người vững vàng về phương diện luân lý, khi ngài đã cầm giữ ít nhất một giám mục có thói trăng hoa trong một đan viện.
Vị thứ hai chọn cho mình một tước hiệu là Đức Giáo hoàng Gioan III. Với tên thật “Catelinus”, ngài vốn là con của một thành viên ưu tú của Viện nguyên lão Rôma. Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài gần đúng 13 năm (17 tháng 7 năm 561 đến 13 tháng 7 năm 574), một thành tựu không nhỏ trong thời đại đó. Đức Giáo hoàng Gioan III dường như có sự thích nghi rất tốt. Và trong một thời kỳ đặc biệt hỗn loạn, ngài đã thực hiện trọng trách giáo hoàng của mình tại một địa điểm đặc biệt cách Rôma vài dặm.
Không có giáo hoàng tiếp theo nào nhận lấy tước hiệu mới cho đến thế kỷ thứ X.
Với tên thật “Octavian”, Đức Giáo hoàng Gioan XII rõ ràng là một thanh niên có mối quan hệ rộng rãi khi được chọn làm giáo hoàng ở độ tuổi 20 vào năm 955. Mặc dù đã trở thành Giám mục Rôma, nhưng “các công việc của Giáo Hội dường như không có sức hấp dẫn” đối với vị giáo hoàng này. Thay vào đó, ngài “sống cả đời trong sự phù phiếm và ngoại tình”. Sau khi nắm giữ cương vị giáo hoàng theo cách này hơn tám năm, ngài đã qua đời trong tình cảnh không mấy rõ ràng.
Vị thứ tư lấy tước hiệu mới là Đức Giáo hoàng Gioan XIV. Sinh ra vào thế kỷ thứ X với tên gọi Peter Canepanova, ngài không được bầu chọn bởi bất kỳ giáo sĩ hay cuộc bỏ phiếu phổ thông nào, mà theo quyết định riêng của Hoàng đế Rôma là Otto II.
Khi Otto II qua đời ngay sau đó, Đức Giáo hoàng Gioan XIV mất đi đồng minh chính (có lẽ là duy nhất) và bị tổn thương cả về chính trị lẫn thể chất. Một người chống đối giáo hoàng đã sớm xông đến để chiếm ngôi giáo hoàng và tống giam Đức Gioan XIV vào Castel Sant’Angelo, nơi ngài qua đời vì những nguyên nhân bất thường vào ngày 20 tháng 8 năm 984. Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài suốt 8 tháng, bao gồm cả thời gian bị giam cầm.
Được sinh ra vào năm 972 với tên thật Bruno xứ Carinthia, Đức Giáo hoàng Grêgôriô V là con của một công tước và được phong làm giáo hoàng bởi Hoàng đế Rôma là Otto III, người anh em họ của ngài. Triều đại giáo hoàng của ngài bắt đầu vào ngày 03 tháng 5 năm 996 và kết thúc gần ba năm sau đó với cái chết đột ngột và đáng ngờ vào ngày 18 tháng 02 năm 999.
Ngay sau triều đại giáo hoàng của Đức Grêgôriô V, các giáo hoàng về sau sẽ lấy một tước hiệu mới theo thông lệ. Kết quả là chỉ có hai vị giáo hoàng trong thời hiện đại giữ nguyên tên thật của mình.
Đầu tiên là Đức Giáo hoàng Adrianô VI. Đậy là vị giáo hoàng người Hà Lan duy nhất trong hai thiên niên kỷ qua với tên thật Adriaan Florensz Boeyens. Là con của một người thợ mộc, ngài trở thành giáo sư thần học lâu năm và làm người giám hộ cho Hoàng đế Rôma tương lai là Charles V.
Vào ngày 09 tháng 01 năm 1522, Đức Giáo hoàng Adrianô VI được chọn như một sự thỏa hiệp giữa các phe nhóm các hồng y đang tranh cãi, nhiều vị hồng y sau đó đã tỏ ra phẫn nộ đối với vị giáo hoàng mới này khi rõ ràng ngài là người thực sự nghiêm túc trong việc xóa bỏ tham nhũng và tiêu xài hoang phí.
