2022
ĐTC sẽ thăm Cộng hoà Dân chủ Congo và Nam Sudan vào đầu tháng 7
ĐTC sẽ thăm Cộng hoà Dân chủ Congo và Nam Sudan vào đầu tháng 7
Sáng ngày 3/3/2022, Phòng Báo chí Toà Thánh thông báo rằng, nhận lời mời của các nguyên thủ quốc gia và các giám mục của Cộng hoà Dân chủ Congo và Nam Sudan, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm hai quốc gia này vào đầu tháng 7.
ĐTC trong buổi cầu nguyện cho hoà bình ở Nam Sudan và Congo, 2017 (Servizio Fotografico “Osservatore Romano”)
Đức Thánh Cha sẽ thăm hai thành phố Kinshasa và Goma của Cộng hoà Dân chủ Congo từ ngày 2 đến 5/7 và sau đó thăm thủ đô Juba của Nam Sudan từ ngày 5 đến 7/7/2022.
Cộng hoà Dân chủ Congo
Đức Thánh Cha đã nhiều lần bày tỏ sự gần gũi của ngài với người dân của Cộng hoà Dân chủ Congo, những nạn nhân của chiến tranh, của các vấn đề sức khoẻ và tình hình bất ổn chính trị. Mới đây Đức Thánh Cha đã lên án vụ tấn công của dân quân vũ trang vào một trại của người di tản nội địa ở miền đông nước này.
Cộng hoà Dân chủ Congo đang tiếp đón 5,6 triệu người tị nạn, phần lớn ở miền đông nước này, ở các tỉnh Bắc và Nam Kivu, Ituri và Tanganyika.
Đức Thánh Cha đã gặp ông Félix Antoine Tshilombo Tshisekedi, Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo, vào tháng 1/2020. Trong cuộc gặp, các vị đã thảo luận, đặc biệt là việc phê chuẩn Thỏa thuận khung giữa Tòa thánh và Cộng hòa Dân chủ Congo, được ký kết tại Vatican vào ngày 20/5/2016.
Cộng hòa Dân chủ Congo, trước đây là Cộng hoà Zaire, đã được ĐGH Gioan Phaolô II viếng thăm lần thứ nhất từ 2-6/5/1980 và lần thứ hai từ 14-16/8/1985.
Nam Sudan
Nam Sudan là quốc gia mới nhất trên thế giới; nước này giành được độc lập vào năm 2011. Tuy nhiên, kể từ năm 2013, quốc gia này đã chịu cảnh chiến tranh và sự tàn phá khi các bên tham chiến tranh giành quyền lực. Tổng thống Salva Kiir và Riek Machar, cựu thủ lĩnh phiến quân, đã đụng độ dẫn đến cuộc nội chiến khiến 400.000 người thiệt mạng.
Năm 2018, hai bên đã ký một hiệp định hòa bình, kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, kể từ đó, ở Sudan không có hòa bình, do các hiệp định và hiệp ước tiếp tục bị vi phạm.
Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi trong việc thúc đẩy hòa bình ở Nam Sudan. Vào tháng 4/2019, ngài đã mời các nhà lãnh đạo của Nam Sudan đến Vatican để tham dự hội nghị thượng đỉnh vào Lễ Phục sinh và ngài đã khiến những người có mặt kinh ngạc khi quỳ xuống và hôn chân họ như cử chỉ khiêm tốn khẩn cầu hòa bình.
Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh, đã gặp các nhà chức trách chính trị và tôn giáo của Nam Sudan từ ngày 21 đến 23/12 năm ngoái, trước chuyến thăm có thể có của Đức Thánh Cha.
Với chuyến thăm được xác nhận này, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là vị Giáo hoàng đầu tiên viếng thăm Nam Sudan.
Hồng Thủy
2022
ĐTC Phanxicô: Cần sống chậm lại để có giờ đối thoại giữa các thế hệ
ĐTC Phanxicô: Cần sống chậm lại để có giờ đối thoại giữa các thế hệ
Đức Thánh Cha mong muốn chúng ta nhận ra tầm quan trọng của người cao tuổi ở giữa chúng ta, và học hỏi từ họ rằng nhịp sống đích thực là nhịp sống của mối quan hệ hài hòa giữa các thế hệ.
