2022
Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Sau khi cầu nguyện tại Hầm Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha di chuyển đến Quảng trường Vựa lúa ở Floriana. Tại quảng trường, đông đảo tín hữu đã hiện diện từ sớm. Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe mui trần để chào các tín hữu trước khi cử hành Thánh Lễ. Thánh Lễ diễn ra tại quảng trường Vựa Lúa với khoảng 20 ngàn tín hữu tham dự, cùng với các đại diện các Giáo hội Kitô và các tôn giáo khác.
ĐTC chủ sự Thánh Lễ theo phụng vụ Chúa Nhật V Mùa Chay, với bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan 8,1-11, nói về người phụ nữ ngoại tình bị các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước Chúa Giêsu.
Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC nói: Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu “trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người” (Ga 8,2). Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình bắt đầu như thế. Bối cảnh thật thanh bình: một buổi sáng ở nơi thánh, tại trung tâm của Giêrusalem. Nhân vật chính là dân Thiên Chúa, những người đang ở trong sân của đền thờ để tìm kiếm Chúa Giêsu, vị Thầy dạy: họ muốn lắng nghe Người, bởi vì những gì Người nói đều soi sáng và sưởi ấm. Lời dạy của Người không trừu tượng, nó chạm đến và giải phóng cuộc sống, biến đổi và canh tân nó. Đây là “khứu giác” của dân Thiên Chúa, những người không hài lòng với ngôi đền làm bằng đá, nhưng tập họp xung quanh con người của Chúa Giêsu. Ở trang này, chúng ta nhìn thấy đoàn tín hữu của mọi thời đại, dân thánh của Thiên Chúa, mà ở Malta này rất đông đảo và sống động, trung thành trong việc tìm kiếm Chúa, gắn bó với một đức tin cụ thể, sống động.
Trước đoàn dân đến với mình, Chúa Giêsu không vội vàng: “Người ngồi xuống – theo lời Tin Mừng – và bắt đầu giảng dạy họ” (câu 2). Nhưng có những chỗ trống trong trường học của Chúa Giêsu. Có một số người vắng mặt: họ là chị phụ nữ và những người tố cáo chị. Họ không đến với Thầy như những người khác, và lý do vắng mặt của họ cũng khác: các kinh sư và người Pha-ri-sêu nghĩ rằng họ đã biết mọi sự, rằng họ không cần sự dạy dỗ của Chúa Giêsu; đàng khác, người phụ nữ là một người lạc lối, lạc lối tìm kiếm hạnh phúc bằng những con đường sai lầm. Do đó, các lý do của sự vắng mặt thì khác nhau, và kết quả của câu chuyện của họ cũng khác nhau. Chúng ta hãy tập trung vào những người vắng mặt này.
Những người tự hào cho mình là người công chính
Trước hết về những người tố cáo chị phụ nữ. Ở họ, chúng ta thấy hình ảnh của những người tự hào mình là người công chính, tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa, những người tử tế và trật tự. Họ không để ý đến lỗi của mình, nhưng rất cẩn thận để tìm ra lỗi của người khác. Vì vậy, họ đến gặp Chúa Giêsu: không phải với tấm lòng rộng mở để lắng nghe Người, nhưng “để thử Người và để có bằng cớ tố cáo Người” (câu 6). Đó là một ý định dò xét của những người sùng kính và mộ đạo, những người biết Kinh Thánh, thường xuyên đến đền thờ, nhưng để chiều theo những lợi ích riêng và không đấu tranh chống lại những ý nghĩ xấu đang khuấy động lòng họ. Trong mắt mọi người, họ có vẻ là chuyên gia về Chúa, nhưng họ thực sự không nhận ra Chúa Giêsu, trái lại họ xem Người như một kẻ thù cần phải loại bỏ. Để làm điều này, họ đặt trước mặt Người một con người, như thể đó là một đồ vật, khinh bỉ gọi cô là “người đàn bà này” và công khai tố cáo việc ngoại tình của cô. Họ gây sức ép để người phụ nữ bị ném đá, trút lên cô sự ác cảm của họ đối với lòng thương cảm của Chúa Giêsu. Họ làm tất cả những điều này dưới danh nghĩa sự nổi tiếng là những con người đạo đức.
Anh chị em thân mến, những nhân vật này nói với chúng ta rằng ngay cả trong thực hành tôn giáo của chúng ta, con sâu của thói đạo đức giả và muốn chỉ tay vẫn có thể len lỏi vào. Tại bất kỳ thời điểm nào, trong bất kỳ cộng đoàn nào, luôn luôn có nguy cơ hiểu sai Chúa Giêsu, về việc gọi danh Người trên môi miệng nhưng thực tế lại phủ nhận Người. Và nó cũng có thể được thực hiện bằng cách giương cao các biểu ngữ có hình Thánh giá. Vậy làm thế nào để xác thực chúng ta có phải là môn đệ của trường học của vị Thầy hay không? Từ cái nhìn của chúng ta, từ cách chúng ta nhìn người khác và từ cách chúng ta nhìn vào chính mình.
