2021
Lễ giỗ của Đấng Đáng Kính ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại Roma – 2021
Roma lúc 12h00 ngày 17/9/2021 (tức 17h00 Hà Nội), đã diễn ra Thánh lễ giỗ năm thứ 19 của Đấng Đáng Kính Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại Vương cung thánh đường Thánh Maria ở Trastevere (Basilica Santa Maria in Trastevere).
Thánh lễ giỗ do Đức Hồng Y Peter Turkson – Bộ trưởng Bộ Phát triển Con người Toàn diện chủ tế, đồng tế với ĐHY Bộ trưởng còn có các ĐHY, quý Đức ông, các linh mục, chủng sinh, tu sĩ và cộng đoàn tham dự hơn 130 giáo dân cả người Việt và người nước ngoài.
Từ 3 năm qua, các Thánh lễ giỗ kính nhớ Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie đã không thể cử hành do đại dịch nCoV-19.
Năm nay, Thánh lễ đã được diễn ra tại Vương cung thánh đường Thánh Maria – Trastevere, gần nơi an nghỉ của ngài. Hiện nay, mộ của Đức Cố Hồng Y đang được lưu trong nhà thờ nhỏ Thánh Maria Cầu Thang (dẫn đưa về trời – Santa Maria della Scala), thuộc khu trung tâm nổi tiếng về du lịch Trastevere của Roma. Thánh đường rộng lớn để cộng đoàn tham dự vẫn giữ những quy định về việc giữ khoảng cách nơi công cộng (1m an toàn tại Italia).
Trong bài chia sẻ lời Chúa, ĐHY Peter đã nêu ra ba điểm mà trích thư của Thánh Phaolo gửi tín hữu Roma cũng như qua Tin mừng Luca được soi chiếu vào chính cuộc đời của chứng nhân hy vọng lỗi lạc, là Đấng Đáng Kính Đức Cố Hồng Y Phanxicô. Ngài là một con người tràn đầy tình yêu thương, yêu cả những kẻ bách hại mình; ngài cũng là một người có trái tim tràn đầy lòng thương xót và nơi ngài luôn sáng ngời Đức tin trung thành, lòng cậy trông và tình yêu mến.
ĐHY Peter mời gọi mọi người hãy là môn đệ kiên trung mạnh mẽ xây dựng Giáo hội bằng chính cuộc đời của mỗi người trên con đường nên thánh, như chính mẫu gương của Đấng Đáng Kính Đức cố Hồng Y Phanxicô mà chúng ta đang tưởng nhớ.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, cha Chủ tịch Liên tu sĩ Roma: Tôma Nguyễn Đình Anh Nhuệ, OFM đã thay lời cho cộng đoàn người Việt tại Roma có lời tri ân quý Đức Hồng Y, quý Đức Cha và cộng đoàn tham dự. Cha Toma xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho tiến trình phong Thánh của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sớm được Chúa thương chấp nhận.
Trước khi ra về, cộng đoàn cùng đọc kinh chung cầu nguyện cho Đức cố Hồng Y và xin ngài bầu cử cho con dân Nước Việt được bình an, mau chóng bước qua cơn đại dịch.
2021
Hội nghị online của các đại chủng viện tại Việt Nam
Lm. Giuse Phạm Văn Trọng,
Thư ký Ủy ban Giáo sĩ Chủng sinh/ HĐGMVN
“Nhu cầu gặp gỡ và chia sẻ giữa các nhà đào tạo rất cần thiết.” (Thư mời tham dự hội nghị, 8/2021).
Câu mở đầu trong thư gởi đến các đại chủng viện tại Việt Nam của Đức cha chủ tịch Ủy ban Giáo sĩ Chủng sinh (UBGSCS) đã nhấn mạnh đến một nhu cầu quan trọng trong việc đào tạo. Đó là nhu cầu gặp gỡ và chia sẻ kinh nghiệm của các nhà đào tạo tại đại chủng viện. Đây cũng là lý do thúc đẩy sáng kiến đưa đến Hội nghị online của các đại chủng viện tại Việt Nam trên nền tảng Zoom (Zoom Meeting) vào ngày 17/09/2021.
