2022
ĐHY Louis Raphael Sako tiếp phái đoàn của Phong trào Sadrist
ĐHY Louis Raphael Sako tiếp phái đoàn của Phong trào Sadrist
Thứ Ba 03/01, Đức Hồng y Louis Raphael Sako, Thượng phụ Công giáo Canđê ở Iraq đã tiếp phái đoàn của Phong trào Sadrist do ông Muqtada al Sadr, nhà lãnh đạo chính trị và dân quân của Iraq đứng đầu. Hai bên đã thảo luận về những vấn đề liên quan đến việc trả lại bất động sản của các Kitô hữu bị chiếm bất hợp pháp.
ĐHY Sako (Stefano Guidoni)
Theo thông cáo của Toà Thượng phụ, tại cuộc gặp gỡ, sau những lời chúc mừng năm mới Đức Thượng phụ, phái đoàn và Đức Hồng y tập trung thảo luận về tình hình chung của đất nước và các giai đoạn sắp tới của chiến dịch chính trị – pháp lý được thúc đẩy bởi Phong trào Sadrist nhằm trả lại bất động sản hợp pháp – nhà cửa và đất đai – cho các Kitô hữu mà trong những năm gần đây đã bị các cá nhân và nhóm có tổ chức chiếm bất hợp pháp.
Cũng theo thông cáo, cuộc gặp giữa Thượng phụ Công giáo Canđê và những người ủng hộ Phong trào Sadrist có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh giai đoạn thể chế-chính trị Iraq đã trải qua.
Cách đây đúng một năm, ông Muqtada al Sadr, đứng đầu Phong trào Sadrist có ảnh hưởng mạnh mẽ trong quốc hội Baghdad, đã ra lệnh thành lập một Ủy ban thu thập và xác minh tin tức, khiếu nại, liên quan đến các trường hợp chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản của các Kitô hữu. Mục đích của ông Muqtada al Sadr là khôi phục công lý, chấm dứt các vi phạm ảnh hưởng đến quyền tài sản của “những anh em Kitô hữu”, ngay cả khi chúng được thực hiện bởi các thành viên của cùng phong trào Sadrist. Yêu cầu báo cáo các trường hợp bị chiếm đoạt bất hợp pháp cũng được gửi đến các gia đình Kitô đã rời khỏi đất nước trong những năm gần đây.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của các gia đình Kitô có liên quan đến cuộc di cư ồ ạt của các Kitô hữu ở Iraq, sau các cuộc can thiệp quân sự do Mỹ dẫn đầu nhằm lật đổ chế độ Saddam Hussein. Nhiều người đã lợi dụng cơ hội này để chiếm đoạt nhà cửa, đất đai do không có ai trông coi.
Sáng kiến của Phong trào Sadrist đã gây ra một cuộc cạnh tranh đơn lẻ giữa các khối chính trị đối kháng, nhằm tranh giành vai trò lực lượng “bảo vệ” lợi ích của các công dân Kitô hữu và quyền tài sản của họ.
Vào 22/11/2021, thẩm phán Faiq Zidan, Chủ tịch Hội đồng Tư pháp tối cao – cơ quan hành chính cao nhất của cơ quan tư pháp – đã tiếp một phái đoàn của “Phong trào Babilonia”, một nhóm chính trị được coi là thân cận với các đảng Shiite thân Iran, mà trong cuộc bầu cử ngày 10/10 đã giành được bốn trong số năm ghế dành cho các nghị sĩ là Kitô hữu. Trong cuộc họp đó, cuộc trò chuyện cũng đã tập trung vào các vấn đề liên quan đến bất động sản thuộc sở hữu của các Kitô hữu và các biện pháp cần thực hiện để bảo vệ quyền sở hữu của họ.
Ngọc Yến
2022
Kinh Truyền Tin 6/1. ĐTC : Các Đạo sĩ dạy chúng ta tái khám phá sự khiêm nhường cần thiết để thờ lạy Chúa
Kinh Truyền Tin 6/1. ĐTC : Các Đạo sĩ dạy chúng ta tái khám phá sự khiêm nhường cần thiết để thờ lạy Chúa
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu khiêm nhường như các Đạo sĩ, từ bỏ thói quen sống khép kín và co cụm trong tâm hồn, không đặt mình làm trung tâm và khư khư theo ý riêng của mình; trái lại, biết khiêm tốn đón nhận thánh ý Thiên Chúa và dành chỗ cho Người để từ đó chúng ta có thể khám phá lại sự kỳ diệu của việc tôn thờ Chúa Giêsu, vì chúng ta chỉ thực sự thờ phượng Chúa khi tâm hồn chúng ta khiêm nhường và nhận ra mình cần ơn cứu độ.
Ngày 6/1, tại một số nước châu Âu mừng lễ Chúa Hiển Linh. Tại Vatican, sau khi cử hành Thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô, vào lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã cùng với đông đảo tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô đọc kinh Truyền Tin.
Trước khi đọc kinh Đức Thánh Cha có bài huấn dụ ngắn.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em, chúc mừng lễ!
Hôm nay là lễ trọng Chúa Hiển Linh, chúng ta chiêm niệm về trình thuật các Đạo sĩ trong Tin mừng thánh Mátthêu (x. 2,1-12). Họ phải trải qua một hành trình dài và mệt mỏi để đi và thờ lạy “vua dân Do Thái” (câu 2). Họ được hướng dẫn bởi dấu hiệu lạ thường của một vì sao, và cuối cùng khi đến đích, thay vì tìm thấy điều gì đó tuyệt vời, họ nhìn thấy một hài nhi cùng với người mẹ. Lẽ ra, họ có thể phản đối: “Một chặng đường dài và nhiều hy sinh vất vả để rồi chỉ tìm thấy một đứa trẻ đơn hèn sao?”. Tuy nhiên họ không bị vấp ngã, không bị thất vọng. Họ không phàn nàn, nhưng phủ phục thờ lạy. “Khi bước vào nhà – theo lời Phúc Âm – thấy Hài Nhi cùng với thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11).