Từ cách chúng ta nhìn người lân cận của mình: liệu chúng ta có làm như hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, nghĩa là, với một cái nhìn thương xót, hay một cách phán xét, đôi khi thậm chí khinh thường, giống như những người tố cáo trong Tin Mừng, những người đứng lên bênh vực Thiên Chúa nhưng không nhận ra việc chà đạp lên anh em mình. Thực ra, những người tin rằng họ đang bảo vệ đức tin bằng cách chỉ tay vào người khác cũng sẽ có cái nhìn tôn giáo, nhưng họ không theo tinh thần Tin Mừng, bởi vì họ quên lòng thương xót, là trái tim của Thiên Chúa.
Môn đệ thực sự của Chúa
Để xác thực xem chúng ta có phải là môn đệ chân chính của vị Thầy hay không, thì cũng cần phải xác minh cách chúng ta nhìn chính mình. Những người tố cáo người phụ nữ tự tin rằng họ không có gì để học. Quả thực dáng vẻ bên ngoài của họ rất hoàn hảo, nhưng lại thiếu đi sự chân thật của trái tim. Họ là chân dung của những người tin Chúa, trong mọi thời đại, làm cho đức tin trở thành một yếu tố trang trọng, ở đó điều nổi bật là vẻ trang nghiêm bên ngoài, nhưng sự nghèo khó bên trong, vốn là kho tàng quý giá nhất của con người, lại thiếu vắng. Thực ra, đối với Chúa Giê-su, điều quan trọng là sự mở lòng của những ai thấy mình chưa hoàn hảo, cần đến ơn cứu độ. Do đó, thật tốt khi chúng ta cầu nguyện và tham dự các buổi cử hành tôn giáo trang trọng, cũng tự hỏi xem mình có tương hợp với Chúa không. Chúng ta có thể hỏi Ngài trực tiếp: “Lạy Chúa Giêsu, con ở đây với Ngài, nhưng Ngài muốn gì ở con? Ngài muốn con sửa chữa điều gì trong trái tim con, trong cuộc sống của con? Ngài muốn con nhìn người khác như thế nào?”. Thật tốt nếu chúng ta cầu nguyện như thế, bởi vì Thầy không hài lòng với vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm sự thật của trái tim. Và khi chúng ta mở lòng đón nhận sự thật, Người có thể làm nên những điều kỳ diệu nơi chúng ta.
Người phụ nữ được Chúa cứu
Chúng ta nhìn thấy điều đó nơi người phụ nữ ngoại tình. Tình trạng của chị dường như nguy kịch, nhưng với cái nhìn của Người, một chân trời mới không thể nghĩ đến, được mở ra. Bị bao trùm bởi những lời sỉ nhục, chị sẵn sàng nhận những lời nói cay nghiệt và những hình phạt nghiêm khắc, nhưng rồi chị kinh ngạc khi thấy mình được Chúa tha bổng, mở ra cho chị một tương lai bất ngờ: “Không ai lên án chị sao? – Chúa nói với chị – Tôi cũng không lên án chị; thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (các câu 10.11). Một sự khác biệt giữa vị Thầy và những người tố cáo, những người đã trích dẫn Kinh Thánh để lên án; chính Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, đã hoàn toàn phục hồi người phụ nữ, khôi phục lại hy vọng của chị. Từ câu chuyện này, chúng ta học được rằng mọi đánh giá, nếu không được đánh động bởi lòng bác ái và không chứa đựng lòng bác ái, thì nhấn chìm thêm những ai tiếp nhận nó. Trái lại, Thiên Chúa luôn mở ra một cơ hội và luôn biết tìm cách giải thoát và cứu rỗi.
Cuộc sống của người phụ nữ đó thay đổi nhờ sự tha thứ. Thậm chí chị có thể đi đến chỗ, được Chúa Giêsu tha thứ, đến lượt mình cũng học cách tha thứ. Có lẽ chị sẽ thấy nơi những người tố cáo không còn là những người cứng nhắc và xấu xa, mà là những người đã cho phép chị gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúa muốn rằng cả chúng ta là các môn đệ, chúng ta là Giáo hội, được Người tha thứ, cũng trở thành chứng tá không mệt mỏi của sự tha thứ, của một Thiên Chúa mà đối với Người, không tồn tại từ “không thể phục hồi”; của một Thiên Chúa luôn tha thứ, tiếp tục tin tưởng vào chúng ta và luôn trao cơ hội để bắt đầu lại. Không có tội lỗi hay thất bại nào, được mang đến với Người, mà không trở thành cơ hội để bắt đầu một cuộc sống mới, khác biệt, theo dấu hiệu của lòng thương xót.
Vị Thiên Chúa này là Chúa Giêsu. Người thực sự biết rõ Chúa Giêsu chính là người cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, là người, giống như người phụ nữ trong Tin Mừng, khám phá ra rằng Thiên Chúa đến thăm chúng ta ngang qua những vết thương nội tâm chúng ta. Chính tại nơi đó, Chúa ưa thích hiện diện, vì Người đến không phải cho những ai khỏe mạnh nhưng cho những người đau ốm (x. Mt 9,12). Và hôm nay, chính người phụ nữ này, người đã kinh nghiệm được lòng thương xót trong nỗi khốn cùng của chị và là người đi vào thế giới được chữa lành nhờ sự tha thứ của Chúa Giêsu, gợi ý cho chúng ta, với tư cách là Giáo hội, trở lại trường học của Tin Mừng, nơi trường học của Chúa của hy vọng, Đấng luôn tạo nên sự ngạc nhiên. Nếu chúng ta noi gương Người, chúng ta sẽ không đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội lỗi, nhưng lên đường với tình yêu để tìm kiếm tội nhân. Chúng ta sẽ không đếm những người có mặt, nhưng chúng ta sẽ tìm kiếm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không lại chỉ tay vào người khác, nhưng sẽ bắt đầu lắng nghe. Chúng ta sẽ không loại bỏ những người bị khinh thường, nhưng sẽ nhìn trước hết đến những người bị coi là cuối cùng. Đây là điều mà hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta qua ví dụ này. Chúng ta hãy để mình được Người làm cho ngạc nhiên. Chúng ta chào đón sự mới mẻ của Người với niềm vui.
