2020
Hội nghị Thường niên Liên Hiệp Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam năm 2020
Hội nghị Thường niên Liên Hiệp Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam năm 2020
Hội nghị thường niên Liên Hiệp Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam năm 2020 được tổ chức tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Hải Phòng, từ ngày 09 đến 12 tháng 11 năm 2020 với chủ đề: Phát triển và thăng tiến Dòng tu. Có 147 Bề trên và Đại diện Bề trên của các Dòng tu, Tu hội, Tu đoàn trên toàn quốc tham dự.
- Hội nghị vui mừng chào đón Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Giám mục Giáo phận Bắc Ninh – Chủ tịch Uỷ Ban Tu sĩ thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đến chủ sự Thánh lễ Khai mạc Hội nghị và chia sẻ với Hội nghị về cuộc họp thường niên của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2020 và những vấn đề liên quan đến hoạt động của các tổ chức đời sống thánh hiến.
Hội nghị cũng vui mừng chào đón Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Hải Phòng, Phó TTK Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã đến chủ sự thánh lễ Bế mạc Hội nghị và chia sẻ với Hội nghị về tình hình Hội Thánh tại Miền Bắc và những thao thức và mong đợi của Hội Thánh, cụ thể là Hội Thánh tại giáo tỉnh Hà Nội đối với đời sống Thánh hiến.
Với tâm tình tôn kính và tri ân mẫu gương đời sống chứng tá đức tin của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các đại biểu tham dự Hội nghị đã thực hiện chuyến hành hương và dâng thánh lễ tạ ơn tại Đền các Thánh Tử Đạo Hải Dương, Giáo phận Hải Phòng.
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Hội nghị đã chúc mừng và bày tỏ tâm tình hiệp thông, chia sẻ niềm vui với Liên Hiệp các Hội Dòng Mến Thánh Giá nhân dịp kỷ niệm 350 năm thành lập.
- Hội nghị thường niên Liên Hiệp Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam năm 2020 vui mừng chào đón Ông Vũ Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ và Ban Tôn giáo Thành phố Hải Phòng đến thăm và chúc mừng Hội nghị.
- Hội nghị cũng đã lắng nghe các thuyết trình viên với các đề tài:
– Cha Giuse Nguyễn Thịnh Phước SDB – giới thiệu sách”Thánh hiến và thánh hiến qua những lời khuyên Phúc Âm” – một văn kiện của Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ.
– Thầy Lê Đại Trí, tư vấn độc lập về công tác phát triển- thuyết trình về đề tài: “Vai trò của việc thay đổi não trạng kế hoạch, trong việc phát triển các Dòng tu”
– Lm Giuse Nguyễn Văn Quang, SDB – Chủ tịch LHBTTCVN chia sẻ đề tài: “Lập kế hoạch đời sống cá nhân tu sĩ”
– Lm Giuse Trần Hòa Hưng, SDB – Tổng thư ký Uỷ Ban Tu sĩ thuộc HĐGMVN chia sẻ về tình hình đời sống thánh hiến tại Việt Nam
4. Hội nghị cũng đã lắng nghe cha Giuse Phan Trọng Quang, Tổng thư ký, đại diện Ban Điều Hành Liên Hiệp báo cáo Tổng kết hoạt động và về Quỹ tài chánh của Liên Hiệp Bề Trên Thượng cấp Việt Nam năm 2019.
5. Hội nghị thường niên đã dành nhiều thời gian cho việc thảo luận và đào sâu các đề tài chia sẻ của các thuyết trình viên tại các nhóm và ghi nhận những ý kiến đóng góp của các đại biểu về việc tham gia Liên Hiệp của các Dòng tu, Tu hội, Tu đoàn mới; việc đăng ký hoạt động cho các Dòng tu mới; về những hoạt động của Liên Hiệp trong thời gian tới; việc tiếp tục tổ chức các khóa huấn luyện về đời sống thánh hiến cho các Tu sĩ tại các giáo tỉnh; những vấn đề liên quan đến việc đào tạo Tu sĩ, đặc biệt là đối với các Tu sĩ trẻ và thảo luận về kế hoạch, chương trình và đề tài cho Đại Hội Liên Hiệp Bề Trên Thượng cấp Việt Nam sẽ diễn ra vào cuối năm 2021
- Hội nghị thường niên LHBTTCVN năm 2020 đã có những cảm nhận thật tốt đẹp về một tình cảm chan hòa thương mến, khích lệ và tràn đầy tâm tình hiệp thông mà Đức Tổng Giuse, Cha Quản lý, Cha Phụ trách Trung tâm Mục vụ và Giáo phận Hải Phòng đã dành cho Hội nghị.
- Hội Nghị thường niên LHBTTCVN năm 2020 đã khép lại với ước mong: Đời sống của những người sống ơn gọi thánh hiến tại Việt Nam sẽ trở thành một lời loan báo có khả năng “đánh thức thế giới”, trở thành những chứng nhân sống động về sự hiệp thông, sẵn sàng ra đi đem niềm vui Tin mừng đến cho tha nhân.