Chúng ta hãy nghĩ đến những nhà hiền triết thông thái giàu có này, những người đến từ phương xa và phủ phục, tức là họ sấp mình xuống đất để thờ lạy một đứa trẻ! Nó có vẻ như là một điều mâu thuẫn. Thật là đáng ngạc nhiên khi một cử chỉ khiêm tốn như vậy lại được thực hiện bởi những người danh tiếng. Cúi mình trước một vị lãnh đạo, với dáng vẻ quyền lực và vinh quang là điều phổ biến vào thời đó. Và ngay cả ngày nay, điều đó không phải là điều xa lạ. Nhưng sấp mình trước Hài Nhi ở Bêlem thì không dễ dàng chút nào. Thật không dễ dàng để thờ phượng vị Thiên Chúa này, khi thần tính của Người vẫn chưa tỏ lộ và Người không có dáng vẻ khải hoàn. Nó có nghĩa là đón nhận sự vĩ đại của Thiên Chúa tỏ lộ trong sự nhỏ bé. Đây là một sứ điệp. Các Đạo sĩ hạ mình trước lối lý luận chưa từng nghe thấy của Thiên Chúa, họ chào đón Đấng Cứu Thế không phải như họ tưởng tượng về Người, nhưng như Người là, nhỏ bé và nghèo nàn. Sự thờ lạy của họ là dấu hiệu của những người đặt ý riêng của họ sang một bên và dành chỗ cho Thiên Chúa. Chúng ta cần khiêm nhường để thực hiện điều này.
Phúc Âm nhấn mạnh về điều này: Phúc Âm không chỉ nói rằng các nhà thông thái đã thờ lạy, nhưng nhấn mạnh rằng họ sấp mình thờ lạy. Chúng ta hãy hiểu chi tiết này: sự thờ lạy của họ đi đôi với việc sấp mình. Khi thực hiện cử chỉ này, các Đạo sĩ cho thấy rằng họ khiêm nhường chào đón Đấng tỏ mình ra trong sự khiêm hạ. Và đây là cách họ mở lòng ra để thờ phượng Thiên Chúa. Những kho tàng mà họ mở ra là hình ảnh của trái tim rộng mở của họ: sự giàu có thực sự của họ không nằm ở danh vọng và thành công, mà ở sự khiêm tốn, ở ý thức rằng họ cần ơn cứu độ. Đây là tấm gương các Đạo sĩ đưa ra cho chúng ta hôm nay.
Anh chị em thân mến, nếu chúng ta luôn là trọng tâm của mọi việc, với ý tưởng của riêng mình, và nếu chúng ta cho rằng mình có điều gì đó để khoe khoang trước mặt Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Người hoàn toàn, chúng ta sẽ không đến thờ phượng Người. Nếu sự giả tạo, phù phiếm, bướng bỉnh, cạnh tranh của chúng ta không được loại bỏ, chúng ta có thể sẽ đi đến chỗ tôn thờ ai đó hoặc điều gì đó trong cuộc sống, nhưng đó sẽ không phải là Chúa! Trái lại, nếu chúng ta từ bỏ sự tự mãn của mình, nếu tâm hồn chúng ta trở nên thơ bé, thì chúng ta sẽ khám phá lại sự ngạc nhiên của việc tôn thờ Chúa Giêsu. Bởi vì việc tôn thờ đến từ sự khiêm nhường trong tâm hồn: những người bị ám ảnh bởi chiến thắng sẽ không bao giờ nhận thức được sự hiện diện của Chúa. Chúa Giêsu đi ngang qua bên cạnh và bị phớt lờ, như đã xảy ra với nhiều người vào thời điểm đó, nhưng không phải với các Đạo sĩ.
Nhìn vào họ, hôm nay chúng ta tự hỏi: tôi khiêm nhường thế nào? Tôi có tin chắc rằng lòng kiêu hãnh ngăn cản sự tiến bộ thiêng liêng của tôi không? Niềm kiêu hãnh đó, dù bộc lộ hay tiềm ẩn, luôn che phủ sự thôi thúc đến với Thiên Chúa. Tôi có làm việc dựa trên sự ngoan ngoãn vâng lời để mở lòng với Thiên Chúa và người khác, hay tôi luôn chú trọng vào bản thân và sự tự phụ kiêu căng của mình? Tôi có biết cách gạt quan điểm của mình sang một bên để đón nhận ý Thiên Chúa và ý kiến người khác không? Và cuối cùng: tôi có chỉ cầu nguyện và thờ phượng khi tôi cần điều gì đó, hay tôi luôn làm điều đó vì tôi tin rằng tôi luôn cần đến Chúa Giêsu? Các Đạo sĩ bắt đầu lên đường và hướng nhìn theo ánh sao và tìm thấy Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ rất nhiều. Hôm nay chúng ta có thể thực hiện lời khuyên này: hãy nhìn vào ngôi sao và bước đi. Đừng bao giờ dừng bước, nhưng đừng quên nhìn vào ngôi sao. Đây là lời khuyên của ngày hôm nay: hãy nhìn theo ngôi sao và bước đi, nhìn theo ánh sao và bước đi.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, tôi tớ của Chúa, dạy chúng ta khám phá lại nhu cầu cốt yếu của lòng khiêm nhường và hương vị sống động của việc tôn thờ.
Kính mời quý vị cùng hiệp ý với Đức Thánh Cha trong Kinh Truyền Tin.
Sau khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha chúc mừng các anh chị em của các Giáo hội Đông phương, Công giáo cũng như Chính Thống, sẽ cử hành lễ Giáng sinh vào ngày mai (7/1). Ngài nồng nhiệt gửi đến họ những lời chúc tốt đẹp nhất với ơn hòa bình và mọi điều tốt lành: “xin Chúa Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, soi sáng cho gia đình và cộng đồng của anh chị em!”
Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắc rằng “Lễ Hiển Linh theo một cách đặc biệt là ngày lễ của hội nhi đồng truyền giáo, nghĩa là của những trẻ em và các thiếu niên – có rất nhiều ở các quốc gia khác nhau trên thế giới – những người dấn thân cầu nguyện và dâng số tiền tiết kiệm của mình để Tin Mừng được loan báo cho những người không biết Tin Mừng. Đức Thánh Cha cảm ơn họ và nhắc rằng việc truyền giáo bắt đầu với chứng tá Kitô giáo trong cuộc sống hàng ngày.
Về vấn đề này, Đức Thánh Cha khuyến khích các sáng kiến loan truyền Tin Mừng lấy nguyên tắc từ các truyền thống của Lễ Hiển linh và trong tình hình hiện tại, những sáng kiến này sử dụng nhiều phương tiện truyền thông khác nhau.