—
Lời chào trước khi đọc Kinh Truyền Tin
Cuối Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Truyền Tin, ĐTC cảm ơn đất nước Malta, đặc biệt là Đức TGM Scicluna (sic-lu-na), Tổng thống, giới chức chính quyền và những người làm việc để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm này. Ngài cũng chào thăm các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác cũng như các tôn giáo khác.
Đức Thánh Cha nói rằng ngài thấy được cảm thức về Dân Thiên Chúa tại Malta này. Ngài khuyến khích các tín hữu tiếp tục tiến bước như thế, đặc biệt trong việc hăng say phục vụ Thiên Chúa và người khác.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha hướng đến những người trẻ và nói rằng: “Cha muốn chia sẻ với các con điều đẹp nhất của cuộc sống. Đó là niềm vui trải mình trong tình yêu, điều này làm chúng ta tự do. Mà niềm vui này có một cái tên: Giêsu.” Đức Thánh Cha chúc các bạn trẻ có được một tình yêu với Chúa Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót, Đấng tin tưởng họ, ước mơ với họ, yêu thích cuộc sống của họ và không bao giờ làm họ thất vọng.
Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hướng về Mẹ Maria để cầu xin Mẹ gìn giữ mọi người, đặc biệt là người dân Ucraina.
Văn Yên, SJ
2022
Tông du Malta: ĐTC gặp những người di dân ở Malta
Tông du Malta: ĐTC gặp những người di dân ở Malta
Gặp gỡ với khoảng 200 người di cư tại Trung tâm Thực nghiệm Hòa bình Giovanni XXIII ở Hal Far, Đức Thánh Cha mời gọi đừng nhìn họ như những con số. Lắng nghe hai chứng từ, Đức Thánh Cha nhớ đến hàng ngàn người chạy trốn khỏi Ucraina vì một cuộc chiến tranh phi nghĩa và man rợ. Sau đó, ngài cầu nguyện trước Đức Mẹ với một gia đình tị nạn và cho những người chết trong vụ đắm tàu gần đây ngoài khơi bờ biển Libya.
Sự kiện cuối cùng trong chuyến viếng thăm hai ngày của Đức Thánh Cha tại Malta là cuộc gặp gỡ người di dân tại trung tâm “Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII” vào chiều Chúa Nhật 3/4/2022.
Trung tâm “Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII”
Trung tâm được cha Dionysus Mintoff, dòng Phanxicô, thành lập năm 1971. Nơi này có thể đón tiếp khoảng 50 người di dân, trong đó đông nhất là những người đến từ Somalia, Eritrea và Sudan. Trung tâm cung cấp cho người di dân công việc và giáo dục họ trong lĩnh vực nhân quyền và công bằng, cũng như sự trợ giúp y tế. Trung tâm đón nhận những người xin tị nạn và cổ võ liên đới và các giá trị Kitô giáo nói chung. Tại đây người tị nạn có thể liên lạc với gia đình nhờ điểm Thông tin và quán cà phê internet.
Khi đến trung tâm Đức Thánh Cha được Giám đốc Mục vụ Di dân và Giám đốc Trung tâm dành cho người Di dân đón tiếp. Sau đó ngài đi đến nhà hát ngoài trời, nơi có khoảng 200 người di dân hiện diện tham dự cuộc gặp gỡ với ngài.
Chứng từ của Daniel
Cuộc gặp gỡ bắt đầu với chứng từ của Daniel và Siriman. Daniel, sống tại Malta từ 4 năm nay, thuật lại hành trình từ Nigeria đến Libya, rồi những lần trả tiền vượt biên vào Ý bất thành, phải đến Tunisia, rồi trở lại Libya, và từ đó cuối cùng anh đã đến được Malta, nhưng ngay tức khắc bị giam 6 tháng. Nhiều đêm anh đã hỏi Chúa “Tại sao?”. Đôi khi anh mong mình đã chết. Anh tự hỏi có phải hành trình của anh là sự sai lầm. Tại sao những người di dân bị đối xử như tội phạm và không phải như anh em?
Chứng từ của Siriman
Còn Siriman, ở Malta được 5 năm, khẳng định rằng không có người di dân nào rời quê hương của họ vì không yêu đất nước mình. Nhưng hành trình của họ bắt đầu với hy vọng tìm được nơi bình an. Chạy trốn chiến tranh bạo lực, vi phạm nhân quyền, người di dân quyết tâm sống cuộc sống tốt hơn và có nhiều can đảm để đối mặt với những thử thách. Họ tìm tự do và dân chủ. Nhưng không may, có những người bị bóc lột, trở thành nạn nhân của bóc lột và lạm dụng và không được đối xử xứng với nhân phẩm. Anh nói: “Hôm nay, chúng tôi muốn nhắc mọi người đưa ra quyết định và những người nắm quyền lực rằng các quyền và phẩm giá của con người là phổ quát và gắn liền với con người, chúng được thừa nhận và tôn trọng, chứ không được trao ban.” Anh cũng đề cập đến những người không được chấp nhận tị nạn nhưng cũng không thể trở về quê hương, không biết đi đâu và không có quyền lợi gì. “Họ không chỉ là những câu chuyện và con số, nhưng họ là chúng ta, những con người bằng xương bằng thịt, những khuôn mặt với giấc mơ bị tan vỡ.”