Đức Giáo hoàng Adrianô VI là một vị giáo hoàng chính trực, người thực sự muốn cải tổ một Giáo Hội đang sa lầy trong bãi cát lún của sự giả tạo, buông thả và xa hoa, cũng như trong bối cảnh các hoàng tử Công giáo đang gây chiến với nhau, mối đe dọa ngày càng tăng từ Đế quốc Ottoman và một cuộc Cải cách Tin lành mới manh nha.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của ngài là các hồng y muốn tiếp tục sống như các hoàng tử thời Phục hưng. Hai mươi tháng sau triều đại giáo hoàng của mình, ngài qua đời vào ngày 14 tháng 9 năm 1523, ở tuổi 64 – kiệt sức, phẫn uất và liêm khiết.
Vị gần đây nhất giữ nguyên tên thật của mình là Đức Giáo hoàng Marcellô II. Sinh năm 1501 với tên gọi Marcello Cervini degli Spannocchi, ngài là con trai của một người giữ quỹ giáo hoàng.
Khi triều đại giáo hoàng của ngài bắt đầu vào ngày 09 tháng 4 năm 1555, Đức Marcellô II đã lâm bệnh. Ngài qua đời vì đột quỵ ba tuần sau đó.
Với việc Đức Marcellô II đã có một triều đại giáo hoàng ngắn ngủi như vậy, chúng ta có thể tự hỏi rằng liệu việc giữ lại tên thật của giáo hoàng có bị xem là điều chẳng may hay không. Dù sao đi nữa cũng không có vị tân giáo hoàng nào giữ lại tên thật của mình kể từ thời điểm đó.
Tác giả: Ray Cavanaugh
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2023
“Hermanito”, cuốn sách về cuộc phiêu lưu của Ibrahima Balde, thường được Đức Phanxicô trích dẫn
“Cuốn Hermnanito (Em Trai), các bạn hãy đọc nó và các bạn sẽ thấy bi kịch của những người di cư”. Trên chuyến bay đưa ngài trở về từ JMJ ở Lisbon vào Chúa Nhật ngày 6 tháng 8 năm 2023, Đức Phanxicô một lần nữa trích dẫn cuốn sách nhỏ này được xuất bản vào năm 2021 bởi Amets Arzallus, người đã kể lại cuộc phiêu lưu kéo dài ba năm của Ibrahima Balde giữa đất nước của anh, là Guinea, và Tây Ban Nha.
Amets Arzallus và Ibrahima Balde
Được Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn kể từ năm 2001, “Hermanito” là một cuốn sách kể về cuộc phiêu lưu của một cậu bé người Guinea rời quê hương hơn tám năm trước. Ibrahima Balde là con cả trong gia đình. Kể từ khi cha qua đời, anh cảm thấy gánh nặng trách nhiệm gia đình đè nặng lên vai mình, đặc biệt là với em trai, người đã ra đi hướng đến Libya trước đó với ý định vượt Địa Trung Hải và đến châu Âu. Để hoàn thành sứ mệnh mà cha mình giao phó, làm hết sức có thể để đảm bảo việc học hành của em trai mình, đến lượt mình Ibrahima ra đi, không phải để di cư mà để tìm người em út trước khi nó bắt tay vào cuộc vượt biển. Cuộc hành trình về phía bắc đưa anh băng qua Mali, Algeria, đến Libya, mà không tìm thấy dấu vết nhỏ nhất của em trai mình. Ibrahima quyết định tiếp tục hành trình đến Tây Ban Nha, nơi anh đến vào năm 2018, ba năm sau khi rời Guinea. Sau đó, anh để tang em trai mình, và trở nên ám ảnh bởi mặc cảm tội lỗi liên quan đến sự thất bại trong việc tìm kiếm của mình.
Bốn năm lẩn trốn ở Tây Ban Nha
Ibrahima hiện làm việc trong một gara ở Madrid. Anh là thợ máy và có hợp đồng hợp lệ. Trong 4 năm, đơn xin tị nạn của anh đã bị từ chối. Do đó, anh sống bất hợp pháp, và được hỗ trợ và giúp đỡ bởi Amets Arzallus. Ngoài công việc là một nhà báo ở xứ Basque, nhà báo này còn tự nguyện giúp đỡ những người di. Amets giúp anh ta lập hồ sơ. Để làm điều này, hai người quyết định viết ra tất cả các giai đoạn trong cuộc phiêu lưu của Ibrahima với mục đích tạo thuận lợi cho việc tường thuật cuộc hành trình trước chính quyền Tây Ban Nha. Vô ích, vì đơn xin tị nạn đầu tiên thất bại. Bằng sự kiên trì, chính quyền Tây Ban Nha cuối cùng đã cấp cho anh giấy phép cư trú một năm và sẽ hết hạn vào tháng 4 năm 2024.