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 2/3/2022 Đức Thánh Cha tiếp tục về chủ đề ý nghĩa và giá trị của tuổi già, được nhìn dưới ánh sáng của Lời Chúa. Cụ thể, ngài suy tư về đóng góp của người cao tuổi cho sự phát triển của một xã hội thực sự nhân văn, trong đó mỗi lứa tuổi có sự đóng góp của mình.
Đức Thánh Cha nói rằng người già có nhiều điều để dạy chúng ta về ý nghĩa của cuộc sống; sự khôn ngoan của họ, trưởng thành theo thời gian, có thể giúp chúng ta đối mặt với những câu hỏi và thách đố luôn mới do xã hội đang phát triển nhanh chóng ngày nay đặt ra. Ngài cũng nhấn mạnh rằng sự liên kết giữa người trẻ và người già – điều không thể thiếu cho một cuộc sống xã hội lành mạnh – có thể giúp chúng ta, giữa nhịp sống điên cuồng ngày nay, nhớ rằng, như những con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi có một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống chung của chúng ta, tái khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta và quan tâm đến nhu cầu của anh chị em chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong tường thuật của Kinh Thánh về các gia phả tổ tiên, người ta ngay lập tức bị ấn tượng với tuổi thọ quá cao của họ: các gia phả nói rằng họ sống hàng thế kỷ! Chúng ta đặt câu hỏi: trong các gia phả này, khi nào tuổi già bắt đầu? Đâu là ý nghĩa của việc những người cha thời cổ đại này sống rất lâu sau khi đã sinh con cái? Những người cha và các con sống với nhau hàng thế kỷ! Thời gian hàng thế kỷ này, được thuật lại theo văn phong nghi lễ, mang lại một ý nghĩa biểu tượng rất sâu sắc cho mối quan hệ giữa tuổi thọ và gia phả.
Cần thời gian để khám phá những trải nghiệm và bí ẩn của cuộc sống
Như chúng ta thấy, việc trao truyền sự sống con người, điều rất mới mẻ trong vũ trụ được tạo dựng, đòi hỏi một sự bắt đầu từ từ và kéo dài. Mọi thứ đều mới mẻ, vào khởi đầu lịch sử của một thụ tạo, là tinh thần và sự sống, ý thức và tự do, sự nhạy cảm và trách nhiệm. Sự sống mới – sự sống con người – bị lồng trong sự căng thẳng giữa nguồn gốc của nó “theo hình ảnh và giống với” Thiên Chúa, và sự mong manh của thân phận con người của nó, là một điều mới lạ cần được khám phá. Và nó đòi hỏi một khoảng thời gian bắt đầu lâu dài, trong đó sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thế hệ là điều không thể thiếu để giải mã những trải nghiệm và đối mặt với những bí ẩn của cuộc sống. Trong thời gian dài này, phẩm chất thiêng liêng của con người cũng từ từ được trau dồi.
Mỗi thế hệ có những câu hỏi về cuộc sống
Theo một nghĩa nào đó, mỗi giai đoạn trong lịch sử loài người lại mang đến cảm giác này: cứ như thể chúng ta phải bắt đầu lại từ đầu, một cách bình tĩnh, những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống, khi viễn cảnh về thân phận con người dường như tràn đầy những trải nghiệm mới và các câu hỏi cho đến nay chưa được giải đáp. Chắc chắn, việc tích lũy ký ức văn hóa giúp có thêm sự quen thuộc cần thiết để đối mặt với những giai đoạn mới. Thời gian chuyển trao giảm đi, nhưng thời gian để hoà nhập luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn. Lối sống quá vội, điều hiện đang ám ảnh mọi giai đoạn của cuộc đời chúng ta, khiến mọi trải nghiệm trở nên hời hợt hơn và ít “hữu ích” hơn. Những người trẻ tuổi là nạn nhân vô thức của sự phân chia này giữa thời gian trên đồng hồ, cần phải gấp gáp, và thời gian của cuộc sống, đòi hỏi một “sự dậy men” thích hợp. Tuổi thọ cao cho phép trải nghiệm những khoảng thời gian dài và nhận ra những thiệt hại của sự vội vàng.