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Ngỏ lời với những người di dân, Đức Thánh Cha lặp lại những điều ngài đã nói vài tháng trước ở Lesvos: “Tôi ở đây… để đảm bảo với anh chị em sự gần gũi của tôi… Tôi ở đây để nhìn gương mặt và nhìn vào mắt anh chị em” (Diễn văn tại Mytilene, 5/12/2021). Từ ngày đến thăm Lampedusa, tôi không quên anh chị em. Anh chị em luôn ở trong tim tôi và trong lời cầu nguyện của tôi.”
Malta: “bến cảng an toàn” thực sự cho người di dân
Nhắc lại ý nghĩa của logo của chuyến viếng thăm Malta, thuật lại cách người dân Malta chào đón tông đồ Phaolô và những người bạn đồng hành của ngài bị đắm tàu gần đó với “lòng nhân hậu hiếm có” (Cv 28,2), Đức Thánh Cha hy vọng rằng đó là cách Malta sẽ luôn đối xử với những người cập bến ở bờ biển của nó, mang đến cho họ một “bến cảng an toàn” thực sự.
Nạn đắm tàu của nền văn minh
Từ nạn đắm tàu của hàng ngàn người ở Địa Trung Hải trong những năm gần đây Đức Thánh Cha nói đến một loại đắm tàu khác đang diễn ra: sự đắm tàu của nền văn minh. Làm thế nào chúng ta có thể tự cứu mình khỏi vụ đắm tàu có nguy cơ đánh chìm con tàu của nền văn minh của chúng ta?
Đức Thánh Cha trả lời: “Bằng cách hành xử với lòng nhân đạo. Bằng cách xem con người không chỉ đơn thuần là những con số thống kê, nhưng như chính họ thực sự là, những khuôn mặt, những câu chuyện, đơn giản là những người đàn ông những phụ nữ, các anh chị em. Bằng cách tưởng tượng rằng những người mà chúng ta nhìn thấy trên những chiếc thuyền đông đúc hoặc trôi dạt trên biển, trên ti vi hoặc trên báo chí, có thể là bất kỳ ai trong chúng ta, hoặc con trai hoặc con gái của chúng ta … ”
Ngài nói thêm: Có lẽ chính lúc này, khi chúng ta đang ở đây, có những chiếc thuyền đang vượt biển, từ phương nam hướng về phía bắc … Chúng ta hãy cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người liều mạng sống giữa biển khơi để tìm kiếm hy vọng. Anh chị em cũng đã trải qua thử thách này và đã đến đây.”
Đức Thánh Cha cũng nghĩ đến hàng ngàn hàng vạn người tị nạn Ucraina vì chiến tranh, đến rất nhiều người ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, những người đã phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình để tìm kiếm sự an toàn.
Bi kịch bị tách rời nguồn cội của chính mình
Tiếp đến Đức Thánh Cha nói đến một kinh nghiệm đau khổ của người di dân, đó là bị tách rời nguồn cội của chính mình, bị nhổ rễ, khi họ rời bỏ quê hương. Đó là một trải nghiệm ma theo Đức Thánh Cha, để lại dấu ấn của nó. “Không chỉ là nỗi đau và cảm xúc của khoảnh khắc đó, mà là một vết thương sâu đậm ảnh hưởng đến hành trình trưởng thành của anh chị em như là một người trẻ tuổi.”
Kinh nghiệm về lòng tốt
Để chữa lành nó, chúng ta cần có thời gian và trên hết cần kinh nghiệm về lòng tốt của con người: “gặp gỡ những người chấp nhận anh chị em và có thể lắng nghe, thấu hiểu và đồng hành cùng anh chị em. Nhưng cả kinh nghiệm sống bên cạnh những người bạn đồng hành khác, chia sẻ mọi thứ với họ và cùng nhau mang gánh nặng…”
Đức Thánh Cha đánh giá cao những trung tâm tiếp nhận là những nơi được đánh dấu bằng lòng tốt của con người! Ngài nhận định: “Chúng ta biết điều đó có thể khó khăn như thế nào, vì luôn có những thứ tạo ra căng thẳng và khó khăn. Tuy nhiên, trên mọi lục địa, có những cá nhân và cộng đồng chấp nhận thách đố, nhận ra rằng di cư là một dấu hiệu của thời đại, nơi có liên hệ với nền văn minh. Đối với các Kitô hữu chúng ta nó cũng có liên hệ với lòng trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói: ‘Tôi là khách lạ và anh em đã đón tiếp tôi’ (Mt 25,35).” Đức Thánh Cha nói rằng “Điều này không được thực hiện trong một ngày! Cần có thời gian, sự kiên nhẫn vô cùng và trên hết là cần tình yêu thương được tạo nên từ sự gần gũi, dịu dàng và lòng trắc ẩn, giống như tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.”