Hồng Thủy
2022
“Tiếng” nước tôi và “Lời” vĩnh cửu
“Tiếng” nước tôi và “Lời” vĩnh cửu
(Nhân kỷ niệm 90 năm qua đời (1932-2022) của thừa sai Albert Schlicklin (Cố Chính Linh), người đầu tiên dịch trọn bộ Thánh Kinh sang Quốc ngữ)
Dẫn nhập: Lời Chúa nhập thể vào mảnh đất Việt Nam
Nếu chọn thời điểm 1651, năm linh mục thừa sai Đắc Lộ xuất bản hai tác phẩm Quốc Ngữ đầu tiên tại Rôma: TỰ ĐIỂN VIỆT-BỒ-LA và PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY, để xác nhận cột mốc khai sinh chữ Quốc ngữ, thì phải mất gần ba thế kỷ sau, người Việt nam mới có thể đọc trọn bộ Kinh Thánh bằng “tiếng mẹ đẻ”. Thật vậy, lần đầu tiên trọn bộ Kinh Thánh bằng Quốc ngữ cùng phần chú giải kĩ lưỡng đã được thừa sai Albert Schlicklin (Cố Chính Linh)[1] thuộc giáo phận Tông tòa Tây Đàng Ngoài chuyển dịch và được Hội Thừa Sai Paris xuất bản tại Hong Kong năm 1913-1914 (Cựu Ước) – 1916 (Tân Ước) với tiêu đề KINH THÁNH CỨ BẢN VULGATA trọn bộ bốn tập I, II, III, IV, in song ngữ với hai cột song song: bên trái tiếng Việt, bên phải tiếng La Tinh. Phải chăng đó chính là cột mốc, là cái “Giờ” để Lời Chúa chính thức “nhập thể” vào mảnh đất Việt Nam !
Thực ra, trước đó hai năm (1910), Cố Chính Linh đã hoàn thành bản dịch như chính ngài xác nhận được ghi trong phần Tựa của cuốn Kinh Thánh: “Tại nhà tràng Lý đoán Ninh Phú ( Kẻ Sở ), ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, là ngày 15 tháng Maiô năm 1910”[2]; có nghĩa là, sau chặng đường hơn “hai thế kỷ rưỡi”, tiếng Việt của thừa sai Alexandre de Rhodes (1651) và tiếng Việt của thừa sai Albert Schlicklin (1910) đã cách xa một trời một vực. Thật vậy, nếu cuốn Tự điển Việt Bồ La của Đắc Lộ chỉ với khoảng 9.000 mục từ, thì toàn bộ Kinh Thánh tiếng Việt của Cố Chính Linh không biết bao nhiêu từ tiếng Việt mà kể ! Có thể nói được, ngôn ngữ Việt hoàn toàn có đầy đủ mọi từ để chuyển tải Lời Chúa, để diễn tả các ý nghĩa và chiều kích thâm sâu của Mạc Khải. Cho nên, xét về mặt văn chương văn học, có thể nói đây là một tác phẩm Quốc Ngữ ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học văn chương Công Giáo !
Riêng đối với những người Kitô hữu Việt Nam, Công Giáo hay Tin Lành hoặc các hệ phái Kitô giáo khác, vừa rất tự hào về công trình của các bậc tiền nhân vừa trân trọng biết ơn các ngài; bởi nhờ các ngài mà chúng ta dễ dàng tiếp cận Lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ, dễ dàng đọc, học, công bố, gẫm suy, truyền giảng… bằng chính ngôn ngữ Việt Nam của mình.
Và rồi, kể từ Bộ Kinh Thánh cứ bản Vulgata chuẩn mực nầy, cho tới hôm nay đã lần lượt xuất hiện nhiều phiên bản dịch Kinh Thánh khác nhau, hoặc trọn bộ hoặc từng phần hay một số tác phẩm…, của Giáo Hội Công Giáo cũng như Hội Thánh Tin Lành. Riêng phía Công Giáo, chúng ta có các bản dịch Kinh Thánh trọn bộ lần lượt được thực hiện như[3]:
– Bản dịch của Linh mục Gérard Gagnon do Thánh Tâm Biệt Thự Đà Lạt xuất bản năm 1963.
– Bản dịch của linh mục Trần Đức Huân do nhà xuất bản Ra Khơi Sài Gòn, xuất bản năm 1970.
– Bản dịch Kinh Thánh để dùng trong Phụng vụ của Ủy Ban Phụng Vụ năm 1973[4].
– Bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn do Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản năm 1976.
– Bản dịch của Đức Hồng Y G.M. Trịnh Văn Căn do Tòa Giám Mục Hà Nội xuất bản năm 1985.
– Bản dịch của Nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1998. (x. PHƯỚC NGUYÊN)[5].
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm qua đời của vị dịch giả thời danh, Albert Schlicklin – Cố chính Linh (1932-2022), một thừa sai, một trí thức, một thần học gia và triết gia, và 109 năm bản dịch Kinh Thánh cứ bản Vulgata của ngài (1913-2022), xin được khái quát đôi điều về cuốn Kinh Thánh tiếng Việt đầu tiên như một nén hương kính dâng về ngài; và như một “gợi ý” để các thế hệ cháu con hôm nay trân trọng di sản quý hiếm của cha ông cũng như biết tìm về học hỏi, rút ra từ đó những giá trị tuyệt hảo mang tính “thừa thượng tiếp hạ” hay “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” !
- LỜI CHÚA VÀ CHIẾC “XIÊM Y DIỄM LỆ”
- Nhận xét tổng quát:
Linh mục Alberto Trần Phúc Nhân đã có một nhận xét tổng quan về bản dịch trọn bộ Kinh Thánh nầy như sau:
Kinh Thánh cứ bản Vulgata. Cố Chính Linh (Albertus Schlicklin) địa phận Tây Đàng ngoài dịch ra tiếng Annam và thích nghĩa. Bộ này gồm 4 cuốn khổ 18 x 24 cm, với 768, 736, 652 và 894 trang. Sách có chuẩn ấn của Đức Cha P.M. Gendreau (Đức Cha Đông) ký tại Hà Nội ngày 19- 03-1913, và in năm 1913-1916 tại Hồng Kông ở nhà in Nazareth của Hội Truyền Giáo Paris. Vậy tính đến nay là chẵn 90 năm.