Nhịp điệu chậm của tuổi già mở ra không gian về ý nghĩ của cuộc sống
Đức Thánh Cha nhận xét: Tuổi già chắc chắn có những nhịp độ chậm hơn: nhưng đó không chỉ đơn thuần là những thời gian chậm chạp ù lì. Thật vậy, thước đo của những nhịp điệu này mở ra, cho tất cả, những không gian về ý nghĩa của cuộc sống, những không gian không biết đến nỗi ám ảnh về tốc độ. Việc mất liên lạc với nhịp sống chậm hơn của tuổi già đóng lại những không gian này đối với tất cả mọi người. Chính từ chiều kích này, tôi đã mong muốn thiết lập Ngày Ông Bà, vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của tháng 7. Sự liên minh giữa hai thế hệ ở hai thái cực – trẻ em và người già – cũng giúp hai thế hệ còn lại – người trẻ và người lớn – gắn kết với nhau để làm cho cuộc sống của mọi người trở nên phong phú hơn trong nhân loại.
Cần đối thoại giữa các thế hệ
Chúng ta cần đối thoại giữa các thế hệ: nếu không có đối thoại giữa người trẻ và người già, giữa những người lớn, mỗi thế hệ sẽ bị cô lập và không thể truyền tải thông điệp. Hãy suy nghĩ: một người trẻ không kết nối với nguồn gốc của mình, là ông bà, thì không nhận được sức mạnh, như một cái cây không nhận được sức mạnh từ gốc rễ và phát triển èo ọt, bệnh tật, phát triển mà không có điểm quy chiếu. Đây là lý do tại sao chúng ta cần tìm kiếm, như một nhu cầu của con người, sự đối thoại giữa các thế hệ. Và cuộc đối thoại này, chính xác là giữa ông bà và các cháu, những người thuộc hai thái cực, là điều quan trọng.
Lối sống quá vội sẽ nghiền nát cuộc sống
Chúng ta hãy tưởng tượng một thành phố trong đó sự chung sống của các lứa tuổi khác nhau tạo thành một phần không thể thiếu trong quy hoạch tổng thể về cuộc sống của nó. Chúng ta hãy suy nghĩ về sự hình thành của các mối quan hệ tình cảm giữa tuổi già và tuổi trẻ, điều thể hiện trên phong cách tổng thể của các mối quan hệ. Sự chồng chéo của các thế hệ sẽ trở thành nguồn năng lượng cho một chủ nghĩa nhân văn thực sự hữu hình và đáng sống. Thành phố hiện đại có xu hướng thù địch với người già (và không phải ngẫu nhiên, cả với trẻ em). Xã hội với tư tưởng vất bỏ này: loại bỏ nhiều trẻ em không được mong muốn và loại bỏ những người già; nó loại bỏ họ vì họ không có ích với lương hưu, cho việc hồi phục… Lối sống vội sẽ đặt chúng ta vào một cái máy ly tâm và nó cuốn chúng ta đi như những cánh hoa giấy. Chúng ta hoàn toàn đánh mất tầm nhìn tổng thể. Mỗi người nắm giữ mảnh nhỏ của riêng mình, điều trôi theo dòng chảy của thị trường-thành phố, điều khiến những nhịp điệu sống chậm hơn bị cuốn mất và tốc độ chính là tiền bạc. Lối sống quá vội sẽ nghiền nát cuộc sống, không làm cho nó trở nên mãnh liệt hơn.
Cần “mất thời gian”
Và để có sự khôn ngoan chúng ta cần “mất thời gian”. Khi bạn về nhà và nhìn thấy con trai, con gái của bạn và “bạn mất thời gian”, nhưng trong cuộc trò chuyện này, là điều cơ bản cho xã hội, bạn cần “mất thời gian” với các con; và khi bạn về nhà, có ông bà – có thể không còn minh mẫn lắm hoặc đã mất đi một chút khả năng nói -, và bạn ở với ông hoặc bà, bạn “mất thời gian”, nhưng sự “lãng phí thời gian” này củng cố gia đình nhân loại. Cần phải dành thời gian, một khoảng thời gian không sinh ra tiền bạc, với trẻ em và người già, bởi vì họ cho chúng ta một khả năng khác để nhìn cuộc sống.