Hội nghị online lần này quy tụ hơn 100 người có kinh nghiệm đào tạo bao gồm Đức cha chủ tịch Giuse Đỗ Mạnh Hùng, cha Thư ký UBGSCS Giuse Phạm Văn Trọng, quý cha giám đốc, phó giám đốc, quý cha giáo nội trú và ngoại trú thuộc các 11 đại chủng viện tại Việt Nam.
Trong buổi sáng, từ 8g00 – 11g45, với chủ đề “Đào tạo linh mục và đường hướng truyền giáo trên nền tảng Hy tế Thập giá trong bối cảnh ‘khủng hoảng môi sinh’”, Hội nghị đã triển khai một nội dung gồm 03 phần vừa mang tính thời sự vừa xoay quanh hai huyết mạch xuyên suốt trong quá trình đào tạo linh mục tại đại chủng viện, đó là, đời sống cộng đoàn và truyền giáo (x. Ratio 2016, số 90 và 91).
Phần thứ nhất, Hội nghị lắng nghe bài thuyết trình “Công cuộc truyền giáo của hai giám mục tiên khởi tại Giáo hội Việt Nam” của Đức cha chủ tịch Giuse. Đây là một đề tài mang tính thời sự đối với Giáo hội Việt Nam bởi vì Giáo hội Việt Nam đang tiến hành hồ sơ phong thánh cho hai giám mục tiên khởi tại Việt Nam, Đức cha Pierre Lambert de la Motte và Đức cha Francois Pallu. Cùng với Đức tổng Giuse Vũ Văn Thiên, Đức cha chủ tịch UBGSCS Giuse Đỗ Mạnh Hùng được HĐGMVN ủy thác để tiến hành tiến trình sưu tập những bằng chứng về đời sống thánh thiện và nỗ lực truyền giáo tại Việt Nam của hai Đức cha Pierre Lambert de la Motte và Francois Pallu. Lắng nghe về hai gương mẫu giám mục tiên khởi tại Việt Nam là cơ hội để mỗi nhà đào tạo xác tín rằng truyền giáo là một huyết mạch sống còn của Giáo hội (Evangelii Nuntiandi, số 14). Đồng thời, nó là cơ hội để các nhà đào tạo kiểm nghiệm sức mạnh của đời sống cộng đoàn trong việc cộng tác để tạo nên hoa trái cho Giáo hội Việt Nam hôm nay với hơn 100.000 vị tử đạo, 27 giáo phận với các đại chủng viện đào tạo linh mục, 30 dòng Mến Thánh Giá, các hiệp hội Mến Thánh Giá Tại Thế…
Phần thứ hai, Hội nghị lắng nghe bài thuyết trình “Làm chứng cho Chúa trong bối cảnh khủng hoảng môi sinh thời đại dịch Covid-19” của cha Giuse Bùi Công Trác, Giám đốc Đại chủng viện Sàigon. Dựa trên giáo huấn nền tảng của Giáo hội về việc làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới, cha Giám đốc Giuse đã phác họa một bức tranh sống động về việc cộng tác của mọi thành phần dân Chúa trong việc giúp đỡ những anh chị em khốn khổ do ảnh hưởng của đại dịch tại Việt Nam. Đây là cơ hội để các nhà đào tạo suy nghĩ và mở ra một hướng đào tạo thích ứng và phù hợp cho các chủng sinh trước tiếng “than khóc của nhân sinh” nhằm làm cho họ trở thành các mục tử mang “mùi chiên” và sống giữa đoàn chiên (Ratio 2016, Dẫn Nhập và số 120).
Phần cuối, mỗi đại chủng viện chia sẻ về kế hoạch đào tạo trong thời gian bất ổn vì giãn cách do đại dịch Covid. Với hoàn cảnh riêng của mình, các đại chủng viện đã định hướng và xây dựng cho mình một chương trình đào tạo phù hợp nhằm bảo đảm tính liên tục và toàn diện của tiến trình đào tạo (Ratio 2016, Dẫn Nhập).
