2022
Đức Hồng y Parolin: ‘Praedicate evangelium’ thực hiện mục tiêu chính của triều đại Đức Thánh Cha Phanxicô
Đức Hồng y Parolin: ‘Praedicate evangelium’ thực hiện mục tiêu chính của triều đại Đức Thánh Cha Phanxicô
Roma. Đức Hồng y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, Pietro Parolin nói tông hiến “Praedicate evangelium” đại diện cho việc thực hiện một trong những mục tiêu chính của triều đại Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô là cải cách Giáo triều Rôma.
2022.05.17 Cardinale Parolin alla Pontificia Università Lateranense
“Những thay đổi về cấu trúc, những điều mới được quyết định bởi bối cảnh hiện tại, những quy trình đã được tiến hành trong nhiều năm và cuối cùng đã hoàn thành”, Đức Hồng Y Pietro Parolin đã nói về Tông hiến cải tổ Giáo triều Rôma – Praedicate evangelium – được công bố vào ngày 19 tháng 3 và sẽ có hiệu lực vào ngày 5 tháng 6 tới đây. Với Tông hiến này, Đức Hồng Y Parolin nói, “một trong những mục tiêu chính mà triều đại ĐTC Phanxicô đã đặt ra ngay từ đầu và đã được thực hiện”.
Ngày nghiên cứu
Đức Hồng Y đã khai mạc Ngày Nghiên cứu mang tên “Praedicate Evangelium: Cấu trúc, nội dung và điều mới lạ”, được tổ chức bởi Viện Utriusque Iuris thuộc Đại học Giáo hoàng Laterano. Đây là sự kiện lớn đầu tiên kể từ khi công bố Tông hiến. Chương trình ‘Ngày nghiên cứu’ là thời điểm quan trọng của cuộc thảo luận cấp cao để hiểu bộ khung và tiêu chí của văn kiện mà Đức Thánh Cha Phanxicô công bố nhằm cải tổ Giáo triều trong triều đại Giáo hoàng của ngài.
Ngoài Đức Hồng Y Parolin, các diễn giả khác bao gồm Đức Hồng Y Marcello Semeraro, thư ký của Hội Đồng Hồng Y trong nhiều năm; Cha Juan Antonio Guerrero Alves, Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Bộ Truyền thông và ông Alessandro Cassinis Righini, Tổng Kiểm toán.
Điểm lại quá trình
Tại buổi khai mạc, trước sự hiện diệncủa các giảng viên và sinh viên của trường đại học Giáo hoàng, ĐHY Parolin nhớ lại các giai đoạn trong chín năm qua, từ đó dẫn đến việc soạn thảo Tông hiến cải tổ Giáo triều, vốn được xem là “một công cụ trong tay Giáo hoàng” vì lợi ích của Giáo hội và sự phục vụ từ các Giám mục.
ĐHY nói, Praedicate evangelium là một đáp ứng đối với “các yêu cầu lặp đi lặp lại của các Hồng y trong những lần nhóm họp trước Mật nghị Hồng y năm 2013”. Một trong số các hành động đầu tiên trong triều đại Giáo hoàng của mình, ĐTC đã thành lập Hội đồng Hồng y với nhiệm vụ “nghiên cứu một dự án nhằm cải tổ Giáo triều.”
Đức Hồng Y Parolin giải thích, “Cuộc cải cách vốn được hình dung đã được thực hiện liên tục trong vài năm, với việc thiết lập các cơ quan mới và với những điều chỉnh không thể tránh khỏi trong các thể chế ‘đang vận hành’ và được kêu gọi cùng nhau hợp tác.”
ĐHY cho biết, “Praedicate evangelium ra đời từ những đúc kết kinh nghiệm và điều chỉnh trong những năm qua, thực hiện những bước đi mới,” để “hoàn thiện bức tranh tổng thể,” theo ba tiêu chí: “sự hiệp thông của các thể chế Giáo hội, sự hợp tác trong các tương quan giữa các văn phòng, và việc điều chỉnh thái độ của mỗi cá nhân.”