Chính bản văn Kinh Thánh chia làm hai cột: bản Vulgata La-tinh và bản dịch tiếng Việt. Bên dưới mỗi trang, thường có các chú thích, dài ngắn tuỳ chỗ ; các chú thích về “Sấm truyền mới” (Tân Ước) khá dài. Ngoài ra còn có những “Lời mở đàng” chung cho mỗi loại sách và riêng cho từng cuốn sách.
Nói chung, đối với chúng ta, lối văn đã quá xưa, nhất là trong cách xưng hô. Ngay trang đầu có dẫn Ga 5,39: “Hãy lục xét Sách thánh… Sách thánh làm chứng về tao.” Hay câu Đức Giê-su “lả lời” cho bà vợ ông Dê-bê-đê và hai con: “Đức Chúa Jêsu bảo các chúng rằng: thật chén tao thì bay sẽ uống ; còn sự ngồi bên tả bên hữu tao, chẳng phải tự tao ban cho bay, bèn là những kẻ Cha tao sắm để cho nó” (Mt 20,23). Dầu sao chúng ta phải khâm phục công trình của một vị thừa sai ngoại quốc đã mở đường cho việc dịch thuật và giải thích Kinh Thánh”[6].
- “Chiếc xiêm y” diễm lệ:
2.1. Hình thức trang trọng:
Xưa nay, cuốn sách nào mang tính giá trị cao (Kinh điển, Tự điển bách khoa, Lịch sử, Kỷ yếu…) thường được thiết kế in ấn với khổ giấy lớn, bìa cứng; nếu nhiều trang thì phân thành nhiều tập. Đối với các tín đồ các tôn giáo, sách Kinh Thánh là cuốn sách quan trọng và đáng tôn kính nhất. Chắc chắn, trong cái nhìn “trân trọng” đối với Lời Chúa đó, Cố Chính Linh, khi cho xuất bản cuốn Kinh Thánh trọn bộ đầu tiên bằng Quốc Ngữ đã mặc cho tác phẩm đặc biệt nầy một hình thức “trang trọng” với khổ in 18 x 24, một hình thức mà liên tiếp về sau, cả Công Giáo, lẫn Tin Lành, không có cuốn Kinh Thánh Việt ngữ nào mang dáng vóc đặc biệt như thế. Tất cả chỉ dừng lại ở khổ giấy 14 x 20; và cũng chỉ cuốn Kinh Thánh nầy được phối trí thành bốn tập I, II, III, IV theo đúng trình tự của Quy điển bản Kinh Thánh chuẩn Vulgata. Hầu hết các cuốn Kinh Thánh sau nầy đều in chung thành một cuốn; hoặc giả chia thành hai: một Cựu Ước, một Tân ước.
2.2. Trình bày song ngữ hay vai trò của bản Vulgata:
Ngoài những phần phụ cơ bản như linh mục Trần Phúc Nhân nhận xét “Bên dưới mỗi trang, thường có các chú thích, dài ngắn tuỳ chỗ ; các chú thích về “Sấm truyền mới” (Tân Ước) khá dài. Ngoài ra còn có những “Lời mở đàng” chung cho mỗi loại sách và riêng cho từng cuốn sách…”[7], điều đáng lưu ý của cuốn Kinh Thánh nầy đó là “Kinh Thánh chia làm hai cột: bản Vulgata La-tinh và bản dịch tiếng Việt”[8], một hình thức mà cho tới hôm nay, cũng chưa thấy một cuốn Kinh Thánh tiếng Việt nào sử dụng.
Hình thức nầy có quan trọng không? Thưa rất quan trọng và cần thiết; nhất là đối với chủng viện, tu viện, hay những cộng đoàn, những cá nhân muốn tiếp cận với tác phẩm Vulgata bằng tiếng La tinh. Đừng quên, đây là một kỳ công của chính thánh tiến sĩ Giêrônimô (347-420) và là bản Kinh Thánh chuẩn mực của Giáo Hội Công Giáo tông truyền kể từ thế kỷ thứ năm như quyết định của Công Đồng Trento (1546): “Nếu có ai không tiếp nhận các sách đó nguyên vẹn cùng với tất cả các phần của chúng, như người ta đã quen đọc chúng trong Giáo Hội Công Giáo và theo bản cũ là Latin thông tục bản (vulgata), như là những Sách Thánh và đúng theo quy điển Kinh Thánh (canonique); nếu người đó, một cách ý thức và cố ý, khinh thường các truyền thống nói trên: người đó phải bị trục xuất” (DENZINGER 1504)[9]. (x. JOHN A. HARDON)[10].
Và cũng chính qua yếu tố “song ngữ Việt – La” nầy mới thấy độ tự tin của Cố Chính Linh khi chuyển dịch Lời Chúa qua ngôn ngữ Việt; phải chăng, đây cũng chính là điểm thuận lợi để các thế hệ tiếp nối khi thực hiện các bản dịch Kinh Thánh có bản văn gốc để quy chiếu hầu biết bản dịch của mình trung thực với Lời Chúa thế nào; hoặc để khỏi trệch xa khỏi nội dung căn bản của Kinh Thánh được Giáo Hội chuẩn nhận như Thánh Công Đồng Trento xác quyết: “Hơn nữa Thánh Công đồng nghĩ rằng một điều có thể là hữu ích không nhỏ cho Giáo Hội của Thiên Chúa là biết bản nào phải coi là trung thực trong các bản Latin đã được xuất bản về các Sách Thánh đang lưu hành, cho nên Công Đồng quyết định và tuyên bố rằng chính bản Latin cổ kính và thông tục (vulgata), vốn được tán thành trong Giáo Hội do được sử dụng lâu dài trong biết bao thế kỷ, phải được coi là trung thực trong các cuộc giảng giải, tranh luận, rao giảng và trình bày công khai; xin đừng có ai cả gan hoặc có ý định vứt bỏ bản đó với bất kỳ cớ nào”.[11]
2.3. Trình bày các tác phẩm và bản văn:
Cũng giống như cách trình bày chung các sách Kinh Thánh, trước mỗi tác phẩm (Sáng Thế, Xuất Hành, Tin Mừng Matthêô, Khải Huyền…) đều có một giới thiệu khái quát về tác giả và nội dung tác phẩm. Cuốn Kinh Thánh Quốc ngữ của Cố Chính Linh cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là cách trình bày các bản văn.