Kết thúc Hội nghị online, các tham dự viên tạ ơn Chúa vì đã có cơ hội được gặp gỡ, học hỏi và chia sẻ với nhau. Hội nghị online lần này đánh dấu một nỗ lực rất lớn của ban tổ chức và các tham dự viên sau một vài lần phải hủy bỏ hội nghị theo cách truyền thống vì giãn cách do đại dịch Covid. Nó cũng mở ra một hướng đi mới để các nhà đào tạo có cơ hội gặp gỡ và chia sẻ nhiều hơn các thao thức về đào tạo linh mục của mình.
2021
Các nhà khảo cổ phát hiện đồng bạc 2000 năm tuổi quý hiếm ở miền trung Israel
Các nhà khảo cổ phát hiện đồng bạc 2000 năm tuổi quý hiếm ở miền trung Israel
Mười sáu (16) đồng xu bằng bạc có niên đại 2.140 năm đã được phát hiện trong một cuộc khai quật khảo cổ học ở miền trung Israel. Một hệ thống đường hầm có thể đã được sử dụng trong Cuộc nổi dậy vĩ đại năm 66 sau Công nguyên cũng đã được khai quật.
Địa điểm khai quật
Cơ quan Quản lý Cổ vật Israel (IAA) hôm thứ Ba xác nhận rằng số tiền xu được tìm thấy vào tháng 4 tại thành phố Modi’in, phía tây Giêrusalem. Các nhà khảo cổ học đã tiến hành một cuộc khai quật trên một khu đất nông nghiệp trên đỉnh đồi do một gia đình Do Thái thành lập. Kho cất giữ tiền xu có từ thời kỳ Vương quốc Hasmoneus trong Kinh thánh, vương quốc cai trị vùng Giudêa từ năm 140 trước Công nguyên cho đến năm 37 trước Công nguyên. [1]
Giám đốc của cuộc khai quật, Avraham Tendler, suy đoán rằng một trong những thành viên của khu di sản chắc chắn đã phải rời đi và “chôn tiền của mình với hy vọng quay lại và lấy lại nó, nhưng rõ ràng là không may và không bao giờ trở lại.”
Tendler nói: “Thật thú vị khi nghĩ rằng kho cất giữ tiền xu đã chờ đợi ở đây 2.140 năm cho đến khi chúng tôi phát hiện ra nó.”
Cuộc nổi dậy vĩ đại
Theo IAA, những đồng tiền này được đúc ở thành phố Tyrô, ở miền nam Libăng ngày nay và mang chân dung của Antiochus VII và anh trai Demetrius II của ông. Antiochus VII cai trị đế chế Hy Lạp từ năm 138 trước Công nguyên đến năm 129 trước Công nguyên. [2]
Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy một số đồng xu bằng đồng được đúc bởi các vị vua vương triều Do thái Hasmoneus. Chúng mang tên của các vị vua Yehohanan (chú thích của người dịch: Gioan), Giuđa, Giônathan và Mattathias.
Các đồng tiền bằng đồng – có khắc ngày “Năm thứ Hai” của cuộc nổi dậy đầu tiên của người Do Thái địa phương chống lại Đế chế La Mã bắt đầu vào năm 66 sau Công nguyên và khẩu hiệu “Tự Do cho Sion” – cũng là bằng chứng cho thấy các cư dân đã tham gia cuộc nổi dậy.
Một hệ thống đường hầm dưới lòng đất được sử dụng để ẩn náu cũng như những tảng đá lớn dùng để tạo rào chắn cũng đã được khai quật.
“Có vẻ như cư dân địa phương đã không từ bỏ hy vọng giành được độc lập từ Rôma, và họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng để chống lại kẻ thù trong cuộc nổi dậy Bar Kokhba,” Tendler nói.
Công viên khảo cổ trong đường ống
Hàng chục chiếc vò rượu bằng đá, cũng như bồn tắm theo nghi lễ của người Do Thái, cũng được phát hiện, cho thấy những người sống trong khu định cư này tuân theo các lề luật nghi lễ về sự tinh sạch và không đụng đến đồ ô uế.
“Các thành viên trong gia đình đã trồng cây ô liu và vườn nho trên những ngọn đồi lân cận và trồng ngũ cốc trong các thung lũng,” Tendler nói và cho biết thêm rằng một khu công nghiệp, bao gồm máy ép ô liu và các kho chứa dầu ô liu, hiện đang được khai quật bên cạnh gia sản của gia đình.