Những thay đổi liên quan đến vấn đề tài chính
Cha Antonio Guerrero, SJ., minh họa những thay đổi đã diễn ra trong những năm qua về các vấn đề kinh tế và tài chính. Cha mô tả đây là một “con đường quanh co” chứng kiến sự thành lập, giải thể, hợp nhất hoặc chuyển giao thẩm quyền của các cơ quan kinh tế khác nhau hiện đã được hợp nhất thành Hội đồng Kinh tế, Ban Thư ký Kinh tế, Văn phòng Kiểm toán.
Các cơ quan này hiện “đang phục vụ cho sứ mạng”; thật vậy, chúng không phải là “nhiệm vụ cốt lõi” của Giáo triều Rôma, nhưng “nhằm giúp đỡ để phục vụ sứ mạng vốn đã được thực hiện bởi nhiều bộ và ban”, trong đó “điểm tham chiếu không thay đổi” chính là dựa vào Học thuyết Xã hội của Giáo Hội và “bổn phận rao giảng Tin Mừng.”
Ngoài ra, các giáo sư về Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Laterano, Emile Kouveglio và Patrick Valdrini, phát biểu về chủ đề “quyền tối thượng và quyền giám mục” trong Praedicate evangelium, bắt đầu từ “việc phân quyền lành mạnh” thường được ĐTC viện dẫn; sau đó về cách Tông hiến điều chỉnh khi đưa ra “khái niệm về một Giáo triều với đặc tính của một diakonia (việc phục vụ)”. Hay đúng hơn là một “công cụ”, như thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã mô tả, và thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thêm vào, “trong tay của Đức Giáo Hoàng”.
Văn Cương SJ
2022
Tiếp kiến chung (18/5): Thử thách của đức tin và phúc của sự chờ đợi
Tiếp kiến chung (18/5): Thử thách của đức tin và phúc của sự chờ đợi
Sáng thứ Tư 18/05, tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần với bài giáo lý tiếp theo trong loạt bài về tuổi già. Đức Thánh Cha nói về hình ảnh của ông Gióp. Trong đau khổ, ông đã phản kháng với Thiên Chúa, đã thốt ra tất cả những lời cay đắng của ông với Chúa và đây là một cách cầu nguyện.
Đoạn Sách Thánh được đọc bài giáo lý được trích từ đoạn cuối của sách Gióp.
Ông Gióp thưa với ĐỨC CHÚA: Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. […] Con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con. Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn. ĐỨC CHÚA giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia. Sau đó, ông Gióp còn sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, ông được thấy con cái cháu chắt đến bốn đời. (G 42,1-6.12.16)
CNS photo/Paul Haring
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe khép lại Sách Gióp, một đỉnh cao của nền văn chương nhân loại. Chúng ta gặp ông Gióp trên hành trình những bài giáo lý về tuổi già: chúng ta gặp ông như một nhân chứng cho đức tin không chấp nhận một “hình ảnh biếm họa” về Thiên Chúa, nhưng gào lên sự phản kháng của ông khi đối mặt với sự dữ, cho đến khi Thiên Chúa đáp lại và mạc khải khuôn mặt của Người. Và cuối cùng, Thiên Chúa đáp lời, một cách đáng ngạc nhiên như thường lệ: Người cho Gióp thấy vinh quang của Người nhưng không đè bẹp ông, ngược lại, với sự dịu dàng trổi vượt. Cần phải đọc kỹ các trang của cuốn sách này, không định kiến và sáo rỗng, để nắm bắt được sức mạnh của tiếng kêu của Gióp. Sẽ rất tốt nếu chúng ta đặt mình nơi trường học của Gióp, để vượt qua cám dỗ của chủ nghĩa duy đạo đức khi đối diện với sự bực tức và chán nản vì nỗi đau mất tất cả.
Trong đoạn kết của cuốn sách – khi cuối cùng Thiên Chúa đáp lời – Gióp được ca ngợi vì hiểu được mầu nhiệm sự dịu dàng của Thiên Chúa ẩn sau sự im lặng của Người. Thiên Chúa quở trách những người bạn của Gióp, những người cho rằng họ biết mọi sự, về Thiên Chúa và về đau khổ, và khi đến để an ủi Gióp, rốt cuộc họ lại phán xét ông bằng những khuôn mẫu sẵn có của họ. Xin Chúa gìn giữ chúng ta khỏi thói đạo đức giả hình và trịch thượng này!