Tương quan giữa người già và người trẻ phục hồi niềm hy vọng
Tiếp tục bài giáo lý, Đức Thánh Cha nhận định: Đại dịch, trong đó chúng ta vẫn buộc phải sống, đã bắt sự sùng bái lối sống vội phải dừng lại. Và trong thời gian này, các ông bà đã đóng vai trò như một bờ đê chống lại “sự khô cằn” tình cảm nơi những người trẻ nhất. Liên minh hữu hình của các thế hệ, điều giúp hài hòa thời gian và nhịp điệu, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng không sống cuộc sống vô ích. Và nó khôi phục cho mỗi người chúng ta tình yêu đối với những sự sống dễ bị tổn thương của chúng ta, chặn đứng con đường dẫn đến nỗi ám ảnh về sống vội, thứ vốn chỉ đơn giản là tiêu thụ. Từ khóa cho mỗi người trong các bạn, tôi nghĩ: bạn có biết mất thời gian không, hay bạn luôn vội vã chạy theo tốc độ? “Không, tôi đang vội, tôi không thể …”? Bạn có thể mất thời gian với ông bà, với người già không? Bạn có thể dành thời gian chơi với con cái của bạn, với lũ trẻ không? Hãy suy nghĩ một chút. Và điều này mang lại cho mọi người tình yêu đối với cuộc sống dễ bị tổn thương của chúng ta, ngăn chặn – như tôi đã nói – con đường dẫn đến nỗi ám ảnh về tốc độ, thứ đơn giản chỉ là sự tiêu thụ. Nhịp điệu của tuổi già là một nguồn lực không thể thiếu để hiểu được ý nghĩa của cuộc sống được đánh dấu bởi thời gian. Người già có nhịp điệu của họ, nhưng đó là những nhịp điệu giúp ích cho chúng ta. Nhờ sự trung gian này, mục đích của cuộc sống – gặp gỡ với Thiên Chúa – trở nên đáng tin cậy hơn: đó là một dự án được ẩn giấu trong việc tạo dựng con người “theo hình ảnh của Người và giống với Người” và được đóng ấn trong Con Thiên Chúa làm người.
Ý nghĩa của cuộc sống
Ngày nay tuổi thọ của con người cao hơn. Điều này cho chúng ta cơ hội gia tăng sự liên kết giữa mọi thời đại của cuộc sống; và với ý nghĩa của cuộc sống một cách trọn vẹn. Ý nghĩa của cuộc sống không chỉ ở tuổi trưởng thành, từ 25 đến 60; không. Ý nghĩa của cuộc sống là tất cả, từ khi sinh ra đến khi chết đi và bạn phải có khả năng nói chuyện với mọi người, có những mối quan hệ tình cảm với mọi người, như vậy sự trưởng thành của bạn sẽ phong phú hơn, mạnh mẽ hơn. Và nó cũng cung cấp cho chúng ta ý nghĩa cuộc sống, đó là tất cả.
Vẻ đẹp của nhịp điệu cuộc sống
Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta trí thông minh và sức mạnh để thực hiện sự thay đổi này. Sự lấn át của thời gian của đồng hồ phải được chuyển đổi thành vẻ đẹp của nhịp điệu cuộc sống. Đây là sự cải cách mà chúng ta phải thực hiện trong lòng mình, trong gia đình và xã hội. Hãy biến đổi sự lấn át của thời gian, thứ luôn hối thúc chúng ta, thành nhịp điệu của cuộc sống. Sự liên minh của các thế hệ là điều cần thiết. Trong một xã hội mà người già không nói chuyện với người trẻ, người trẻ không nói chuyện với người già, người lớn không nói chuyện với người già hoặc với người trẻ, đó là một xã hội vô sinh, không có tương lai, một xã hội không nhìn về phía chân trời nhưng chỉ ngắm nhìn chính mình. Và trở nên đơn độc. Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra thứ âm nhạc phù hợp cho sự hòa hợp này của các độ tuổi khác nhau: trẻ nhỏ, người già, người lớn, tất cả cùng nhau: một bản giao hưởng đối thoại tuyệt đẹp.
Hồng Thủy
2022
Ơn hoán cải của triết gia Eric-Emmanuel Schmitt
Ông Eric-Emmanuel Schmitt, một triết gia, nhà biên kịch và tiểu thuyết gia, là một nhân vật được quốc tế biết đến nhiều nhất của văn hoá Pháp. Sinh năm 1960, được giáo dục từ cha mẹ là những người không tin, nhưng ông Schmitt đã gặp được Chúa và trở thành Kitô hữu. Câu chuyện hoán cải được chính ông kể lại.