Các cuộc khai quật, chẳng hạn như cuộc khai quật được thực hiện ở Modi’in, là bắt buộc phải thực hiện ở Israel trước khi bất cứ công trình mới nào được xây dựng. Một khu phố mới được lên kế hoạch trên địa điểm này, hiện sẽ bao gồm một công viên khảo cổ để bảo tồn các khám phá của IAA. [3]
THÀNH CỔ HY LẠP CỔ ĐẠI ĐƯỢC PHÁT HIỆN Ở GIÊRUSALEM DƯỚI MỘT BÃI ĐẬU XE
Acra, pháo đài huyền thoại được Antiochus xây dựng cách đây hơn 2.000 năm ở Giêrusalem, đã được khai quật dưới một bãi đậu xe. Tòa thành bị mất được coi là một trong những bí ẩn khảo cổ lớn nhất chưa được giải mã của thế giới.
Những người quen thuộc với truyền thống của người Do Thái sẽ biết đến cái tên Antiochus, vì ông là Vua Hy Lạp đã ra lệnh cấm các nghi lễ tôn giáo của người Do Thái – và điều đó đã châm ngòi cho cuộc nổi loạn Maccabê. Những người nổi dậy đã đánh bại quân Hy Lạp vì binh lình Hy Lạp bị chết đói sau khi những người nổi dậy bao vây thành trì của họ một thời gian dài. Chiến thắng được ghi nhớ với ngày lễ Hanukkah của người Do Thái.
Pháo đài Hy Lạp được xây dựng bởi Hoàng đế Seleucid Antiochus IV Epiphanes (215-164 trước Công nguyên), được gọi là Acra, được đề cập trong ít nhất hai văn bản cổ – Sách Maccabê, kể về cuộc nổi loạn, và một bản ghi chép của sử gia Josephus Flavius.
Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học đã phân vân trong hơn một thế kỷ về vị trí chính xác của tòa thành huyền thoại này. Nhiều người cho rằng nó nằm ở nơi ngày nay là Thành phố Cổ có tường bao quanh của Giêrusalem, một địa điểm được coi là linh thiêng đối với cả những người Do Thái vốn coi nó là Núi Đền Thờ và những người Hồi giáo giữ hai thánh địa ở đó, Dome of the Rock [4] và nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa. [5]
Giờ đây, “một trong những bí ẩn khảo cổ lớn nhất của Giêrusalem” có thể được giải quyết, Cơ quan quản lý cổ vật Israel cho biết vào thứ Ba (31/03/2015). Họ cho rằng thành cổ Hy Lạp này cuối cùng đã được tìm thấy – được chôn cất dưới một bãi đậu xe hơi.
Bãi đậu xe Givati trước đây nằm bên ngoài Thành phố Cổ, trong một khu phố của người Palestine ở phía đông Giêrusalem bị chiếm đóng, trên nơi từng được gọi là Thành phố của David vào năm 168 trước Công nguyên.
Doron Ben-Ami, người dẫn đầu cuộc khai quật, cho biết: “Khám phá giật gân này cho phép chúng tôi lần đầu tiên tái tạo lại bố cục của khu định cư trong thành phố, vào đêm trước của cuộc nổi dậy Maccabê năm 167 TCN”.
Một bức tường khổng lồ có thể là chân tháp đã được phát hiện – dài hơn 20 mét (65 feet) và rộng 4 mét (12 feet).
Những viên đá bằng chì bắn bằng ná và đầu mũi tên bằng đồng từ thời kỳ này cũng được tìm thấy tại các địa điểm chung quanh đó. Các nhà khảo cổ tin rằng chúng còn sót lại sau các trận chiến giữa các lực lượng thân Hy Lạp và phiến quân Do Thái đang cố gắng chiếm pháo đài.
Ben-Ami nói: “Đây là một ví dụ hiếm hoi về việc những viên đá, những đồng xu và bụi bẩn có thể kết hợp với nhau trong một câu chuyện khảo cổ học đề cập đến những thực tế lịch sử cụ thể của thành phố Giêrusalem”. (AFP, Reuters) [6]
Phạm Văn Trung chuyển ngữ.