Thật vậy, một trong những điểm đặc trưng của bản văn Kinh Thánh đó là luôn đi kèm với “dấu chỉ bằng số” xác nhận về “Đoạn” (hay “Chương”) và “Câu”. Chắc chắn nhờ phương cách đặc biệt nầy mà việc trích dẫn, tham chiếu, chứng minh và học thuộc trở nên dễ dàng. Nếu hầu hết các sách Kinh Thánh về sau thường để số chỉ “Đoạn” ở ngay đầu bản văn (Liền kề trước câu số “1”). Ví dụ: 1 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2), thì với “Kinh Thánh cứ bản Vulgata”, đoạn được đặt phía trên bản văn và ngay chính giữa với cở chữ lớn và dùng số La Mã cùng với một đoạn ghi chú nội dung khái quát bên dưới.
Những ai lần đầu tiên tiếp xúc với Kinh Thánh mà được đọc bản văn của “Kinh Thánh cứ bản Vulgata” của Cố Chính Linh chắc chắn sẽ hài lòng về cách trình bày rõ ràng, thứ tự, lớp lang như thế.
- Chú giải phong phú:
Phần đông các bộ Kinh Thánh đều có phần “Chú giải”. Đây có thể nói được là yếu tố xác định “nền tảng Thánh Kinh và thần học, văn chương và ngôn ngữ” của dịch giả Kinh Thánh. Vì chính trong phần “chú giải” nầy, người dịch rọi sáng thêm ý nghĩa phong phú, phức tạp, các mối liên quan… của từ ngữ Kinh Thánh cũng như những cách diễn đạt của ngôn ngữ địa phương.
Trong khía cạnh này, bản dịch của Cố chính Linh có thể “chiếm giải quán quân” về lượng chú giải; bởi có nhiều đoạn, phần chú giải nhiều hơn bản văn chính; và phần chú giải đồng hành với bản văn gần như suốt bộ Kinh Thánh. Qua chính phần chú giải nầy, chúng ta có cơ hội để biết sự phong phú và khả năng của tiếng Việt khi chuyển tải Lời Chúa.
- Uy tín: khỏi bàn cải
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, quả thật chúng ta không nghi ngờ gì trước uy tín và cái đầu uyên bác của một số linh mục thừa sai ngoại quốc hoạt động truyền giáo tại Việt nam như “nhà Việt Nam học” Cristoforo Borri với tác phẩm “Xứ Đàng Trong”,[12] “nhà ngôn ngữ học” Alexandre De Rhodes với Tự điển “Việt Bồ La”[13]; hay sau này có “nhà văn hóa” lớn là linh mục Léopold Cadière với tác phẩm để đời “Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt”[14]. Nhưng khi nói về lãnh vực Kinh Thánh, thần học và triết học thì có lẽ chúng ta phải dành cho linh mục thừa sai Albert Schlicklin – Cố chính Linh, là người đầu tiên chuyển dịch trọn bộ Kinh Thánh Vulgata sang tiếng Việt và soạn tác nhiều tác phẩm thần học, triết học bằng ngôn ngữ Việt. (x. Ghi chú 1 ở trên).
Và dĩ nhiên, ngoài việc được cọng tác và giúp đỡ của những người Công Giáo trí thức Việt Nam lúc bấy giờ, để chuyển tải Lời Chúa sang ngôn ngữ Việt Nam cách trung thực, chuẩn xác, truyền thống và hợp thời, Cố Chính Linh đã đọc, tham khảo nhiều tác giả, tác phẩm và tư liệu Kinh Thánh giá trị và uy tín đương thời, như chính ngài đã liệt kê nơi cuối phần Tựa cuốn Kinh Thánh cứ bản Vulgata:
- LỜI TUYỆT ĐỐI TRONG TIÊNG HỮU HẠN
Trong Bài Đọc II Giờ Kinh Sách của Chúa Nhật III Mùa Vọng vừa qua, Giáo Hội đã chọn trích đoạn Bài giảng của thánh Giám Mục Augustinô với tựa đề: Thánh Gioan là tiếng, Đức Kitô là Lời. Chúng ta có thể nghe lại một đoạn trong bài giảng thật thâm thúy sâu xa nầy: “Thánh Gio-an là tiếng, còn Chúa, ngay từ nguyên thuỷ, đã là Lời. Thánh Gio-an là tiếng trong thời gian, còn Đức Ki-tô, ngay từ lúc khởi đầu, đã là Lời vĩnh cửu. Bỏ lời đi, tiếng còn là gì? Ở đâu không có gì để hiểu, thì chỉ là tiếng vang trống rỗng. Không có lời, tiếng chỉ đập vào tai, chứ không cảm hoá được tâm hồn…”.
Kinh Thánh chính là Lời Chúa; mà Lời Chúa trong ngôn ngữ của Thánh sử Gioan đó chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô – “Lời hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta” (Ga 1,14); cũng vậy, trong ngôn ngữ của Thư Do Thái, Đức Kitô chính là “Lời cuối cùng”, “Lời chóp đĩnh” trong tiến trình “phán dạy” hay “mạc khải” của Thiên Chúa: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2).
Nếu Thánh Gioan Tiền Hô đã tự nhận mình là “tiếng hô trong hoang mạc” (Ga 1,23) để dọn đường cho dân Do Thái đón nhận “Lời”; và ngài đã dùng ngôn ngữ của quê hương ngài để giới thiệu Đức Kitô, thì một cách nào đó, các thừa sai, các nhà truyền giáo, trong đó có linh mục Albert Schlicklin – Cố chính Linh, đã dùng ngôn ngữ Việt Nam, tiếng Việt Nam để chuyển tải Lời Chúa cho dân tộc Việt chúng ta, như cách cắt nghĩa của Thánh Giáo phụ Augustinô: “Như vậy, khi tìm cách làm thế nào để lời đã có trong tâm hồn tôi chuyển đến bạn và ở lại trong tâm hồn bạn, tôi dùng tiếng, và bằng tiếng ấy tôi nói với bạn: âm của tiếng chuyển tới bạn ý tưởng của lời; và khi âm của tiếng chuyển tới bạn ý tưởng của lời rồi, thì chính âm đó qua đi, nhưng lời do âm chuyển đến bạn thì vẫn ở lại trong tâm hồn bạn mà không rời bỏ tâm hồn tôi” (Bài Đọc II Giờ Kinh Sách CN III MV).