Lm Giuse Phan Trọng Quang,mfT
TK. LHBTTCVN
2020
Tổng quát về 117 Thánh Tử đạo Việt Nam – Vè
Tổng quát về 117 Thánh Tử đạo Việt Nam – Vè
- Tử đạo Việt Nam
Vô số vô ngần,
Suốt ba thế kỷ
Vì Chúa hiến thân.
Giáo sĩ giáo dân
Kể sao cho xiết,
Những người đã chết
Giữ vững Đức Tin.
- Giáo Hội Mẹ hiền
Điều tra từ trước,
Đã phong Chân Phước
Cả thảy bốn lần:
Một ngàn chín trăm (1900)
Lê-ô thập tam. (Lêô XIII)
Hai lần khác nữa,
Đời Pi-ô mười. (Piô X)
Một chín năm mươi (1950)
Pi-ô thập nhị. (Piô XII)
- Giáo hoàng đương vị [*]
Gioan Phaolô đệ nhị (Gioan Phaolô II)
Phong cho tước vị:
Một trăm mười bảyLên hàng Hiển Thánh.
Xưa rày khôn sánh
Trọng thể vô cùng,
Trong một lần luôn…
Mười chín tháng sáu (19/6)
Trong năm Thánh Mẫu. (1988)
Ở tại Rô-ma,
Quảng trường Phê-rô
Vinh quang dân Việt.
- Tất cả đều biết
Trong số các Ngài:
Hăm mốt thừa sai (21)
Tám ngài giám mục (8)
Mười ba linh mục, (13)
Chục Phú-lãng- sa. (10, Pháp)
Mười một Tây Ban Nha (11)
Còn Thánh bổn quốc.
- Việt Nam phúc lộc
Chín mươi sáu Ngài. (96)
Đàng Trong, đàng Ngoài
Bắc, Trung, Nam đủ.
Có Cha, có chú
Có trẻ, có già.
Có được một Bà,
Còn là Ông cả!
- Các vị Thầy cả (Linh mục)
Được băm bảy Ngài, (37)
Có vị tuổi đời
Đã trên tám chục. [a]
Một vị già nhất
Tuổi đến tám tư, (84)
Là cụ Lu-ca
Tên Loan, họ Vũ.
Hai Cha thật trẻ
Tuổi mới băm ba [c]
Cảnh vườn trổ hoa
Muôn màu muôn sắc!
Các Cha ngoài Bắc
Cả Dòng, cả Triều
Chiếm hẳn số nhiều,
Cha Triều mười chín (19)
Mười một Đa-minh. (11)
Các vị Đàng Trong
Cả Nam cả Trung,
Có còn được bảy (7)
Giáo dân năm chín. (59)
Xin đếm lần lần
Đủ tầng đủ hạng:
Mười sáu thầy giảng (16)
Và một chủng sinh. (1)
Dòng ba Đa-minh
Có tròn mười vị. (10)
Làm quan hai Cụ (Bường, Hy)
Binh sĩ cũng đông,
Nhiều Thánh nghề Nông
Lái buôn, y sĩ…
- Trăm người trăm vẻ
Có một bà mẹ,
Sinh sáu người con:
Tình hiếu vẹn toàn
Máu đào dâng Chúa.
Có Thánh tuổi nhỏ
Vừa mới lên mười, (10)
Như cánh hoa tươi
Đó là Thánh Túc.
Có người một lúc
Gánh vác việc đời,
Còn lo việc đạo.
Trong ban hành giáo:
Giáp, Biện, Câu, Trùm,
Giáo xứ giúp giùm
Nuôi Cha, giấu Cố,
Lao tù không sợ
Giúp việc Tông đồ…
- Tử đạo đời mô?
Xin kê cho rõ:
Trịnh Doanh hai Cụ (2)
Trịnh Sâm một Cố, (1)
Thêm cũi Cha Liêm. (1)
Cảnh Thịnh – Tây sơn
Hai Cha: Triệu, Đạt. (2)
Đến thời đông nhất
Minh Mạng Nê-ron,
Nối vị Gia Long
Có năm tám Ngài (58)
Thiệu Trị ba thôi! (3)
Dưới thời Tự Đức,
Chẵn chòi năm chục (50)
Lãnh phúc Thiên Đình
- Coi việc xử hình
Tùy tình tùy hứng:
Trảm bảy lăm Đấng (75)
Xử giảo hăm hai, (22)
Thiêu sống sáu Ngài (6)
Phân thây năm vị, (5)
Rũ tù vì bị:
Giam đói, khảo tra
Tám Ông, một Bà. (8, 1)
- Hát lên bài ca
Mầng Thánh Tử Đạo,
Các Ngài đổ máu
Gieo giống thiêng linh.