Chú thích của người dịch:
[1] Các Vương Quốc Hasmoneus (tiếng Do Thái: חַשְׁמוֹנַּאִים Ḥašmona’īm) là một triều đại cai trị xứ Giuđêa và khu vực xung quanh trong thời kỳ cổ đại, từ 140 TCN đến 37 TCN. Giữa 140 và 116 TCN, vương triều cai trị Giuđêa bán tự trị khỏi Đế chế Seleukos, và từ khoảng năm 110 TCN, khi đế chế tan rã, Giuđêa đã giành được quyền tự trị hơn nữa và mở rộng sang các vùng lân cận như Samaria, Galilêa, Iturêa, Pêrêa và Idumêa. Các nhà cai trị Hasmoneus lấy danh hiệu Hy Lạp là “basileus”, (“vua” hoặc “hoàng đế”), và một số học giả hiện đại gọi thời kỳ này là một vương quốc độc lập của Israel. Vương quốc cuối cùng bị Cộng hòa La Mã chinh phục và vương triều Hasmoneus bị Herôđê Đại đế thay thế vào năm 37 trước Công nguyên.
Vương triều được thành lập dưới sự lãnh đạo của Simon Thassi, hai thập kỷ sau khi anh trai của ông là Giuđa Maccabê (יהודה המכבי Yehudah HaMakabi) đánh bại quân đội Seleucid trong Cuộc nổi dậy Maccabê. Theo quyển 1 và 2 sách Maccabê, và cuốn sách đầu tiên Chiến tranh Do Thái viết bởi sử gia Flavius Josephus (37 – 100 sau Công nguyên), chuyên về Do Thái, thì Vương triều Hasmoneus đã tồn tại được 103 năm trước khi bị sáp nhập vào vương triều Hêrôđê vào năm 37 trước Công nguyên. Việc Hêrôđê Đại đế (người Idumêa) lên làm vua vào năm 37 TCN đã biến Giuđêa trở thành một quốc gia bị trị của La Mã và đánh dấu sự kết thúc của triều đại Hasmoneus. Ngay cả sau đó, Hêrôđê cố gắng củng cố tính hợp pháp của triều đại của mình bằng cách kết hôn với một công chúa Hasmoneus, tên là Mariam, và lên kế hoạch giết chết người đàn ông thừa kế Hasmoneus cuối cùng tại cung điện Giêricô của ông ta. Vào năm 6 CN, Rôma kết hợp Giuđêa, Samaria và Iđumêa thành tỉnh Giuđêa của La Mã. Vào năm 44 CN, La Mã đã thiết lập quy chế kiểm sát song song với quy chế cai trị của các vị vua Hêrôđê, cụ thể là Agrippa I (41–44) và Agrippa II 50–100).
[2] Sách Macabê quyển I, chương 1, có nói đến vị vua “đó là Antiôkhô Êpiphanê, con vua Antiôkhô; vua này đã phải làm con tin ở Rôma, trước khi làm vua năm một trăm ba mươi bảy theo lịch triều Hilạp. Lúc bấy giờ, từ trong Ítraen đã nảy sinh những đứa vô lại, chúng đã dụ dỗ nhiều người như sau: “Nào chúng ta đi ký kết giao ước với các dân tộc láng giềng, vì từ khi sống cách biệt họ, chúng ta gặp phải nhiều tai hoạ.” Những người này thấy lời ấy thật vừa lòng. Một số người trong dân vội đi yết kiến nhà vua. Vua đã cho phép họ sống theo các tập tục của dân ngoại. Thế là họ đã xây một thao trường ở Giêrusalem theo thói các dân ngoại; họ huỷ bỏ dấu vết cắt bì, chối bỏ GiaoƯớc thánh để mang chung một ách với dân ngoại và bán mình để làm điều dữ.