Và như thế, Kinh Thánh, Lời Chúa luôn là “Lời tuyệt đối, toàn năng, vĩnh cửu…”, còn tiếng hay ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào hay bất cứ thời đại nào cũng đều mang tính “hữu hạn”. Tiếng Việt cưu mang Lời, chuyển tải Lời cách đây hơn 100 năm cũng không thể vượt ra ngoài “sự thật” nền tảng đó.
- Ngôn ngữ Việt chuyển tải Lời cách đây hơn một thế kỷ:
Từ khi cuốn Tự Điển của linh mục thừa sai Đắc Lộ đặt nền móng tiếng Việt được Latinh hóa xuất hiện vào thế kỷ 17 (Việt – Bồ – La 1651), và tiếp sau đó, khi ngôn ngữ Việt đã được phát triển và hoàn chỉnh cơ bản với cuốn Tự Điển của Đức Giám Mục Jean Louis Tabert (Anamitico-Latinum 1838), tiếng Việt hoàn toàn có thể trở nên phương thế hữu hiệu để chuyển tải Lời Chúa; và điều đó đã được Cố chính Linh thực hiện với bản dịch Kinh Thánh đầu tiên: KINH THÁNH CỨ BẢN VULGATA chính thức ra đời năm 1913 và hoàn chỉnh trọn bộ năm 1916.
Dĩ nhiên, khi đọc bản văn Kinh Thánh qua tiếng Việt cách đây hơn 100 năm, chúng ta không thể so sánh với ngôn ngữ hiện tại để đánh giá hơn thua, thấp kém; hay chỉ căn cứ vào một số từ xưng hô như “Tao, mầy…” để phủ nhận mọi giá trị cao quý khác…!
Trong lãnh vực nầy, xin được nhường lời cho các bậc thức giả chuyên viên về Kinh Thánh hay chuyên môn ngôn ngữ học. Ở đây, chỉ xin đan cử một vài trích đoạn tiêu biểu của bộ KINH THÁNH CỨ BẢN VULGATA như những viên ngọc sáng chói của ngôn ngữ Việt đầu thế kỷ 20.
- 1. Lời Thánh Vịnh đơn sơ:
Ở phần đầu, chúng ta đã thấy hai bản văn Kinh Thánh bằng văn xuôi của bộ “Kinh Thánh cứ bản vulgata”. Ở đây, xin đơn cử một bản văn Thánh Vịnh (Tv 1,1-6) để chúng ta cùng cảm nhận cách chuyển ngữ Kinh Thánh đơn sơ, gãy gọn của Cố Chính Linh:
1.2. Ngôn ngữ Tin Mừng chuẩn xác:
Bài Tựa Tin Mừng Gioan được kể là Bản văn Kinh Thánh đậm chất triết học và thần học sâu xa. Ngay từ 1913 mà cha ông chúng ta đã dùng tiếng mẹ đẻ để diễn tả trích đoạn Kinh Thánh đặc biệt nầy thì phải nói là tâm phục khẩu phục. Và Cố Chính Linh đã làm được chuyện đó như một đan cử sau:
- Khi Lời “nhập thể” trong tiếng Việt
Trong cuộc “tòa đàm trực tuyến” về chuyên đề “Văn Học Công Giáo đương đại” trong năm vừa qua, tôi đã có bài tham luận và đoạn kết đã nhận xét rằng: “Chọn lựa cách “hội nhập văn hóa” để chuyển tải Tin Mừng, để loan truyền chân lý cứu độ sao cho hiệu quả và phong phú, cách làm của Cha Ông ta đó nào đâu có phải là chuyện mới mẻ gì đâu! Từ thuở xa xưa khi bộ tộc của Israel còn trong thời “ăn lông ở lỗ”, khi tổ phụ của dân tộc họ, cụ Ápraham còn lang thang trên các thảo nguyên sống đời du mục, Thiên Chúa đã áp dụng nguyên tắc “hội nhập văn hóa” mang tính “nhập thể” rồi. Có nghĩa là Lời Mạc Khải của Thiên Chúa khi đi vào thế giới đã chọn đi qua “một chiếc cửa nhân loại” là “lịch sử của dân tộc Israel” với tất cả những yếu tố nhân văn, địa lý, xã hội, chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử… của dân tộc nầy. Toàn bộ tuyệt tác Thánh Kinh Cựu và Tân ước phải chăng là “Lời mạc khải nhập thể giữa lòng nhân loại qua lịch sử của dân tộc Israel”….
Cũng chính với nguyên tắc “hội nhập văn hóa” đó, mà chúng ta tìm thấy ngôn ngữ của Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước mang nhiều “dáng đứng” khác nhau, theo trào lưu lịch sử văn hóa xã hội của dân tộc Israel: Từ thể văn mang tính huyền thoại, cổ tích (Sáng Thế, Tin mừng thời thơ ấu), đến anh hùng ca lịch sử (Xuất Hành, Samuen, Macabêô…), pháp đình lề luật, phụng tự (Thứ luật, Lêvi…), khải huyền tiên tri (Đanien, Êgiêkien, Khải huyền của Thánh Gioan…), châm ngôn huấn đạo (Khôn ngoan, Châm Ngôn, Giảng Viên..), thi ca trữ tình (Diễm tình ca), truyện ngắn tình yêu (Hôsê…), ca kinh nguyện cầu (Thánh vịnh…)…”
Một khi Lời Chúa được trồng trên mảnh đất Việt Nam thân yêu, chắc chắn sẽ không đi ngoài “quy luật của muôn đời” đó. Vì thế, có gì lạ đâu, khi ngôn ngữ bên Tây rất nghèo về “đại từ nhân xưng” thì tiếng Việt chúng ta lại rất phong phú. Nếu có ai đó bị dị ứng với các từ “Tao, mầy” mà Cố chính Linh dùng thường xuyên trong “Kinh Thánh ứng bản vulgata” thì xin hiểu cho rằng: không phải lúc nào “mầy, tao, mi tớ” cũng là những từ của sự thô lỗ cục cằn, mà rất nhiều khi, đó lại là những từ của thân mật, gần gũi, như ca dao Việt Nam:
Cảm ơn cái cối cái chày,
Đêm khuya giã gạo có mầy có tao !