Đã làm trổ sinh:
Bao nhiêu hoa trái
Hỡi người con cái,
Giáo Hội Việt Nam
Cả Bắc, Trung, Nam.
Lo sao cho xứng
Cháu con các Đấng,
Tử Đạo Anh Hùng!
CHÚ THÍCH: (Bài Ngoại khóa, Chương trình Giáo lý Hậu Vỡ Lòng – Phủ Cam, 1988)
I. Theo tài liệu:
a: Hai Cha 80 tuổi là Lm Vinh sơn Điểm (1758 – 1838) và Lm Martinô Tạ Đức Thịnh (1760 – 1840)
b: Cha Lu-ca Vũ Bá Loan.
c: Thánh Gioan Đạt (1765 – 1798), Thánh Phêrô Quý (1826 – 1859).
- Theo người sưu tầm:
* Thời điểm tác giả (Cố Lm Phaolô Nguyễn Kim Bính ?) viết bài này: triều ĐGH Gioan Phaolô II: 1978 – 2005.
2020
Những Phép Lạ nhờ lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam được Tòa Thánh công nhận
Những Phép Lạ nhờ lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam được Tòa Thánh công nhận
Những Phép Lạ được trình bày sau đây không phải do mỗi cá nhân từng vị Thánh Tử Ðạo đã làm, nhưng là khi giáo dân, Việt Nam cũng như ngoại quốc, cầu khẩn, họ cầu một cách tổng quát: “Vì công nghiệp các Thánh Tử Ðạo Việt Nam” hay là “Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, cầu cho chúng tôi”. Do đó những phép lạ nói đây mang tính cách tập thể, và giá trị được tuyên bố là giá trị chung cho toàn khối các Thánh Tử Ðạo Việt Nam.
Ba phép lạ đầu tiên (số 1, 2, 3 dưới đây) là những phép lạ chính thức, nghĩa là đã được Tòa Thánh nghiên cứu với các Ủy Ban Bác Sĩ liên hệ, và đã công nhận: do đó có giá trị cho toàn khối 90 vị Tử Ðạo (được phong Chân Phước trong đợt I: 1900; đợt II: 1906; đợt III: 1909). Còn lại 27 vị (2 vị đợt I: 1900 và 25 vị đợt IV: 1951), vì đã có bằng chứng hiển nhiên các ngài đã chết vì đức Tin: vì vậy Tòa Thánh đã tha việc đòi hỏi phép lạ trước khi tôn phong Chân Phước.
Còn một số phép lạ khác (số 4) và các phép lạ do một vài cá nhân Tử Ðạo (hai Giám Mục Valentinô Berrio Ochoa và Melchor Garcia Samedro), mặc dầu không được Tòa Thánh lập Ủy Ban điều tra chính thức và công nhận, tuy nhiên vẫn là những sự kiện siêu nhiên vì đã cứu chữa rất nhiều bệnh nhân một cách lạ thường, và còn tiếp tục trong thời gian hiện tại.
- Phép Lạ: Bà Margarita Maria Goldsmit, người Anh, được khỏi bệnh: ngày 4/04/1853:
Năm 1849, sau một lần đi tắm, bà Margarita Maria Goldsmit tự nhiên bị lạnh cả người và cảm thấy đau đớn suốt trong mấy tháng trời. Sang năm 1850, thấy có phần thuyên giảm, bà theo chồng sang Paris. Nhưng rồi chính ở Paris cơn bệnh trở lại trầm trọng. Bác sĩ Skrimpton, Bác sĩ tư của gia đình, từ London sang hiệp lực với 3 vị Bác sĩ người Pháp, nhưng không làm sao cho bà đi trong nhà. Nằm trên giường không thèm ăn, không thèm ngủ mãi cho tới cuối năm 1852 phải áp dụng cả đến phương pháp dùng quang tuyến đốt một phần tế bào bên trong, nhưng càng làm cho bệnh nhân suy nhược!
Bà Goldsmit là một thiếu phụ ngoan đạo, năng xin rước lễ. Sau cùng, bỏ tất cả các thứ thuốc trần gian, bà nghe lời cha giải tội làm tuần 9 ngày kính các vị Tử Ðạo thuộc nhóm Thừa Sai Paris, trong đó có nhiều vị Việt Nam, mà Ðức Gregorio XVI vừa mới tuyên bố đưa lên bậc Ðáng Kính (năm 1840 và 1843). Trong suốt thời gian 9 ngày đặc biệt đó, bà đeo trên mình mẫu ảnh, trong đó đựng hài cốt mấy vị Tử Ðạo, bắt đầu từ hôm 27/03/1853. Ðêm sau cùng bệnh tình càng gia tăng, nhưng sáng hôm sau, ngày 4/04/1853, sau khi rước lễ, bà cầm trí tạ ơn Chúa, trong tay nắm chặt mẫu ảnh mang di tích các vị Tự Ðạo.