Câu chuyện của Ibrahima, lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Basque, sau đó bằng tiếng Tây Ban Nha và được dịch ra nhiều thứ tiếng kể từ đó, thật đáng buồn giống với câu chuyện của rất nhiều người di cư khác.
Amets và Ibrahima hiện sống cách nhau 400 km và là bạn rất thân. Họ gọi cho nhau nhiều lần một tuần. Câu chuyện này đã thay đổi cuộc đời của Amets: “Tôi nghĩ rằng mỗi người đều muốn sống và lên kế hoạch cho cuộc sống của mình ở quê hương, nơi gia đình họ sinh sống”, nhà báo xứ Basque nói, “nhưng khi biết trước những bất hạnh và tình hình kinh tế hay xã hội nơi những quốc gia như Guinea, người ta nhận ra rằng nhiều người buộc phải lên kế hoạch cho tương lai của họ ở nơi khác, bằng cách cố gắng đến châu Âu“. Amets nói rõ : Ibrahima đặc biệt thuộc về diện này. Khi họ gặp nhau ở Madrid, Ibrahima ngay lập tức nhấn mạnh rằng mục tiêu của anh không phải là đến châu Âu. “Điểm xuất phát này đã phần nào thay đổi định kiến, và nguyên mẫu của người di cư mà tôi có trong đầu”.
Sự ra đời của cuốn sách
Amets thừa nhận: “Tôi thực sự không biết làm thế nào chúng tôi đi từ những ghi chú đến ý tưởng của cuốn sách”, và nói thêm: “Chúng tôi đã dành nhiều tháng ở đó”. Ban đầu, các ghi chú được thu thập để lập hồ sơ xin tị nạn của Ibrahima đã đòi hỏi một buổi sáng đối thoại. “Ibrahima không biết đọc biết viết khi đến Tây Ban Nha”, anh ấy phải được giúp đỡ, nhưng anh ấy có một khả năng đáng kinh ngạc để diễn đạt những gì anh ấy đã sống trong gần ba năm lưu lạc kể từ khi rời Guinea. “Khi chúng tôi yêu cầu một người di cư kể cho chúng tôi về những quốc gia mà anh ta đã đi qua trong hai hoặc ba năm, nơi anh ta đã trải qua rất nhiều sự tàn ác, rất nhiều bạo lực, thì điều đó không dễ dàng, cần phải có thời gian”. Amets và Ibrahima thực hiện một số cuộc hẹn để từng chút một xem lại số km đã trải qua. Amets nói tiếp : “Một mối quan hệ đã được tạo ra”. “Chúng tôi trở thành bạn bè và tôi phát hiện ra một câu chuyện mà tôi không ngờ tới”. Amets chưa bao giờ viết một cuốn sách nào trước “Hermanito”; hoạt động của anh ấy với tư cách là một nhà báo cho đến nay chỉ giới hạn anh ấy viết các bài báo và phóng sự. Nhưng ý tưởng rằng những ghi chép về cuộc phiêu lưu của Ibrahima sẽ rơi vào tay một viên cảnh sát tại đồn cảnh sát dưới một đống đơn xin tị nạn khiến anh không thể chịu nổi. “Ibrahima đã tin tưởng tôi, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Basque, tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ làm việc của tôi”.