Cũng vậy, ông bà, cha mẹ rất thường dặn yêu con cháu: “Tết này mà tụi bay không về ăn tết với tao là bị ăn đòn á !”. Cũng đừng quên, xưng hô “tao mầy” là ngôn ngữ dành riêng cho đám bạn bè thân quen, nối khố…
Kết luận: Lời Chúa và “tác động Hiệp hành”
Cố nhạc sĩ tài danh Phạm Duy có bài hát thuộc diện “bất hủ”, bài “Tình Ca” hay quen gọi là “Tiếng nước tôi”; và ca khúc đã mở đầu với những dòng thơ mượt mà:
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
À à ơi! Tiếng ru muôn đời…
Và sau đó, bằng nhiều hình ảnh, cảm nhận lịch sử hay văn hóa dân tộc, ông đã thổi vào bài hát một cái hồn linh thiêng dịu vợi của tiếng Việt:
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui .
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi.
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!…
Một yêu câu hát Truyện Kiều.
Lẳng lơ như tiếng sáo diều ư diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà.
Miệng xinh ăn nói mặn mà ừ mà có duyên…
Từ lúc mới còn “nằm nôi” khi Tin Mừng lần đầu tiên được gieo vãi với “Phép Giảng Tám ngày”, với “Tự Điển Việt Bồ La” của cha Đắc Lộ (1651) cho đến khi vững vàng với “Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan” (1670), với “Tuồng Thương khó” của Nguyễn Bá Tòng (1912)…, và rồi hoàn mỹ với với “Sứ điệp tình thương của Nguyễn Xuân Văn” (2001)…, quả thật, “tiếng nước tôi” đã được muôn thế hệ Kitô hữu vận dụng, trau chuốt với nhiều thể loại để chuyển tải Lời Chúa. Và trong cái chuỗi dài vận dụng “tiếng nước tôi” để cưu mang Lời Chúa đó phải dành một vinh dự trân trọng cho linh mục thừa sai Albert Schlicklin – Cố chính Linh, người đầu tiên dịch toàn bộ Kinh Thánh bản Vulgata sang Việt Ngữ.
Dịp kỷ niệm 90 năm qua đời của ngài (2/3/1932) nằm trong thời gian Tổng Giáo Phận Hà Nội mở Công Nghị Giáo phận. Đây phải chăng là dịp thuận lợi để cộng đoàn Dân Chúa Hà Nội tưởng nhớ về ngài và công trình “Cuốn Kinh Thánh đầu tiên bằng Quốc ngữ”; đây cũng chính là điều mà trong thư mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên đã nhắc đến:
“Công nghị Giáo phận sẽ nhấn mạnh tới chiều kích mục vụ bao gồm những mục đích sau:
* Nhìn lại quá khứ với tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tri ân các bậc tiền nhân về những hồng ân trọng đại đã nhận được từ xưa đến nay…”[15].
Nhưng có lẽ, điều đáng suy nghĩ khi tìm lại một “công trình Lời Chúa” trong kho tàng “văn hóa đức tin” của Giáo Hội Việt Nam đó chính là “Lời Chúa và tác động Hiệp hành”.
Thật vậy, trong kinh cầu nguyện cho Thượng Hội Hội Đồng Giám Mục thế giới thứ XVI với chủ đề: HƯỚNG TỚI MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA, SỨ VỤ, có những lời như sau: “xin dạy chúng con lối đường phải đi và cách bước đi trên lối đường đó… Đừng để chúng con u mê sa vào nẻo đường lầm cũng đừng để chúng con làm theo thiên kiến. Xin giúp chúng con tìm thấy nơi Chúa sự hiệp thông giữa chúng con…”[16].
Thế nhưng người Kitô hữu nào lại không biết “Lời Chúa là đường soi bước chân con” (Tv 119,105), là trường dạy và yếu tố hiệp thông tuyệt hảo nhất. Đã hơn 400 năm đón nhận Tin Mừng, nhưng Giáo Hội Việt Nam vẫn chưa có được một bộ Kinh Thánh mang tính “Hiệp hành”, “hiệp thông”; vừa ghi dấu ấn “thừa thượng tiếp hạ” công sức và giá trị của cha ông, vừa “nhật nhật tân” của văn minh đương đại.
Ước mong định hướng “Hiệp hành” của Giáo Hội hôm nay sẽ được Dân Chúa Việt Nam biến thành hiện thực; và hiện thực căn bản đầu tiên đó là KINH THÁNH, là LỜI CHÚA.
Trương Đình Hiền (Viết xong ngày 6/1/2022)
[1] Albert Schlicklin (1857-1932), còn được biết với tên gọi Cố Chính Linh (“cố” là cố đạo, “Chính Linh” là tên âm Việt của ông), là một linh mục Công giáo La Mã người Pháp. Ông là người có công dịch bộ Kinh Thánh từ tiếng Latinh sang ngôn ngữ Việt Nam. Bản dịch của ông cho tới ngày nay vẫn là cơ sở cho các bản dịch Kinh Thánh chính thức. Ông sinh ngày 12 tháng 11 năm 1857 tại Liebsdorf, vùng Alsace (Pháp). Được Hội Thừa sai Paris gửi đến Việt Nam năm 1885, với sự giúp đỡ của các học giả Công giáo người Việt, ông nghiên cứu ngôn ngữ Việt và tập trung cho việc chuyển ngữ bộ Kinh Thánh từ bản Kinh Thánh Latin Vulgate, là bản Kinh Thánh được Tòa Thánh Vatican chính thức công nhận. Khoảng năm 1913 – 1914, Hội Thừa Sai Paris tại Hongkong cho phát hành bản Kinh Thánh Cựu ước, được in song ngữ bản Latin Vulgate với bản dịch Việt ngữ của ông. Năm 1916, Kinh Thánh Tân ước cũng được phát hành và cũng in song ngữ, một bên chữ Việt một bên chữ Latin.
Ngoài công trình dịch Kinh Thánh ra, ông còn viết một số tác phẩm bằng Việt ngữ như:
“Sách dạy về gốc tích cội rễ sự đạo”, 1908
“Thần học tín lý”, 1908
“Thần học luân lý”, 1911
“Công giáo luân lý khoa”, 1919
“Triết học khoa”, 1917
“Phép mộ sự khôn ngoan”, 1917
Ông qua đời ngày 2 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội.
Nguồn: Wikipedia: https://vi.wikipedia.org/wiki/Albert_Schlicklin
[2] KINH THÁNH CỨ BẢN VULGATA I, Cố chính Linh địa phận Tây Đàng ngoài, dịch ra tiếng An Nam và thích nghĩa, Hong Kong 1913, Tựa, XVI Về chế độ lề lối ta cứ trong sách nầy, tr. 23.