Antoine Mekary | ALETEIA
Đây là cách Chúa bày tỏ chính mình ra cho họ. Chúa nói thế này: “Ta bừng bừng nổi giận với [các ngươi] […] bởi vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta […]”, Chúa nói với các bạn của Gióp như thế. “Gióp, tôi tớ của Ta, sẽ chuyển cầu cho các ngươi. Ta sẽ đoái nhìn nó và sẽ không xử với các ngươi xứng với sự ngu xuẩn của các ngươi, vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8). Lời tuyên bố của Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta đã đọc những trang phản kháng gay gắt của Gióp, khiến chúng ta khiếp đảm. Tuy nhiên – Chúa nói – Gióp đã nói đúng, thậm chí khi ông tức giận và ngay cả tức giận với Chúa, nhưng ông nói đúng, bởi vì ông từ chối chấp nhận rằng Thiên Chúa là một “Kẻ bách hại”. Thiên Chúa phải khác. Người là ai? Và ông Gióp đã đi tìm kiếm. Và như một phần thưởng, Thiên Chúa trả lại gấp đôi tất cả tài sản cho Gióp, sau khi yêu cầu ông cầu nguyện cho những người bạn xấu của ông.
Bước ngoặt của việc hoán cải đức tin diễn ra chính vào thời điểm đỉnh cao những lời của Gióp, khi ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ”(19,25-27). Đoạn này thật đẹp. Tôi nhớ phần cuối bản nhạc Mêsia hùng hồn của Handel, sau cao trào Allelujah, bè cao từ từ hát đoạn này: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi đang sống”, với sự bình an. Và như thế, sau tất cả mọi đau khổ và niềm vui của Gióp, thì tiếng nói của Chúa là một điều khác. “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi đang sống”: đó là một điều tuyệt đẹp. Chúng ta có thể chú giải câu ở trên thế này: “Lạy Chúa, con biết rằng Ngài không phải là Kẻ bách hại. Thiên Chúa của con sẽ đến và thực thi công lý cho con”.
Antoine Mekary | ALETEIA
Dụ ngôn trong sách Gióp trình bày một cách kịch tính và là ví dụ cho những gì thực sự xảy ra trong cuộc sống. Nói cách khác, những thử thách quá nặng nề đối với một người, một gia đình hay một dân tộc, vượt quá sự nhỏ bé và yếu đuối của con người. Trong cuộc sống thường xảy ra, như người ta nói, “đã nghèo lại gặp cái eo”. Và một số người bị choáng ngợp bởi những sự dữ xuất hiện thực sự quá sức và bất công.
Tất cả chúng ta đều biết đến những người như thế. Chúng ta xúc động bởi tiếng khóc của họ, nhưng chúng ta cũng thường ngạc nhiên về sự kiên vững của đức tin và tình yêu của họ trong sự thinh lặng của họ. Tôi nghĩ đến cha mẹ của những đứa trẻ bị khuyết tật nặng, những người đang sống với bệnh tật vĩnh viễn hoặc người thân bên cạnh họ… Những hoàn cảnh thường trầm trọng hơn do sự khó khăn về kinh tế. Trong một số điểm nối của lịch sử, những gánh nặng quá mức này dường như dồn lại vào một điểm. Đây là những gì đã xảy ra trong những năm gần đây với đại dịch Covid-19 và những gì đang xảy ra hiện nay với cuộc chiến ở Ucraina.
Liệu chúng ta có thể biện minh cho những “điều quá sức” này như một sự hợp lý cao siêu của tự nhiên và lịch sử không? Liệu chúng ta có thể chúc lành tôn giáo cho những điều đó như thể chúng là quả báo do tội lỗi của các nạn nhân, như thể họ đáng phải chịu không? Chúng ta không thể. Các nạn nhân có một loại quyền phản kháng khi đối diện với sự dữ, đó là quyền Thiên Chúa ban cho bất cứ ai, thậm chí tự thẳm sâu do chính Thiên Chúa khơi lên.