Lương tâm mê ngủ
“Hàng ngày, trên đài, trên báo, chúng tôi nghe và đọc những bi kịch,” Amets Arzallus thở dài, và nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng tôi đã được giáo dục để có một khoảng cách nào đó đối với những tin tức vô nhân đạo và khó tiêu hóa này”. Nhà báo và bây giờ là nhà văn cảm thấy bị mê hoặc và gần như mất nhân tính, buộc phải giữ khoảng cách với thực tế. Anh nói: “Tôi nghĩ cần phải tiến lại gần hơn một chút, cần phải cố gắng trở nên người hơn và học lại cách cảm nhận nỗi đau” của người khác. Cuộc trò chuyện tiếp tục và vạch lại những tin tức đầy kịch tính về những người di cư trên bờ biển Lampedusa, quần đảo Canary: “có bao nhiêu thảm kịch, bao nhiêu bi kịch, bao nhiêu vụ đắm tàu?“
Amets đưa ra lời chỉ trích gay gắt đối với chính sách di cư của phương Tây và đặc biệt là của châu Âu: “Có một trách nhiệm trực tiếp […] Chính sách di cư này, quá bạo lực và vô nhân đạo, được thể hiện bằng cách để mọi thứ ở một khoảng cách nào đó, để không quá làm xáo trộn lương tâm con người […]. Chúng ta phải ngừng nhìn vào thực tế như thể nó là hư cấu bởi vì nó là một thực tế khắc nghiệt, đơn thuần và khắc nghiệt, rất bạo lực. Chúng ta phải xoay xở để thay đổi thế giới, điều đó khả thi hơn”.
“Hermanito” và Đức Thánh Cha
Khi nghe và đọc thấy rằng Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn cuốn sách này “là một sự ngạc nhiên lớn. Chúng tôi không thể ngờ được, tôi thậm chí còn không biết làm thế nào Đức Thánh Cha có được cuốn sách. Tôi đã khó tin nó. Tôi luôn ngạc nhiên”. Khi Đức Thánh Cha dùng “Hermanito” để nói về thảm kịch của những người di cư, của Tunisia, của Libya, hay thậm chí của chính sách đối ngoại của Châu Âu vốn có xu hướng muốn hạn chế di cư, thì “không còn là tôi đã nói. Thực tế là Đức Giáo hoàng có một tiếng vang hoàn toàn khác, và mọi thứ được hiểu theo một cách khác”. “Dù thế nào đi nữa, tôi xin cảm ơn”, Amets kết luận, vui mừng nhận thấy rằng cuốn sách nhỏ bé có lẽ có thể góp phần “đánh thức lương tâm”.
Tý Linh
(theo Jean Charles Putzolu, Vatican News)
2023
Đức Mẹ – mẫu gương phục vụ và ngợi khen
Trưa thứ Ba ngày 15/8, Lễ Đức Mẹ Hồn xác Lên trời, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin với khoảng 10 ngàn tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tín hữu noi gương Mẹ Maria, là mẫu gương về sự ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha trước khi đọc Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, lễ trọng Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời, chúng ta cùng chiêm ngắm Mẹ, Đấng lên Trời cả hồn lẫn xác trong vinh quang. Bài Tin Mừng hôm nay cũng trình bày cho chúng ta điều đó khi Mẹ đi lên, nhưng lần này Mẹ đi lên một “vùng núi” (Lc 1,39); tại sao Mẹ lên núi? Để giúp đỡ người chị họ Elizabeth, và ở đó Mẹ đã công bố bài ca Magnificat. Mẹ Maria đi lên và Lời Chúa mạc khải cho chúng ta những nét đặc trưng của Mẹ khi Mẹ đi lên. Đặc trưng gì? Đó là phục vụ người lân cận và ngợi khen Chúa: cả hai. Mẹ Maria là người nữ phục vụ tha nhân và Mẹ Maria là người nữ ngợi khen Thiên Chúa, hơn nữa, thánh sử Luca thuật lại chính cuộc đời Chúa Kitô như một cuộc đi lên, tức là hướng về Giêrusalem, nơi Người tự hiến trên Thập Giá, đồng thời cũng mô tả cuộc hành trình của Mẹ Maria. Chúa Giêsu và Mẹ Maria cùng đi trên một con đường: hai cuộc đời lên cao, tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc, Đấng hiến mạng sống vì chúng ta, để chúng ta được nên công chính; Mẹ Maria như người tôi tớ ra đi phục vụ: cả hai cuộc đời chiến thắng sự chết, và sống lại; bí mật của hai cuộc đời là phục vụ và ngợi khen. Chúng ta cùng dừng lại hai khía cạnh này: phục vụ và ngợi khen.