Đến lượt mình, người di dân sẽ chào đón người khác
Một ước mơ của Đức Thánh Cha dành cho anh chị em di dân, đó là sau khi được chào đón giàu với lòng nhân ái và tình huynh đệ, đến lượt họ trở thành những chứng nhân và tác nhân của sự chào đón và tình huynh đệ. Ngài nói: “Tôi tin rằng việc những người di cư trở thành chứng nhân của những giá trị nhân văn cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá và huynh đệ là điều rất quan trọng trong thế giới ngày nay. Đó là những giá trị mà anh chị em gìn giữ trong tim, những giá trị là một phần cội nguồn của anh chị em. Một khi nỗi đau bị nhổ rễ đã nguôi ngoai, anh chị em có thể phát huy sự phong phú nội tâm, gia sản quý giá này của nhân loại, và chia sẻ nó với các cộng đồng sẽ chào đón anh chị em và những môi trường mà anh chị em sẽ là thành phần. Đây là con đường! Con đường của tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội. Đây là tương lai của gia đình nhân loại trong một thế giới toàn cầu hóa.”
Bằng lòng tốt và lòng nhân đạo
Chúng ta có thể và phải bắt đầu lại từ con người và phẩm giá của họ. Đức Thánh Cha lưu ý: “Chúng ta đừng để bị lừa dối bởi tất cả những người nói với chúng ta rằng ‘không thể làm gì được’; ‘những vấn đề này là quá sức chúng ta’; ‘hãy để người khác tự bảo vệ mình trong khi tôi lo công việc của tôi’. Không. Chúng ta đừng bao giờ rơi vào cái bẫy này.” Ngài mời gọi: “Chúng ta hãy đáp lại thách đố của người di cư và người tị nạn bằng lòng tốt và lòng nhân đạo. Chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình huynh đệ xung quanh để mọi người có thể sưởi ấm, trỗi dậy và khám phá lại hy vọng. Chúng ta hãy củng cố kết cấu của tình bạn xã hội và nền văn hóa gặp gỡ, bắt đầu từ những nơi như thế này. Chúng có thể không hoàn hảo, nhưng chúng thực sự là “những phòng thí nghiệm của hòa bình”.
Thông điệp Hoà bình dưới thế của Đức Gioan XXIII
Đức Thánh Cha nhắc lại lời thánh Gioan XXIII trong thông điệp nổi tiếng về hòa bình: “Xin [Chúa] loại khỏi linh hồn của những người nam nữ bất cứ điều gì có thể gây nguy hiểm cho hòa bình. Xin Người biến đổi tất cả chúng ta thành những chứng nhân của sự thật, công lý và tình yêu thương huynh đệ. Xin Người dùng ánh sáng của Người soi sáng tâm trí của những nhà lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến phúc lợi vật chất của các dân tộc của họ, họ cũng có thể bảo đảm cho các dân tộc món quà hòa bình công bằng nhất. Cuối cùng, xin Chúa Kitô khơi dậy ước muốn của tất cả mọi người nam nữ vượt qua những rào cản ngăn cách họ, củng cố mối dây yêu thương lẫn nhau, học cách hiểu nhau và tha thứ cho những ai đã làm sai. Nhờ quyền năng và sự soi dẫn của Người, xin cho tất cả các dân tộc coi nhau như anh chị em, và xin cho nền hòa bình mà họ luôn mong đợi nảy nở và ngự trị giữa họ” (Pacem in Terris, 171).
Ngọn lửa đức tin
Cuối cùng Đức Thánh Cha giải thích việc ngài cùng một số anh chị em đốt những ngọn nến trước ảnh Đức Mẹ: “Trong truyền thống Kitô giáo, ngọn lửa nhỏ đó là biểu tượng cho đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Nó cũng là biểu tượng của niềm hy vọng, niềm hy vọng mà Đức Maria, Mẹ của chúng ta, luôn giữ cho sống động ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Đó là niềm hy vọng mà tôi đã nhìn thấy trong mắt anh chị em ngày hôm nay: niềm hy vọng đã làm cho cuộc hành trình của anh chị em trở nên ý nghĩa và niềm hy vọng khiến anh chị em luôn nỗ lực tiến tới. Xin Đức Mẹ giúp anh chị em đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng này! Tôi phó thác cho Mẹ mỗi người trong anh chị em và gia đình của anh chị em. Tôi sẽ mang theo anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!”
Kinh nguyện
Và cuộc gặp gỡ kết thúc với kinh nguyện chung.
Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng vũ trụ,
nguồn mạch của tất cả tự do và hòa bình,
tình yêu và tình huynh đệ,
Cha đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Cha,
thổi vào chúng con hơi thở sự sống của Cha
để làm cho chúng con trở thành những người chia sẻ với cuộc sống hiệp thông của Cha.
Ngay cả khi chúng con không giữ giao ước của Cha,
Cha đã không bỏ rơi chúng con cho quyền lực của sự chết,
nhưng vẫn tiếp tục, với lòng thương xót vô biên,
gọi chúng con trở về với Cha,
và sống như con cái Cha.
Xin tuôn đổ Thánh Thần Cha trên chúng con
và ban cho chúng con một trái tim mới,
nhạy cảm với những tiếng kêu xin, thường thầm lặng,
của những anh chị em của chúng con, những người đã mất đi
sự ấm áp của ngôi nhà và quê hương của họ.