Tự nhiên bà cảm thấy nôn nao, nghe như có tiếng bên trong thúc bà ngồi dậy, bà nhận chuông gọi y tá, rồi bà đòi ăn vì cảm thấy đói sau bao nhiêu ngày tháng kiêng cử. Cô y tá bưng thịt, bưng bánh đưa cho bà ăn. Ăn xong bà đòi lấy xe đưa bà đến nhà thờ dự lễ: trên xe bà không còn thấy diễn lại những lần chân tay co rút đau đớn và nhức nhói như hồi nào! Trong nhà thờ bà đứng lên ngồi xuống một cách bình thản như mọi người khác. Về tới nhà bà không cảm thấy mệt mỏi: cuộc đời đã tươi sáng trở lại, vì từ đó cơn bệnh đã hết hẳn!
- Phép Lạ: Nữ Tu Saint Bernard, nhũ danh Eleonore Rogé được chữa lành ngày 23/08/1854:
Là một nữ tu chuyên nghề y tá trong bệnh viện thành phố Reims bên Pháp, năm 32 tuổi chị mắc chứng bệnh trẹo xương bên chân trái. Từ tháng 5 năm 1850 cho tới tháng 4 năm 1854, chị bị giải phẫu tất cả 7 lần, và lần thứ 8 (9/04/1854) là trầm trọng hơn cả. Bác sĩ bắt chị phải đi một thứ giầy ống, và sau đó còn phải bó bột ống chân. Ngày 25/05/1854 chị mệt hẳn người, và chứng đau gân nơi ống chân trái lan tới cả bộ gân trên đầu, đau nhức đến mức độ chị lịm đi một hồi lâu, ai cũng tưởng là chị đã chết! Thực ra chị phải nằm suốt 15 ngày đêm trong tình trạng đó. Chính lẽ, phải đưa chị ra khỏi bệnh viện, đem về nhà Dòng để chuẩn bị ra đi vĩnh biệt, nhưng chị năn nỉ ở lại chờ vận mệnh Chúa sẽ gửi tới.
Ðúng thế! Tự nhiên một Linh Mục bạn gia đình đến thăm và từ giã vì sắp sửa tới ngày nhập chủng viện Hội Thừa Sai Paris và lên đường truyền giáo. Một tháng sau vị Linh Mục đó viết thư đưa tin cho chị: trong Hội Thừa Sai đang vận động cuộc phong Chân Phước cho các vị Tử Ðạo thuộc Hội Dòng xưa kia ở Trung Hoa và Việt Nam, và đề nghị chị nên làm tuần 9 ngày cầu xin, Linh Mục đó hứa sẽ hợp ý cùng với Hội Dòng Thừa Sai cầu nguyện cho chị. Tuần cửu nhật bắt đầu hôm 15/08/1854, kính Ðức Mẹ Nữ Vương các Thánh Tử Ðạo và kính tất cả những vị Thừa Sai và Giáo Dân đã chết vì đức tin.
Trong khi đó chân của chị mỗi ngày càng sưng phồng lên và người ta thấy rõ nốt bầm máu lan rộng, bệnh nhân không ngủ được. Nhưng sáng hôm 23 tháng 8/1854, ngày cuối cùng tuần cửu nhật, chị Saint Bernard đòi xuống nhà thờ, một bên nách chống nạng, còn bên kia nhờ một chị em nâng đỡ, chứ không dám để chân trái chạm tới đất. Chị ngồi vào chỗ, nhìn thẳng lên nhà tạm và tượng Ðức Mẹ, chị cảm thấy có một biến chuyển trong mình, nhưng không làm sao diễn tả cho chính xác, rồi chị tự nhủ: “Có lẽ nào mà mình được khỏi, nhờ lời cầu khẩn của bằng ấy vị Tử Ðạo: Lạy Chúa, vì Chúa mà các ngài đó đã đổ hết máu đào, lạy Mẹ, chính Con Mẹ mà các ngài đã chịu cực hình”. Xong lễ, chị ra khỏi nhà thờ lúc 8 giờ sáng: một mình chị chống nạng hai bên nách và thử lê chân trái chạm tới đất. Chị tiếp tục làm hết tuần cửu nhật. Vào buổi trưa, thay vì nạng, chị di chuyển bằng một cây gậy.
Lúc 15g30, chị đi hát kinh chiều với cộng đoàn, ngồi bên bà Giám Ðốc. Về cuối giờ kinh chị cảm thấy nơi ống chân tự nhiên giật mạnh một cái đau nhói, nhưng rồi êm luôn. Chị Saint Bernard một mình đứng dậy, hai tay không mang gì hết, chị tiến thẳng về tượng Ðức Mẹ xa cách đó chừng 20 thước và quỳ tạ ơn. Toàn thể cộng đoàn ngơ ngác nhìn chị với vẻ ngạc nhiên, nhưng hết sức vui mừng phấn khởi, tất cả đều đứng lên theo bà Giám Ðốc Tu Viện và đồng nhịp họ lớn tiếng hát bài Magnificat tạ ơn Thiên Chúa!