Phục vụ là khi chúng ta hạ mình phục vụ anh chị em, chúng ta đi lên: chính tình yêu nâng cuộc sống lên cao. Chúng ta ra đi phục vụ anh chị em của chúng ta và với việc phục vụ này, chúng ta đi lên cao. Nhưng việc phục vụ không hề dễ dàng: Đức Mẹ, người vừa mới mang thai, từ Nazareth đã đi gần 150 cây số để đến nhà bà Elizabeth. Giúp đỡ có cái giá của nó, đối với tất cả chúng ta! Giúp đỡ luôn có cái giá của nó! Chúng ta luôn trải nghiệm điều đó, việc chăm sóc người khác đòi hỏi những vất vả, kiên nhẫn và lo lắng. Ví dụ, chúng ta nghĩ đến nhiều người hằng ngày phải di chuyển hàng cây số để đi làm và trở về, và thực hiện nhiều nhiệm vụ vì lợi ích của người khác; hay chúng ta nghĩ đến những hy sinh thời giờ và giấc ngủ để chăm sóc một trẻ sơ sinh hoặc một người già; và dấn thân phục vụ những người không có gì để trả lại, trong Giáo hội cũng như trong việc tình nguyện. Tôi ngưỡng mộ các hoạt động tình nguyện. Điều này thật sự vất vả, nhưng đó là đi lên, hướng đến Thiên đàng! Đây là việc phục vụ thực sự.
Tuy nhiên, sự phục vụ có nguy cơ trở nên vô ích nếu không ngợi khen Thiên Chúa. Thật vậy, khi Đức Maria vào nhà người chị họ, Mẹ đã ngợi khen Thiên Chúa. Mẹ không nói về sự mệt mỏi của mình sau chuyến đi, nhưng Mẹ công bố một bài ca vui mừng xuất phát từ trái tim. Vì ai yêu mến Thiên Chúa thì biết ngợi khen. Và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy “dòng thác chảy những lời ngợi khen”: hài nhi nhảy mừng trong lòng bà Êlisabét (x. Lc 1:44), người đã loan báo những lời chúc lành và công bố “mối phúc đầu tiên”: “Em thật có phúc vì đã tin” (Lc 1,45); Có phúc vì đã tin; và mọi sự đạt tới đỉnh điểm nơi Đức Maria, người đã công bố lời kinh Magnificat (x. Lc 1:46-55). Ngợi khen làm tăng niềm vui. Lời ngợi khen giống như một cái thang: nó đưa trái tim lên cao. Khen ngợi nâng tâm hồn lên và vượt qua cám dỗ bỏ cuộc. Anh chị em có thấy rằng những người buồn chán, những người hay ngồi lê đôi mách không có khả năng khen ngợi không? Hãy tự hỏi: tôi có khả năng khen ngợi không? Thật tốt biết bao khi ngợi khen Chúa mỗi ngày và khen ngợi những người khác nữa! Thật tốt khi sống với lòng biết ơn và chúc phúc thay vì tiếc nuối và phàn nàn, nhìn lên thay vì xệ mặt! Càm ràm: có những người phàn nàn mỗi ngày. Nhưng hãy thấy rằng Chúa ở gần bạn, hãy thấy rằng Người đã tạo dựng nên bạn, hãy thấy những điều Người đã ban cho bạn. Hãy ngợi khen! Và đây là sức khỏe thiêng liêng.
Phục vụ và khen ngợi. Chúng ta hãy thử tự hỏi mình xem: tôi sống công việc và những bận tâm hằng ngày với tinh thần phục vụ hay ích kỷ? Tôi có cống hiến cho ai đó một cách vô vị lợi mà không tìm kiếm lợi lộc trước mắt không? Tôi có lấy việc phục vụ làm “bàn đạp” của đời mình không? Và nghĩ đến lời ngợi khen: tôi có giống Mẹ Maria, vui mừng trong Chúa không (x. Lc 1,47)? Tôi có cầu nguyện chúc tụng Chúa không? Và, sau khi ngợi khen Chúa, tôi có lan tỏa niềm vui của Người cho những người tôi gặp không? Mỗi người cố gắng trả lời những câu hỏi này.
Xin Mẹ của chúng ta, Đấng Hồn Xác Lên Trời, giúp chúng ta vươn cao hơn mỗi ngày qua việc phục vụ và ngợi khen.
Theo Vatican News (15/8/2023)