Vào năm 1989 ở sa mạc Sahara, đã xảy đến một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ của một người vô thần với Chúa. Ông Schmitt nói: “Ở đó, tôi một mình với Chúa. Nói rằng một người hoán cải có nghĩa là người này đã có một chọn lựa chủ động và tự nguyện. Tôi phải thừa nhận rằng điều này không diễn tả chính xác những gì tôi đã trải qua trong đêm sa mạc đó. Đúng hơn tôi đã nhận được một ân sủng và một hồng ân đặc biệt. Và tôi đã dành tất cả không gian trong tôi cho hồng ân này. Vì vậy, nếu mọi người gọi tôi là người được ơn trở lại, tôi thích được gọi là một người đã nhận được một ơn mặc khải”.
Triết gia không thích nói về hoán cải. Nhưng khẳng định đã nhận được một mặc khải. Ông giải thích: “Đây là biểu hiện đặc trưng nhất của tôi, bởi vì nó nói lên sự ngạc nhiên về hồng ân mà tôi đã lãnh nhận được. Tôi không tìm kiếm Chúa và tôi không biết Chúa đang tìm kiếm tôi. Tôi đã được cho một điều gì đó mà tôi không tìm kiếm. Đối với tôi, mặc khải này chỉ là khởi đầu”.
Thực tế, khi trở lại Pháp, nhà soạn kịch đã dành hết tâm trí để đọc nhiều thơ thần bí thuộc các tôn giáo khác nhau. Ông chia sẻ: “Sau mặc khải đó, tôi đã thực hiện một cuộc hành trình để khám phá Tin Mừng. Và có một hoạt động rất tích cực từ phía tôi, chính xác là để hiểu văn bản đầy mâu thuẫn này. Trong điều này, tôi có thể nói rằng tôi đã trải qua một sự hoán cải. Vì vậy, tóm lại: trong sa mạc, một sự mặc khải; với Tin Mừng, một cuộc hoán cải”.
Có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng câu chuyện về sự mặc khải này rất giống với câu chuyện của nhà thám hiểm người Pháp Charles de Foucauld. Như Schmitt, Charles de Foucauld cũng đã hoán cải sau cuộc gặp gỡ với Chúa ở tâm điểm Sahara. Từ lúc đó, de Foucauld, người đã trở thành một ẩn sĩ, bắt đầu thực hiện công cuộc loan báo Tin Mừng vĩ đại ở những vùng đất đó. Ông Schmitt nhận xét: “Sức mạnh của Charles de Foucauld không phải là việc cố gắng Kitô hóa những dân tộc đó bằng sức mạnh, nhưng là để làm chứng cho Tin Mừng bằng mẫu gương sống. Như Chúa Kitô đã làm trong thời của Người”.
Theo ông Schmitt, nhà truyền giáo này không sống truyền giáo theo cách của một đế quốc nhưng đi giữa mọi người, một dân tộc mà vào thời điểm đó chưa được biết đến, không phải để thay đổi họ nhưng trái lại để chính mình được họ thay đổi.
Ông thích so sánh hình ảnh của Charles de Foucauld với Đức Thánh Cha Phanxicô: “Tôi thấy giống như de Foucauld, Đức Thánh Cha đã đưa ra một hình ảnh của Kitô giáo có thể được đánh giá cao ngay cả đối với người không tin hoặc không phải là Kitô hữu. Điều này thấy rõ khi ngài đến đến Lampedusa và nói về ‘toàn cầu hóa của sự dửng dưng’. Ở điểm này, Đức Thánh Cha đã chạm đến nội tâm của nhiều người không phải là Kitô hữu. Rồi ở Châu Mỹ Latinh, vào mùa hè 2014, ngài đã công bố các nguyên tắc cơ bản của nhân loại và điều này đã làm cho nhiều người chưa tin hiểu ngài”.
Đức tin đã nâng đỡ cuộc đời ông Schmitt. Một đức tin mà đối với người từng vô thần như Schmitt, ngay cả trong giây phút đau đớn phải lìa xa mẹ, đã trở thành điểm tựa để nâng đỡ. Trong sách mới “Nhật ký của một tình yêu bị mất”, ông giãi bày nỗi lòng của một người con trước cái chết của mẹ mình; những lời thú nhận lo lắng, bồn chồn của một người tin khi đối diện với mầu nhiệm của cái chết.