Xin giúp chúng con có thể trao tặng cho họ hy vọng
bằng sự chào đón và cử chỉ nhân đạo của chúng con.
Xin biến chúng con thành công cụ của hòa bình
và tình yêu huynh đệ thiết thực.
Xin giải thoát chúng con khỏi sợ hãi và thành kiến;
xin giúp chúng con có thể chia sẻ những đau khổ của họ
và cùng nhau chống lại sự bất công,
vì sự phát triển của một thế giới trong đó mỗi người
được tôn trọng với phẩm giá bất khả xâm phạm của mình,
phẩm giá mà chính Ngài, lạy Cha, đã ban cho chúng con
và Con của Cha đã thánh hiến mãi mãi. Amen.
Hồng Thủy
2022
Diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ người di dân ở Malta
Diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ người di dân ở Malta
Trong diễn văn nói với người di dân ở Malta, Đức Thánh Cha hy vọng chính họ, sau khi được đón tiếp với lòng tốt, cũng trở thành những người đón tiếp tha nhân. Đức Thánh Cha nhớ đến những người di cư ở mọi châu lục.
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
Gặp gỡ Người Di dân
Trung tâm Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII, Hal Far
Chúa Nhật, 03/04/2022
Anh chị em thân mến,
Tôi chào tất cả anh chị em với tình cảm nồng hậu, và tôi rất vui khi kết thúc chuyến thăm Malta bằng cách dành thời gian ở đây với anh chị em. Tôi cảm ơn Cha Dionisio vì sự chào đón của cha. Tôi cũng rất biết ơn Daniel và Siriman vì những chứng từ của họ: các bạn đã mở rộng trái tim mình và chia sẻ cuộc sống của mình, đồng thời góp tiếng nói cho rất nhiều anh chị em của chúng ta, những người bị bó buộc phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm một nơi ẩn náu an toàn.
Cho phép tôi lặp lại những gì tôi đã nói vài tháng trước ở Lesvos: “Tôi ở đây… để đảm bảo với anh chị em sự gần gũi của tôi… Tôi ở đây để nhìn gương mặt và nhìn vào mắt anh chị em” (Diễn văn tại Mytilene, 5/12/2021). Từ ngày đến thăm Lampedusa, tôi không quên anh chị em. Anh chị em luôn ở trong tim tôi và trong lời cầu nguyện của tôi.
Cuộc gặp gỡ này với các anh chị em, những người di cư quý mến, khiến chúng ta nghĩ về ý nghĩa của logo được chọn cho chuyến thăm Malta của tôi. Logo đó được lấy từ sách Công vụ Tông đồ, thuật lại cách người dân Malta chào đón tông đồ Phaolô và những người bạn đồng hành của ngài bị đắm tàu gần đó. Chúng ta được biết rằng họ đã được đối xử với “lòng nhân hậu hiếm có” (Cv 28,2). Không chỉ đơn thuần bằng lòng tốt, mà bằng lòng nhân đạo hiếm có, một sự quan tâm chăm sóc đặc biệt mà Thánh Luca đã mong muốn lưu lại mãi mãi trong sách Công Vụ Tông đồ. Tôi hy vọng rằng đó là cách Malta sẽ luôn đối xử với những người cập bến ở bờ biển của nó, mang đến cho họ một “bến cảng an toàn” thực sự.
Đắm tàu là điều mà hàng ngàn người nam nữ và trẻ em đã trải qua ở Địa Trung Hải trong những năm gần đây. Đáng buồn thay, đối với nhiều người trong số họ, nó đã kết thúc trong bi kịch. Mới hôm qua đã có tin tức về một cuộc giải cứu diễn ra ngoài khơi bờ biển Libya, chỉ có 4 người di cư của chiếc thuyền chứa khoảng 90 người được cứu. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người anh em này của chúng ta, những người đã chết trên Biển Địa Trung Hải của chúng ta. Và chúng ta cũng cầu nguyện để được cứu khỏi một vụ đắm tàu khác diễn ra trong khi những sự kiện này đang xảy ra: đó là vụ đắm tàucủa nền văn minh, không chỉ đe dọa những người tị nạn, mà còn tất cả chúng ta.
Làm thế nào chúng ta có thể tự cứu mình khỏi vụ đắm tàu có nguy cơ đánh chìm con tàu của nền văn minh của chúng ta? Bằng cách hành xử với lòng nhân đạo. Bằng cách xem con người không chỉ đơn thuần là những con số thống kê, nhưng là như chính họ thực sự là, như Siriman đã nói với chúng ta, nghĩa là những khuôn mặt, những câu chuyện, đơn giản là những người đàn ông những phụ nữ, các anh chị em. Bằng cách tưởng tượng rằng những người mà chúng ta nhìn thấy trên những chiếc thuyền đông đúc hoặc trôi dạt trên biển, trên ti vi hoặc trên báo chí, có thể là bất kỳ ai trong chúng ta, hoặc con trai hoặc con gái của chúng ta … Có lẽ chính lúc này, khi chúng ta đang ở đây, có những chiếc thuyền đang vượt biển, từ phương nam hướng về phía bắc … Chúng ta hãy cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người liều mạng sống giữa biển khơi để tìm kiếm hy vọng. Anh chị em cũng đã trải qua thử thách này và đã đến đây.