Antoine Mekary | ALETEIA
Đôi khi tôi gặp những người đến với tôi và nói: “Thưa cha, con đã phản kháng với Chúa vì con có vấn đề này, vấn đề kia …”. Nhưng bạn thân mến, bạn biết đấy, sự phản kháng đó cũng là một cách cầu nguyện, khi nó được thực hiện như thế. Khi đứa con phản kháng cha mẹ chúng, đó là một cách để thu hút sự chú ý và xin cha mẹ chăm sóc chúng. Nếu bạn có những vết thương trong lòng, những nỗi đau và bạn cảm thấy muốn phản kháng, ngay cả phản kháng đối với Chúa, Chúa sẽ lắng nghe bạn, Chúa là Cha, Chúa không sợ lời cầu nguyện phản kháng của chúng ta. Chúa hiểu điều đó. Hãy tự do, hãy tự do trong lời cầu nguyện của bạn, đừng giam hãm lời cầu nguyện của bạn trong những khuôn mẫu định sẵn! Đừng! Lời cầu nguyện phải thật tự phát, giống như của một người con với cha mình, nói ra tất cả mọi sự bởi vì nó biết cha sẽ hiểu điều đó. “Sự im lặng” của Thiên Chúa, trong thời điểm đầu tiên của thảm kịch, có nghĩa là điều này. Thiên Chúa sẽ không né tránh đối diện, nhưng ngay từ đầu, Người đã để cho Gióp thốt ra sự phản kháng của mình và Chúa lắng nghe. Có lẽ, đôi khi, chúng ta cần phải học Thiên Chúa về sự tôn trọng và sự dịu dàng này. Thiên Chúa không thích bách khoa từ điển, như người ta thường nói, để biện giải và suy tư như các bạn của Gióp đã làm. Cách múa lưỡi đó không thích hợp. Đó là một thứ tôn giáo giải thích tất cả, nhưng trái tim vẫn giá lạnh. Thiên Chúa không thích điều đó. Nhưng Chúa thích sự phản kháng của Gióp hay sự thinh lặng của ông.
Lời tuyên xưng đức tin của Gióp – nổi lên từ chính lời khẩn cầu không ngừng của ông lên Thiên Chúa, công lý tối cao – cuối cùng được kiện toàn với một kinh nghiệm gần như thần bí, khiến ông phải thốt lên: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến.” (42,5). Bao nhiêu người trong chúng ta sau một kinh nghiệm đau đớn, có phần mờ tối, nó đã cho chúng ta tiến thêm một bước và biết về Chúa hơn! Và chúng ta có thể nói rằng, như Gióp, “con đã nghe người ta nói một chút về Chúa, nhưng bây giờ con đã thấy Chúa, vì con đã gặp Ngài”. Lời chứng này đặc biệt đáng tin khi mang lấy tuổi già, trong sự mong manh và mất mát ngày càng tăng. Người già đã thấy nhiều trong cuộc sống! Và họ cũng thấy sự bất nhất trong lời hứa của con người. Những người theo luật, theo khoa học, và thậm chí theo tôn giáo, nhầm lẫn kẻ bách hại với nạn nhân, khi quy cho nạn nhân toàn bộ trách nhiệm về nỗi đau của họ. Những người này đã sai!
Những người già tìm ra con đường chứng tá này, hoán chuyển sự oán trách vì mất mát thành sự kiên trì chờ đợi lời hứa của Thiên Chúa. Họ là thành luỹ vững chắc cho cộng đoàn trong việc đối diện với cái quá mức của sự dữ. Cái nhìn của tín hữu hướng về Thánh giá học được điều này. Chúng ta có thể học được điều đó từ các ông bà, từ nhiều người cao tuổi, như Đức Maria, kết hiệp những lời cầu nguyện của họ, đôi khi xé lòng, với lời cầu nguyện của Con Thiên Chúa, Đấng đã phó mình cho Cha trên thập giá.