Tác giả khẳng định luôn cầu nguyện cho người mẹ đã khuất: “Tôi cầu nguyện cho mẹ tôi vài lần trong ngày. Tôi cầu nguyện, xin cho mẹ tôi đến vương quốc mà bà sẽ đến không phải lo lắng và hoảng sợ. Tôi cầu nguyện xin cho mẹ tôi được bước đi trong hạnh phúc”. Và triết gia nói: “Tôi tin vào sức mạnh của đức tin”.
Và ông đã lặp lại điều này trong sách nói về “tôn giáo”. Ông Schmitt viết: “Tôi có đức tin. Không có gì trong xác tín của tôi cho tôi biết về thế giới bên kia, đơn giản tôi chỉ nuôi dưỡng lòng tin. Hãy tin tưởng vào mầu nhiệm làm chúng ta hiện hữu. Tin tưởng vào cuộc sống. Tin tưởng vào cái chết. Cuộc sống là một bất ngờ tốt đẹp, cái chết sẽ là một bất ngờ tốt đẹp. Loại nào? Tôi không có ý kiến!”.
Nguồn: vaticannews.va/vi/
2022
Vai trò của nữ tu & phụ nữ sống đời thánh hiến
“Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn người phụ nữ” (Victor Hugo).
Trong mạng lưới cầu nguyện toàn cầu tháng 02.2022, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi toàn thế giới cầu nguyện cho các nữ tu và những phụ nữ sống đời thánh hiến. Đức Thánh Cha cảm ơn sứ mạng và lòng can đảm của các nữ tu và mời gọi thế giới cầu nguyện, để các nữ tu có thể “tiếp tục tìm ra những cách thế đáp lại những thách đố của thời đại.” Ngài đã “khuyến khích tất cả những người nữ sống đời thánh hiến hãy phân định và chọn lựa điều gì là tốt nhất cho sứ vụ của mình.”
Là những người nữ sống đời Thánh Hiến – những Nữ tu, chúng ta có vị trí và vai trò nào trong Giáo hội và xã hội? Cuộc đời dâng hiến có ý nghĩa gì?
Đức Thánh Cha Phanxicô, vị cha chung của chúng ta đã nói lên quan điểm của mình: “Phụ nữ ở bất cứ thời đại nào, quốc gia nào, dân tộc nào cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc sáng tạo, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc”. Ngài còn bày tỏ: “Cha mạnh mẽ mong ước rằng (cơ hội và trách nhiệm) mở ra hơn nữa cho sự hiện diện và tham dự của nữ giới trong Giáo hội cũng như trong xã hội và các lãnh vực chuyên môn”.
Trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (EG 103), ngài khẳng định: “Hội Thánh nhìn nhận sự đóng góp quan trọng của phụ nữ đối với xã hội, bởi sự nhạy cảm, trực giác và một số khả năng của họ… Tôi vui mừng vì biết bao phụ nữ chia sẻ trách nhiệm mục vụ với các linh mục, đang góp phần vào việc giúp đỡ các cá nhân, gia đình hoặc các nhóm và có các đóng góp mới về sự suy tư Thần học. Nhưng chúng ta còn phải mở rộng không gian cho một sự hiện diện quyết định hơn của phụ nữ trong Hội Thánh. Bởi vì thiên tài của phụ nữ là điều cần thiết trong tất cả các hình thức của đời sống xã hội…”.
Các Nữ tu có vai trò thiết yếu trong quá trình tạo ra một Giáo hội mang tính đồng nghị hơn và chuẩn bị cho Thượng hội đồng Giám mục, không chỉ thông qua lời cầu nguyện và sự tham gia của họ, mà còn bằng cách lắng nghe những người thường không tham gia vào các hoạt động của Giáo hội, Đức Thánh Cha Phanxicô nói:
“Các Nữ tu tận hiến, chính là sự hiện diện không thể thay thế trong cộng đoàn đông đảo đang tiến bước, đó là Giáo hội”. Đức Thánh Cha chia sẻ hôm 11 tháng 10 trong buổi tiếp kiến các thành viên tham dự Tổng Công hội của các Nữ tu Dòng Nữ tử Bác ái Thánh Jeanne-Antide Thouret.