Những trải nghiệm của anh chị em khiến chúng tôi cũng liên tưởng đến trải nghiệm của hàng ngàn hàng vạn người mà trong những ngày này đã buộc phải rời khỏi Ucraina vì chiến tranh. Nhưng cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người khác ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, những người đã phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình để tìm kiếm sự an toàn. Vào lúc này, tôi nghĩ đến và cầu nguyện cho tất cả họ.
Cách đây ít lâu, tôi nhận được từ Trung tâm của anh chị em một chứng từ khác: câu chuyện của một người trẻ kể cho tôi nghe về khoảnh khắc đau buồn khi anh phải rời xa mẹ và gia đình gốc gác của mình. Câu chuyện của anh ấy khiến tôi cảm động và khiến tôi phải suy nghĩ. Nhưng cả bạn, Daniel và bạn, Siriman, mỗi người trong các bạn đều có cùng trải nghiệm ra đi và tách rời nguồn cội của chính mình, bị nhổ rễ. Và trải nghiệm bị nhổ rễ đó để lại dấu ấn của nó. Không chỉ là nỗi đau và cảm xúc của khoảnh khắc đó, mà là một vết thương sâu đậm ảnh hưởng đến hành trình trưởng thành của anh chị em như là một người trẻ tuổi. Chúng ta cần có thời gian để chữa lành vết thương đó; cần có thời gian và hơn hết cần kinh nghiệm về lòng tốt của con người: gặp gỡ những người chấp nhận anh chị em và có thể lắng nghe, thấu hiểu và đồng hành cùng anh chị em. Nhưng cả kinh nghiệm sống bên cạnh những người bạn đồng hành khác, chia sẻ mọi thứ với họ và cùng nhau mang gánh nặng… Điều này giúp chữa lành vết thương.
Tôi nghĩ về những trung tâm tiếp nhận này, và thật quan trọng khi chúng là những nơi được đánh dấu bằng lòng tốt của con người! Chúng tôi biết điều đó có thể khó khăn như thế nào, vì luôn có những thứ tạo ra căng thẳng và khó khăn. Tuy nhiên, trên mọi lục địa, có những cá nhân và cộng đồng chấp nhận thách đố, nhận ra rằng di cư là một dấu hiệu của thời đại, nơi có liên hệ với nền văn minh. Đối với các Kitô hữu chúng ta nó cũng có liên hệ với lòng trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là khách lạ và anh em đã đón tiếp tôi” (Mt 25,35). Điều này không được thực hiện trong một ngày! Cần có thời gian, sự kiên nhẫn vô cùng và trên hết là cần tình yêu thương được tạo nên từ sự gần gũi, dịu dàng và lòng trắc ẩn, giống như tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tôi nghĩ chúng ta nên nói lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả những người đã đón nhận thử thách này ở đây và đã dành cuộc đời cho Trung tâm này. Chúng ta hãy hoan hô họ!
Thưa anh chị em, xin cho phép tôi bày tỏ ước mơ của chính tôi: đó là anh chị em, những người di dân, sau khi nhận được sự chào đón giàu lòng nhân ái và tình huynh đệ, đến lượt anh chị em trở thành những chứng nhân và tác nhân của sự chào đón và tình huynh đệ. Ở đây, và bất cứ nơi nào Thiên Chúa muốn, bất cứ nơi nào sự quan phòng của Người sẽ dẫn dắt anh chị em. Đó là ước mơ mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em và là ước mơ mà tôi đặt trong tay Chúa. Vì điều không thể đối với chúng ta thì không phải là không thể đối với Người. Tôi tin rằng việc những người di cư trở thành chứng nhân của những giá trị nhân văn cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá và huynh đệ là điều rất quan trọng trong thế giới ngày nay. Đó là những giá trị mà anh chị em gìn giữ trong tim, những giá trị là một phần cội nguồn của anh chị em. Một khi nỗi đau bị nhổ rễ đã nguôi ngoai, anh chị em có thể phát huy sự phong phú nội tâm, gia sản quý giá này của nhân loại, và chia sẻ nó với các cộng đồng sẽ chào đón anh chị em và những môi trường mà anh chị em sẽ là thành phần. Đây là con đường! Con đường của tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội. Đây là tương lai của gia đình nhân loại trong một thế giới toàn cầu hóa. Tôi rất vui khi có thể chia sẻ giấc mơ này với anh chị em hôm nay, cũng như anh chị em đã chia sẻ giấc mơ của anh chị em với tôi trong chứng từ của mình!
Tôi nghĩ đây cũng là câu trả lời cho câu hỏi trọng tâm trong chứng từ của chính bạn, Siriman. Bạn đã nhắc nhở chúng tôi rằng những người bị buộc phải rời bỏ đất nước của họ ra đi với một giấc mơ trong tim: giấc mơ tự do và dân chủ. Giấc mơ này va chạm với một thực tế khắc nghiệt, thường nguy hiểm, đôi khi khủng khiếp và vô nhân đạo. Bạn đã lên tiếng cho lời cầu xin bị bóp nghẹt của hàng triệu người di cư bị vi phạm các quyền cơ bản, đáng buồn là đôi khi có sự đồng lõa của các cơ quan có thẩm quyền. Và bạn đã kêu gọi chúng tôi chú ý đến điều quan trọng nhất: phẩm giá của con người. Tôi xin khẳng định lại điều này bằng lời của chính bạn: anh chị em không phải là những con số thống kê nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với những khuôn mặt và những ước mơ đôi khi bị vụt tắt.