- Phép Lạ: Cô Dolores Conflans được chữa khỏi chứng bệnh tê liệt xương sống: 8/06/1888, tại VIC (Tây Ban Nha):
Cô Dolores Conflans, quê tại thành VIC, năm 18 tuổi, bị tê liệt xương sống phải nằm suốt trong 11 năm liền. Ðau tới mức độ lan ra cả xương bả vai và hai cánh tay. Con người gầy còm, vì không ăn uống được nhiều chỉ còn da bọc xương. Mỗi lần mệt mỏi cô muốn cử động mấy đầu ngón tay là cả một công trình, vì phải mất lâu thời giờ. 5 bác sĩ thay nhau khám bệnh và điều trị, tuy nhiên không làm sao cho bệnh nhân có khả năng tiến đi được mấy bước. Bác sĩ Torres, năm1879, khi mới bắt đầu đến chữa đã tuyên bố: thân cô Dolores là “một vết thương cụ thể”, nói trúng hơn là “một huỷ bại toàn diện cơ thể” (leione materiale, o distruzione dell’ organo).
Do người ta khuyến cáo, cô yêu cầu được chở tới đền các vị Tử Ðạo Việt Nam, đang được chuẩn bị tôn phong Chân Phước đợt II (1906), nơi đây cô cầu xin ráo riết, nhất là cầu xin Thánh Linh Mục Amato, là vị đã sinh trưởng tại VIC, và trong đền các vị Tử Ðạo nói trên còn giữ hài cốt của ngài. Cô dự thánh lễ: vào lúc Linh Mục chủ tế chịu Mình Thánh Chúa, cô cảm thấy trong mình thoải mái dễ chịu, tự nhiên cô quỳ xuống đất, lúc ban đầu tay còn vịn vào chiếc ghế đằng trước, cô quỳ gối làm dấu Thánh Giá, và rồi cũng tự mình đứng lên cho tới hết giờ đọc Phúc Âm sau cùng.
Cô Dolores Conflans còn ở lại trong đền các vị Tử Ðạo, dự thêm một thánh lễ thứ hai, nghe giảng, rước lễ, rồi sang tu viện các Nữ Tu Ða Minh bên cạnh đền thờ, cô ăn sáng tại đây, và ở mãi cho tới 8 giờ tối. Buổi chiều hôm đó, cô đi lại thăm tu viện, và còn cầm đèn nến trong tay tham dự cuộc rước kiệu Thánh Thể hôm đó, 8/06/1888, được tổ chức trong sân tu viện như bất cứ một nữ tu bình thường khác vậy.
Bác sĩ Pellegrini, một trong 5 bác sĩ điều trị bệnh nhân, đã trở lại khám nghiệm các phần thân thể đau yếu hồi trước của cô Dolores Conflans, đã minh chứng: “Sau khi hội kiến với 4 Bác sĩ khác, chúng tôi không thể giải thích theo phương pháp y khoa tình trạng khỏi bệnh bất thường của cô Dolores Conflans”.
- Phép Lạ: Cô Adela Mac Master, ngày 4/09/1959, tại Mexicô D.F.:
Bị ung thư ở ngón tay giữa bàn tay trái: đầu tiên như một cái mụn mọc lên ở đốt cuối cùng ngón tay, mỗi ngày cứ phồng lên to như quả nhãn, cô Adela Mac Master cảm thấy nhức nhói lan ra khắp bàn tay, và là một cực hình mỗi lần phải cử động, hay lỡ ra bị va chạm vào đâu. Các Bác Sĩ công nhận chỉ còn một cách giải phẫu và cưa hẳn ngón tay. Nghe đến chuyện giải phẫu bệnh nhân rùng mình kêu khóc.
Ðể trấn an cô con gái cưng, ông thân sinh tự xuất thân làm “bác sĩ” bằng cách lấy thứ dầu Bengué thoa bóp ngón tay, rồi ông tự ý, khi băng bó, gói cả trên vết thương miếng vải di tích của Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa, tử đạo năm 1861 tại Hải Dương.
Sáng hôm 4/09/1959, cả gia đình đi nhà thờ dòng Ða Minh có ý xin lễ cầu cho cô “vì công nghiệp vị Thánh Tử Ðạo” nói trên. Nhưng Cha Giám Ðốc Tu Viện chỉ định ngày 27 tháng 9/1959 mới có thể dâng thánh lễ theo ý muốn gia đình, vì suốt thời gian trước đó đã có người khác dành chỗ cả rồi! Tuy nhiên, ngay chiều hôm đó cô Adela (23 tuổi) nhỏm dậy chạy đi tìm mẹ và cô em gái, cô la ó ầm ĩ: “Mẹ ơi, xem ngón tay con, hết đau rồi nè”. Cục ung thư biến đâu mất, và ngón tay trở về bình thường không thấy dấu vết gì nữa. Các Bác sĩ được mời đến khám nghiệm đều ngơ ngác trước sự kiện lạ lùng do quyền phép Chúa làm.
- Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa vẫn còn tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa lành mạnh:
Một đặc điểm là Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa vẫn còn tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa lành mạnh. Tại thành phố Bilbao (Tây Ban Nha) người ta đã mở cả một “Văn phòng Tôi Tớ Chúa: Berrio Ochoa” (Secretariado Berrio Ochoa Dominicos) và đã công bố một tài liệu về những phép lạ đã nhận được do sự bảo trợ của “Thánh Valentino Berrio Ochoa và các Bạn Tử Ðạo” nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Ngài 1827-1927.
Trong tập tài liệu nói trên, có ghi lại một vài sự kiện như sau:
– Tính theo số những đơn đã xin đích danh và một mình Thánh Valentino Berrio Ochoa, từ tháng 6 năm 1908 tới tháng 5 năm 1985: được 116 phép lạ chữa lành bệnh nhân;
– Theo số đơn đã xin Thánh Valentino Berrio Ochoa và các Bạn Tử Ðạo: từ tháng 12 năm 1978 tới tháng 2 năm 1986: được 21 phép lạ tập thể (miraculum globale);
– Sau cùng, hai phép lạ được khỏi bệnh qua sự bảo trợ của Thánh Melchor Garcia Sampedro (Tử Ðạo tại Nam Ðịnh, 28/07/1858).
Trên thực tế là những bệnh nhân đã được lành mạnh và đã trở lại tri ân và ghi tên tuổi của mình, nhưng các phép lạ được nhắc tới trong mục số 4, và 5 không lập thành bản án điều tra theo thể thức giáo luật, như mấy phép lạ kể trên số 1, 2, và 3. Tuy nhiên sự kiện vẫn minh chứng lòng tôn sùng sâu rộng của giáo đoàn, nhất là giới bệnh nhân, dành cho các Thánh Tử Ðạo tại Việt Nam, cũng như minh chứng sự kiện Chúa Quan Phòng bảo đảm uy thế các ngài trước tòa thiên Chúa.
(Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh
của tác giả Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
2020
Mười chi tộc bị thất lạc của Israel đang hồi hương
Mười chi tộc bị thất lạc của Israel đang hồi hương
Khi Chúa bắt dân Do Thái phải lưu vong khỏi Đất Thánh, khoảng 2.700 năm trước đây, Ngài đã hứa “Sẽ xảy ra là trong ngày ấy: Ðức Chúa lại sẽ giơ tay, chuộc lấy số sót dân Người, những kẻ còn sót lại ở Assur, và Aicập, ở Patros, Kush, Êlam, Shinơar, Khamat, và các hải đảo.” (I-sa-ia 11:11. Bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn).
Ngài đã hứa rằng một ngày nào đó, Ngài sẽ đưa các con cái từ bốn phương trời trở lại quê hương, đất của dân Do Thái: “Người sẽ phất cờ làm hiệu cho các nước, Người sẽ thâu họp lại mưu đồ của Israel, và cho đoàn tụ lại những kẻ tản mác của Yuđa, từ tứ phương thiên hạ.” (I-sa-ia 11:12)
Chúng ta cũng thấy ở sách Ê-giê-ki-el, Chúa đã cho Ê-giê-ki-el nhìn thấy những bộ xương khô được sống lại: “Người mới phán với tôi: “Hãy tuyên sấm trên các xương ấy và nói với chúng: Các xương khô kia, hãy nghe lời của Yavê! Ðức Chúa Yavê phán với các xương ấy: Này Ta sẽ đem thần khí đến trên các ngươi. Và các ngươi sẽ sống.” (Ê-giê-ki-el 37:4-5). Nhiều người Do Thái đã diễn giải khung cảnh này như sự hồi sinh của dân Do Thái và sự hồi hương về lại Đất Hứa. Như những bộ xương khô, chẳng ai tin được rằng còn sức sống, nhưng 10 chi tộc sẽ được hồi sinh và hồi hương để hâm lại sức sống trong đất Do Thái.
Những lời tiên tri bên trên, xem ra như chỉ có trong mơ nhưng cơn mơ đó đã và đang trở thành hiện thực, ngay trong lúc này. Ngược với mọi lý giải của con người, Lời của Chúa đã trở thành sự thật, và dân Do Thái đã và đang hồi hương. Chẳng có nơi nào trên thế giới mà đất đai đã chờ đợi người dân trở lại, và sau 2.000 năm (nói về nhóm phải đi đày sau thời Chúa Giêsu, sau năm 70 AD), đúng như Chúa hứa, mực còn in trên giấy, làm bằng da thú, trong Kinh Thánh.