“Các Nữ tu tận hiến là sự mở rộng của sự hiện diện của nhóm phụ nữ cùng đồng hành với Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai, chia sẻ sứ mạng và đóng góp sự độc đáo của chính các chị em”, Đức Thánh Cha nói, và đồng thời cũng lưu ý rằng Phúc Âm Thánh Luca thậm chí còn kể tên một số phụ nữ: Maria Magdalene, Joanna và Susanna.
Như đã lặp lại nhiều lần trong triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha yêu cầu các nữ tu và những người nữ sống đời thánh hiến: “tiếp tục làm việc và gần gũi với anh chị em nghèo khổ, với những người bị gạt ra bên lề xã hội, với hết thảy những ai là nạn nhân của những kẻ buôn người; tôi đặc biệt mời gọi họ gần gũi với những anh chị em này.”
Video ý cầu nguyện tháng 02.2022 của Đức Thánh Cha cũng nhắc đến những đóng góp to lớn của các nữ tu về mặt dân sự và trí tuệ: trong thực tế, các nữ tu và những người nữ sống đời thánh hiến giảng dạy tại các trường đại học, tham gia các hội nghị thượng đỉnh quốc tế về môi trường, và làm trung gian trong các tình huống khủng hoảng chính trị.
Đức Thánh Cha cũng nhìn nhận rằng; đôi khi các nữ tu bị đối xử bất công, ngay cả trong Giáo hội, và ngài mời gọi họ đấu tranh chống lại nó và đừng mất can đảm. Ngài yêu cầu họ tỏ bày vẻ đẹp của tình yêu và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa trong vai trò là những giáo lý viên, những thần học gia và những người hướng dẫn thiêng liêng.
Đức Thánh Cha mong rằng: “các nữ tu tiếp tục làm cho sự tốt lành của Thiên Chúa được biết tới qua những công việc tông đồ mà họ đang làm, nhưng trên hết là qua chứng tá đời sống thánh hiến của họ.” (CSR_314_2022).
Là Nữ tu, những phụ nữ sống đời Thánh hiến là những phụ nữ đặc biệt và luôn gắn kết với thân phận phụ nữ. Đức cố Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc trong bài giảng Thánh lễ nhân ngày Phụ nữ Quốc tế do hội Các Bà Mẹ Công Giáo Giáo phận Sài Gòn, tổ chức vào tháng 3/2010 đã đưa ra những đặc nét của phụ nữ như: “Sự dịu dàng của người phụ nữ có tác dụng thay đổi một con người tính khí bất thường và chính là chứng tá cho sự dịu dàng của Thiên Chúa. Lòng nhân hậu của người phụ nữ luôn luôn nhạy cảm trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người khác, là hiện thân của lòng thương xót Chúa Kitô…” (10 tiêu chuẩn về một người phụ nữ đạo hạnh và tốt lành).
Dù có nhiều ưu điểm và giới hạn, những người phụ nữ, đặc biệt là những người nữ sống đời thánh hiến luôn được kêu mời “làm tông đồ cho tương lai nhân loại” bằng những phương cách thích hợp khác nhau, tùy theo từng vị thế và môi trường sống.
Từ những ý tưởng trên, chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta được sinh ra là những người nữ, đã trao tặng cho mỗi người chúng ta nhiều ân sủng và nhất là Ngài mời gọi chúng ta sống đời Thánh hiến, là những Nữ tu.
Tháng cầu nguyện cho các nữ tu và những phụ nữ sống đời thánh hiến đã khép lại, chúng con xin tạ ơn Chúa, chúng con nhìn lại bản thân để khám phá từng bước chân và ân ban mà Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên cuộc đời của chúng con. Chúng con xin tri ân Đức Thánh Cha cùng mọi thành phần trong Giáo Hội đã cầu nguyện cho chúng con, những phụ nữ sống đời thánh hiến. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và nâng đỡ, giúp chúng con trân trọng những ân ban của Ngài và can đảm, tiếp tục thực thi sứ vụ nữ tu của mình trong mọi thách đố của cuộc sống.
Nt: M. Ripsimina Bùi Thị Liễu, FMSR