Khi vua Antiôkhô thấy vương quyền đã vững, thì tính làm vua đất Aicập nữa để cai trị cả hai nước. Vua tiến vào Aicập với một đoàn quân đông đảo gồm: chiến xa, voi, kỵ binh và một đội tàu chiến lớn. Vua giao chiến với vua Aicập là Pơtôlêmai. Vua này quay lưng chạy trốn và nhiều người bị tử thương. Họ chiếm đoạt các thành trì kiên cố trong đất Aicập và thu chiến lợi phẩm của đất Aicập. Vua Antiôkhô trở về sau khi đã đánh bại Aicập năm một trăm bốn mươi ba, và vua tiến lên đánh Ítraen; vua tiến lên đến tận Giêrusalem với một đoàn quân đông đảo.
Ông ngạo nghễ đi vào thánh điện và chiếm đoạt bàn thờ bằng vàng, trụ đèn và mọi đồ phụ tùng, bàn để bánh tiến, các bình dùng trong lễ rưới, chén, bình hương bằng vàng, bức trướng, các triều thiên ; và ông lột hết các vật trang trí bằng vàng ở mặt tiền Đền Thờ. Ông lấy bạc, vàng, các vật quý giá, lấy cả các kho tàng đã được cất giấu mà ông tìm được. Vơ vét tất cả xong, ông trở về xứ sở, sau khi đã chém giết thật dã man và nói năng hết sức ngạo mạn.” (câu 10-23).
Đồng tiền mang chân dung Antiôkhô Epiphanê IV, kẻ được nói đến trong sách Macabê I.
Những đồng tiền mang chân dung Antiochus VII và anh trai Demetrius II được khai quật, theo Google Images.
[4] nhà thờ Vòm Đá Vàng, là một thánh đường Hồi giáo nằm tại khu vực Núi Đền Thờ thuộc thành cổ Giêrusalem.
[5] thánh đường Hồi giáo ở Phố Cổ của Giêrusalem, là địa điểm thiêng liêng thứ 3 của Hồi giáo.
2021
Lý do Mẹ Têrêxa mỗi ngày dành một giờ chầu trước Chúa Giêsu Thánh Thể
Sự phục vụ đầy anh hùng của Mẹ Têrêxa dành cho người nghèo được thực hiện qua lòng tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể.
Một trong những “bí quyết” giúp cho Mẹ Têrêxa Calcutta thành công với tư cách là một nhà Thừa sai Bác ái, đó là cam kết mỗi ngày dành một giờ chầu trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Mẹ Têrêxa luôn vững vàng vì tin rằng: cầu nguyện trước Chúa Giêsu là điều cần thiết cho công việc của mình giữa những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.
Mẹ Têrêxa đã có một bài phát biểu mạnh mẽ trước nhiều người triệu tập trong dịp Đại hội Thánh Thể ở Philadelphia vào năm 1976 và đã nhắc lại sự thật đơn sơ này.
“Để có thể sống trọn các lời khấn này, bốn lời khấn, chúng tôi cần phải để cuộc đời mình được đan dệt bằng Bí tích Thánh Thể. Đó là lý do tại sao chúng tôi bắt đầu một ngày của chúng tôi với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Với Người, chúng tôi tiến tới. Và khi trở về vào buổi chiều, chúng tôi có một giờ thờ phượng Chúa Giêsu trong Bí tích cực thánh, và lúc này, bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên, rằng chúng tôi không cắt giảm công việc của mình đối với người nghèo”.
Thật vậy, mẹ Têrêxa đã xác tín rằng mẹ có thể yêu thương người nghèo nhiều hơn nhờ giờ chầu Thánh Thể của mẹ.
“Điều đó đã đưa chúng tôi đến gần nhau. Chúng tôi yêu thương nhau nhiều hơn, nhưng tôi nghĩ chúng tôi yêu thương người nghèo bằng một niềm tin sâu xa và một tình yêu vĩ đại”.
Dòng Thừa sai Bác ái mà Mẹ Têrêxa thành lập vẫn tiếp tục truyền thống này, và luôn luôn dành thời gian để cầu nguyện trước Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Điều đó luôn là nền tảng của họ cho đến hôm nay, và là điểm tựa đối với công việc của họ giữa người nghèo.
Mẹ Têrêxa tin rằng: nếu bạn muốn yêu thương người nghèo một cách mãnh liệt hơn, bạn cần dành nhiều thời gian hơn cho việc chầu Thánh Thể.