Những người dân Do Thái hồi hương từ hướng đông như: Iran, Afghanistan, Iraq, Syria và còn nữa. Nhiều người khác đã trở về từ Châu Âu và ngay cả Châu Mỹ. Họ đã trở về từ những nước khác như Egypt (Ai-cập), Tripoli (nước Lybia), và những nhóm đông đảo từ Morocco và Yemen.
CÂU CHUYỆN VỀ 10 CHI TỘC BỊ THẤT LẠC CỦA ISRAEL
Sau triều đại của vua Solomon, vào thế kỷ thứ 10 BC (trước Chúa Giáng Sinh), 12 chi tộc của Do Thái đã tự phân chia thành 2 vương quốc. Hai chi tộc Judah và Benjamin thành lập vương quốc Judah, ở phía nam. 10 chi tộc còn lại hợp thành vương quốc Israel ở phương bắc. Thực ra, mỗi vương quốc đều có một phần của chi tộc Lê-vi, họ không có ruộng đất nhưng có có các tư tế, chuyên lo việc thờ phượng.
Các chi tộc của vương quốc phía bắc (Israel) từ chối không nhận vương quyền của Rehoboam, con trai vua Solomon. Hai chi tộc Judah và Benjamin cùng một phần của chi tộc Levi, vẫn trung thành với Rehoboam, thành lập vương quốc Judah ở phía nam.
Hai thế kỷ sau, đế quốc Assyria xâm chiếm vương quốc Israel và trong nhiều giai đoạn, họ đã từ từ phân tán cả 10 chi tộc đi các nơi khác. Kế hoạch lưu đày đó đã hoàn tất vào năm 722 BC và vương quốc Israel (phía bắc) hoàn toàn biến mất.
Mười chi tộc bị thất lạc đó là: Simeon, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Issachar, Zebulun, Manasseh, Ephraim, và một phần của Levi. Hằng ngàn năm sau và cho đến bây giờ, nhiều nhóm người đã tự nhận là dòng dõi của các chi tộc bị thất lạc, một vài tôn giáo của họ cũng tin Đấng Cứu Thế và tin có ngày hồi hương của các chi tộc.
Sử gia thời danh của Do Thái, Josephus (37-100 AD) đã viết rằng mười chi tộc thất lạc đó đã sống rải rác ở phía đông của sông Euphrates (sông này chảy qua Iraq ngày nay, từ hướng tây-bắc xuống đông-nam). Họ đã sinh sản rất nhiều, không thể đếm được.
Những người Do Thái ở Ethiopia
Câu chuyện lạ lùng nhất đã xảy ra với những con cháu của chi tộc Dan ở Ethiopia (Bắc Châu Phi). Họ thuộc nhóm 10 chi tộc phải đi lưu đày từ 27 thế kỷ trước. Qua nhiều năm, họ từng có một vương quốc cho riêng họ và luôn luôn tuân giữ Kinh Thánh. Họ tuân theo luật giữ ngày Sa-bát, luật thanh tẩy (Niddah purity), chỉ ăn thức ăn Kosher (theo luật kiêng cữ), và luôn tin tưởng rằng ngày nào đó họ sẽ hồi hương, trở về thành thánh Jerusalem.
Năm 1977, ông Menachem Begin, thủ tướng Do Thái, đã gọi vị đứng đầu ngành anh ninh, Mossad, và nói một câu mà sau này đã trở thành thời danh: “Đem dân Do Thái từ Ethiopia về cho tôi!” Họ đã thành công đem trở lại Do Thái gần 15 ngàn đồng bào đã bị thất lạc hàng ngàn năm!
Những nhóm người Pathans
Ở thời trung cổ, dân Do Thái thất lạc đã phải sống dưới lề luật của Kitô giáo, rồi Hồi giáo và mơ tưởng rằng một ngày nào đó, các chiến sĩ dũng mãnh thuộc 10 chi tộc thất lạc sẽ xuất hiện từ một vương quốc ẩn dấu, đánh bại những kẻ áp bức và đưa họ về lại quê xưa. Một nhóm có thể hoàn thành công tác đó là những người Pathans, họ là những chiến sĩ thiện chiến đã từng giúp dân Afghanistan đánh đuổi được quân xâm lược Liên Xô ra khỏi bờ cõi.
Những người Pathans thuộc chi phái Sunni của Hồi giáo này, hiện đang sống ở cả hai bên biên giới giữa các nước Afghanistan và Pakistan, và có thể xa hơn nữa tới vùng Kashmir của Ấn Độ. Người ta tin rằng họ thuộc một phần của mười chi tộc Do Thái bị thất lạc, tổng số dân Pathans được ước lượng ít nhất là 15 triệu. Có những chi tộc “nhánh” (sub-tribes) đang mang những tên vẫn còn âm hưởng Do Thái như: Rabani (Reuben), Shiwari (Shimon), Daftani (Naphtali), Sahuri (Asher), Yusuf-sai (con cháu của Yosef).