Từ đó, từ con người và phẩm giá của họ, chúng ta có thể và phải bắt đầu lại. Chúng ta đừng để bị lừa dối bởi tất cả những người nói với chúng ta rằng “không thể làm gì được”; “những vấn đề này là quá lớn đối với chúng ta”; “hãy để người khác tự bảo vệ mình trong khi tôi đi lo công việc của chính tôi”. Không. Chúng ta đừng bao giờ rơi vào cái bẫy này. Chúng ta hãy đáp lại thách đố của người di cư và người tị nạn bằng lòng tốt và lòng nhân đạo. Chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình huynh đệ xung quanh để mọi người có thể sưởi ấm, trỗi dậy và khám phá lại hy vọng. Chúng ta hãy củng cố kết cấu của tình bạn xã hội và nền văn hóa gặp gỡ, bắt đầu từ những nơi như thế này. Chúng có thể không hoàn hảo, nhưng chúng thực sự là “những phòng thí nghiệm của hòa bình”.
Vì Trung tâm này mang tên của Thánh Gioan XXIII, tôi muốn nhắc lại niềm hy vọng mà ngài đã bày tỏ ở cuối thông điệp nổi tiếng về hòa bình: “Xin [Chúa] loại khỏi linh hồn của những người nam nữ bất cứ điều gì có thể gây nguy hiểm cho hòa bình. Xin Người biến đổi tất cả chúng ta thành những chứng nhân của sự thật, công lý và tình yêu thương huynh đệ. Xin Người dùng ánh sáng của Người soi sáng tâm trí của những nhà lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến phúc lợi vật chất của các dân tộc của họ, họ cũng có thể bảo đảm cho các dân tộc món quà hòa bình công bằng nhất. Cuối cùng, xin Chúa Kitô khơi dậy ước muốn của tất cả mọi người nam nữ vượt qua những rào cản ngăn cách họ, củng cố mối dây yêu thương lẫn nhau, học cách hiểu nhau và tha thứ cho những ai đã làm sai. Nhờ quyền năng và sự soi dẫn của Người, xin cho tất cả các dân tộc coi nhau như anh chị em, và xin cho nền hòa bình mà họ luôn mong đợi nảy nở và ngự trị giữa họ” (Pacem in Terris, 171).
Anh chị em thân mến, tí nữa tôi sẽ cùng một số anh chị em thắp nến trước ảnh Đức Mẹ. Đó là một cử chỉ rất đơn giản nhưng đầy ý nghĩa. Trong truyền thống Kitô giáo, ngọn lửa nhỏ đó là biểu tượng cho đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Nó cũng là biểu tượng của niềm hy vọng, niềm hy vọng mà Đức Maria, Mẹ của chúng ta, luôn giữ cho sống động ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Đó là niềm hy vọng mà tôi đã nhìn thấy trong mắt anh chị em ngày hôm nay: niềm hy vọng đã làm cho cuộc hành trình của anh chị em trở nên ý nghĩa và niềm hy vọng khiến anh chị em luôn nỗ lực tiến tới. Xin Đức Mẹ giúp anh chị em đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng này! Tôi phó thác cho Mẹ mỗi người trong anh chị em và gia đình của anh chị em. Tôi sẽ mang theo anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!
Hồng Thủy
2022
ĐTC chào biệt Malta
ĐTC chào biệt Malta
Sau cuộc gặp gỡ người di dân, Đức Thánh Cha di chuyển đến xây bay quốc tế của Malta cách đó 4 cây số để bay trở về Roma. Ngài đã hội đàm cùng Tổng Thống Malta ít phút trước khi lên máy bay. Máy bay chở Đức Thánh Cha cất cánh lúc 19:15 phút, trễ gần một giờ so với chương trình.
Tại sân bay đã diễn ra nghi thức chào biệt chính thức. Tổng thống của Malta đón Đức Thánh Cha tại sảnh Tổng Thống và có cuộc hội đàm ngắn với ngài. Sau đó đội quân nhạc đã cử quốc ca của Vatican và Malta.
Sau khi hai phái đoàn của Vatican và Malta chào giã biệt, Đức Thánh Cha đã lên máy bay bằng thang máy đặc biệt. Lên đến máy bay, Đức Thánh Cha đứng ở cửa máy bay để vẫy chào phái đoàn chính quyền cũng như các giám mục của Malta.
Chiếc máy bay A320neo của hãng hàng không Malta đã cất cánh lúc 19:15, đưa Đức Thánh Cha và đoàn tuỳ tùng rời Malta và trở về Roma, kết thúc chuyến tông du thứ 36 của ngài tại nước ngoài.
Gửi điện văn cho Tổng thống Malta
Ngay sau khi khởi hành bằng máy bay, Đức Thánh Cha đã gửi điện văn cho Tổng thống Malta, trong đó ngài nhắc lại “lòng biết ơn” của ngài đối với nguyên thủ quốc gia, các cơ quan dân sự và tất cả người dân “vì lòng tốt và sự hiếu khách đã thể hiện với tôi” trong chuyến thăm. Đức Thánh Cha đảm bảo cầu nguyện cho họ để “nhờ sự chuyển cầu của Thánh Phaolô Tông đồ, quốc gia của các bạn có thể được Thiên Chúa toàn năng ban phúc dồi dào”.
Hồng Thủy