[3] X. LINH MỤC ALBERTO TRẦN PHÚC NHÂN, Các bản dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt, trích từ tác phẩm “Hướng đến 400 năm Văn học Công Giáo”, tr. 776-782.
[4] Không xuất bản thành một cuốn Kinh Thánh trọn bộ; chỉ có các bản văn trong các sách Phụng vụ; đặc biệt Sách Các Bài Đọc trong Thánh lễ.
[5] PHƯỚC NGUYÊN, Quá Trình Phiên Dịch Kinh Thánh Sang Tiếng Việt, trích từ Nguyệt San Linh Lực (1996), San Diego, California, website www.thuvientinlanh.org/qua-trinh-phien-dịch-kinh-thanh-sang-tiếng-việt/ đăng tháng 1/1996
[6] LINH MỤC ALBERTO TRẦN PHÚC NHÂN, sđd, tr. 777.
[7] Sđd.
[8] Sđd.
[9] HEINRICH DENZINGER, Các Tín biểu, Định tín và Tuyên bố của Giáo Hội Công Giáo trong lãnh vực đức tin và phong tục, chuyển ngữ: lm. Nguyễn Văn Hòa O.P., nxb Tôn Giáo 2019, khoản 1504, tr. 1546.
[10] JOHN A. HARDON), S.J., Tự điển Công Giáo phổ thông, chủ biên: lm. Đặng Xuân Thành, phiên dịch: Nhóm Chánh Hưng, nxb Phương Đông 2008, tr. 304-306.
[11] HEINRICH DENZINGER, sđd, khoản 1506, tr. 1546.
[12] CRISTOFORO BORRI, Relation de la nouvelle mission des pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2019, trang bìa trước: Cristofor Borri (1583-1632) sinh tại Milan năm 1583, vào Dòng Tên ngày 16 tháng 9 năm 1601 và khỏi hành đi Ấn Độ năm 1615. Dạy toán tại Coimbre và Lisbonne, được vua Philippe của Tây Ban Nha mời tới Madrid để giảng cho ngài về la bàn. Quan tâm đến những vấn đề liên quan tới hàng hải, nghiên cứu về thiên văn học, đã viết một cuốn chuyên luận về nghệ thuật hàng hải và một bản thảo dang dở về hải trình tới Ấn Độ… Ông là một trong những giáo sĩ dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong (Đại Việt), thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, lưu trú ở đó 5 năm (1618-1622).
[13] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, nxb Tôn giáo 2008, tr. 76, chú thích 81: Alexandre de Rhodes (1593-1660), sinh ngày 15-3-1593 tại Avignon là đất của Tòa thánh từ năm 1348-1791, nên Rhodes có quốc tịch Tòa thánh, mặc dù sống trong nền văn hóa Pháp; hoạt động truyền giáo ở ĐT qua hai thời kỳ: 1624-1626 và 1640-1645; là một trong hai người đầu tiên chính thức mở ra cuộc truyền giáo ở ĐN từ 1627-1630; Rhodes có nhiều sáng kiến, nhiệt tình, can đảm trong sứ vụ; Rhodes là thừa sai đi lại nhiều nơi nhất ở Việt Nm thời đó; cha có công rất lớn với văn học Việt nam, vì đã hoàn thành chữ Quốc ngữ và cho xuất bản sách Quốc ngữ đầu tiên năm 1651; bị trục xuất khỏi ĐT năm 1645, cha về Rôma, Pháp từ 1649-1654, vận động gửi Giám mục đi Việt Nam; bỏ Pháp cuối năm 1654, để đi Ispahan thủ đô Ba Tư (Iran) truyền giáo theo lệnh Bề trên cả DT; qua đời tại Ispahan 5-11-1660.
[14] Linh mục Léopold Cadière (1869-1955), sinh tại Aix-en-Provence Pháp năm 1869, thuộc Hội Thừa sai Paris. Đến và hoạt động tại Việt Nam từ 1892-1955, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, tín ngưỡng, dân tộc học, khảo cổ… là sang lập viên và là linh hồn của tạp chí Bulletin des amis du Vieux Hue (Đô Thành Hiếu cổ)= Tạp chí của những người bạn Huế xưa…(Theo tác phẩm “Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt”, nxb Thuận Hóa 2010, Lời Tựa, tr.9-14).
[15] GIUSE VŨ VĂN THIÊN, TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI, Thư mục vụ v/v triệu tập Công nghị Tổng giáo phận kỷ niệm 110 năm Công đồng Kẻ sở, website https://www.tonggiaophanhanoi.org/thu-muc-vu-trieu-tap-cong-nghi-tong-giao-phan-ky-niem-110-nam-cong-dong-ke-so/
[16] CẨM NANG CHO THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỀ TÍNH HIỆP HÀNH, Kinh cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng, tr. 3.
2022
85 nữ tu Ba Lan tử vong vì Covid-19
85 nữ tu Ba Lan tử vong vì Covid-19
Kể từ khi bắt đầu đại dịch đến nay, đã có 85 nữ tu thuộc các dòng hoạt động tại Ba Lan tử vong vì Covid-19, không kể các nữ tu dòng chiêm niệm.
fot. unsplash.com
Hôm 04 tháng Giêng vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký của Hiệp hội các Bề trên thượng cấp dòng nữ tại Ba Lan cho biết như trên. Nữ tu Phó Tổng thư ký Krescencja Huk, giải thích rằng các con số vừa nói không cho biết các nữ tu vừa nói chết vì Covid-19 như nguyên do chính, hay là vì đã có bệnh nền. Điều chắc chắn là tất cả các chị ấy đã nhiễm Coronavirus và điều này ít là đã góp phần đưa đến cái chết. Văn phòng Tổng thư ký của Liên hiệp không có thông tin từ các nữ Đan viện ở Ba Lan và con số các nữ tu tử vong vì đại dịch, tuy nhiên các dữ liệu này sẽ có trong thời gian tới đây.
Theo thống kê, năm 2020, tại Ba Lan có 105 dòng nữ với 16.764 nữ tu hoạt động và các nữ đan viện chiêm niệm có khoảng 1270 nữ đan sĩ.
(KAI 5-1-2022)
Trần Đức Anh, O.P.