Nhóm Shin-lung
Khoảng đầu thập niên 1950, một nông dân tên là Chala thuộc chi tộc Shin-lung trong vùng biên giới giữa Ấn Độ và Burma (hay Myanmar – tức Miến Điện) đã có một giấc mộng, trong đó Chúa đã cho ông biết rằng dân Shin-lung chính là người Do Thái, thuộc chi tộc bị thất lạc Menasseh, và đã đến lúc họ phải hồi hương.
Nhiều người Shin-lung tin giấc mộng của Chala là lời tiên tri. Tổ tiên của họ có tên là Menase, âm này rất gần với chi tộc “Menasseh”. Rồi họ bắt đầu giữ các qui luật Giu-đa, thực hành bất cứ nghi thức nào họ học được từ những người Do Thái ở thành phố Bombay (Ấn Độ). Bắt đầu từ một nhóm nhỏ, nay con số đã lên đến trên 5.000 người, được gọi với tên mới là “Judaizers”. Những người này giữ ngày Sa-bát, chịu cắt bì, ăn theo luật Kashrut. Họ xây hàng chục hội đường trong những ngôi làng và thị trấn ở miền đông-bắc Ân Độ, thuộc các bang Mizoram và Manipur.
Chính phủ Do-Thái đã tỏ ra dè dặt về việc “hồi hương” này, nhưng một số dân chúng đã tự tổ chức, như nhóm Amishav (Dân tôi hồi hương), đã tìm kiếm dấu tích của mười chi tộc đã bị lưu đày từ 27 thế kỷ xưa. Họ đã đưa một nhóm nhỏ thanh niên Shin-lung về Do Thái để nhập với nhóm đã đến từ trước và với sự chấp thuận của các thày cả (Rabbis), những ai chưa “trở lại” với niềm tin Giu-đa sẽ được nhận nghi thức này.
Còn có thêm rất nhiều những câu chuyện tương tự, như 5 triệu dân thuộc chi phái Hồi giáo Sunni trong vùng cao nguyên Kashmir (tây-bắc Ấn Độ). Họ có những tên còn mang âm hưởng các địa danh trong Kinh Thánh như Mamre, Pisgah, hay núi Nevo. Họ còn tương truyền rằng ông Mô-sê đã được an táng ở Kashmir, cũng như Chúa Giê-su đã từng đến đây để tìm 10 chi tộc bị thất lạc.
Bộ tộc Chang-min có khoảng 250.000 người, đang sống trong vùng biên giới Trung Quốc và Tibet, nơi tương truyền rằng bộ tộc Shin-lung đã từng sống. Trông họ giống như những người Trung Quốc, đã từng thờ độc thần, trước khi theo Kitô giáo. Tương truyền rằng họ thuộc “dòng dõi của ông Abraham”. Khi làm lễ hiến tế, họ đã cắm 12 lá cờ chung quanh bàn thờ, để tưởng nhớ 12 chi tộc của tổ tiên.
Ngược xuống miền trung-tây của Châu Phi, có bộ tộc Ibo ở nước Nigeria. Tuy phần đông dân chúng đang theo Kitô giáo, nhưng nhiều nghi thức cổ truyền của họ đã tương tự như cách thức của người Do Thái, như cắt bì trẻ trai sau khi sinh được 8 ngày. Nếu hỏi bất cứ người Ibo nào về gốc gác của họ ở đâu, thì câu trả lời luôn là: “Do Thái”, ông Onyeulo, người đang viết một cuốn sách về nguồn gốc của bộ tộc Ibo đã nói như vậy.
Những nước khác ở phía tây Châu Phi như Senegal, Dahomey (hiện thuộc nước Benin), và Sierra đang có rất nhiều bộ tộc vẫn tự nhận là thuộc dòng dõi Do Thái. Họ có những nghi thức tổng hợp giữa Kitô giáo và niềm tin Giu-đa. Tổng số dân có thể lên đến nhiều triệu người.
Quả nhiên, cuộc tìm kiếm những chi tộc bị thất lạc đã là niềm khao khát sâu xa của người Do Thái. Qua nhiều thiên kỷ, họ đã hiểu rằng cuộc lưu đày của dân tộc họ, chính là hình phạt cho tội không xứng đáng là dân được Chúa chọn, không cố gắng sống hợp nhất với Thiên Chúa. Cuộc phân tán của 10 chi tộc, 27 thế kỷ trước đây, đã là mối đau thương đầu tiên của dân tộc, cuộc lưu đày tiên khởi. Tìm lại những chi tộc bị thất lạc đó là nối lại mối giao hòa giữa Thiên Chúa và giống dân đã được Ngài chọn, trở lại với sự tinh trắng, thánh thiêng ban đầu.
LM. Phaolô Nguyễn Văn Tùng (tổng hợp)