Chúng ta hãy nhìn người già, nhìn bằng tình yêu, nhìn vào kinh nghiệm của họ, những người đã phải chịu đau khổ rất nhiều trong cuộc sống, những người đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống. Họ đã trải qua rất nhiều và cuối cùng có được bình an này, một điều gần như thần bí, nghĩa là sự bình an của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và nói rằng: “Con đã biết Chúa qua những lời người ta nói, nhưng bây giờ chính mắt con đã nhìn thấy Chúa”. Những người già này có được sự bình an giống như sự bình an của Con Thiên Chúa trên Thánh giá, Đấng phó mình cho Cha.
(Vatican News 18.05.2022)
2022
Giáo Hội dạy gì về vu khống?
Giáo Hội dạy gì về vu khống?
Vu khống là tội trọng, đi ngược với các giới răn của Chúa.
Giáo hội Công giáo bảo vệ những giáo huấn của Chúa Giêsu, khi nhấn mạnh đến phẩm giá của con người. Giáo lý Hội thánh Công giáo coi việc vu khống như tội nghịch với giới răn thứ 8:
“Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta đã “mặc lấy con người mới, là con người sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4, 24). Một khi đã cởi bỏ sự gian dối (Ep 4, 25) chúng ta phải “từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói gièm pha” (1 Pr 2,1)”.
“Chứng dối và thề gian. Công khai nói nghịch với sự thật là một lỗi nặng. Trước tòa án, lời nói như thế là chứng dối ( x. Pr 19,9 ). Khi nói dối mà còn thề, thì đó là thề gian. Chứng dối và thề gian sẽ dẫn đến một người vô tội bị kết án hoặc can phạm được gỡ tội hoặc gia tăng hình phạt cho bị cáo (x. Pr 18, 5), làm cho các thẩm phán đi đến những phán quyết lệch lạc”.
(GLCG số 2475-2476)
Xúc phạm con người
Sách Giáo lý còn liệt kê những thái độ xúc phạm của một người gây ra cho người khác và làm tổn thương thanh danh của họ:
“Vì phải tôn trọng thanh danh của người khác, chúng ta không được có thái độ và lời nói có thể gây hại cho họ ( x. CIC can. 220). Chúng ta có lỗi khi :
– Phán đoán hồ đồ, nghĩa là khi không có đủ cơ sở mà minh nhiên hoặc mặc nhiên cho rằng một người có lỗi về luân lý;
– Nói xấu nghĩa là khi không có lý do khách quan chính đáng mà lại tiết lộ những tật xấu và những lỗi lầm của kẻ khác cho những người chưa biết ( x. Kn 21,28 );
– Vu khống tức là khi dùng những lời ngược với sự thật mà làm hại thanh danh kẻ khác và tạo cớ cho người ta phán đoán sai lầm về người ấy”.
(GLCG số 2477)
Như sách Giáo lý đã nhận xét: “Dù không buộc phải giữ kín, cũng không được tiết lộ những chuyện riêng tư có thể gây tổn hại cho tha nhân, trừ khi có lý do hệ trọng và tương xứng” (GLCG số 2491).
Do đó, không cần thiết phải công khai chỉ ra những khuyết điểm của người khác. Chính Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng ta nên giải quyết một số vấn đề cách riêng tư trước khi đưa sự việc ra tòa:
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18, 15-17)
Vì thế, vu khống là một tội trọng đi ngược với các điều răn của Chúa, nhưng cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này đó là luôn luôn kín đáo và tránh xa mọi sự.
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2022
Đông Timor thông qua văn kiện của ĐTC về tình huynh đệ
Đông Timor thông qua văn kiện của ĐTC về tình huynh đệ
Đông Timor. Với đa số theo Công giáo, Đông Timor sẽ là quốc gia đầu tiên trên thế giới thông qua một văn kiện của ĐTC của nhằm thúc đẩy hòa bình và hòa hợp giữa những người Công giáo và người Hồi giáo.
Tất cả 60 nghị sĩ, tại phiên họp toàn thể trong những ngày vừa qua, đã đồng ý thông qua Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại vì hòa bình thế giới và chung sống mà Tổng thống đắc cử Jose Ramos-Horta hy vọng sẽ thực hiện trong chương trình giảng dạy tại trường học để duy trì sự hài hoà và hòa bình liên tôn.
Văn kiện nhằm thúc đẩy “văn hóa tôn trọng lẫn nhau” giữa các Kitô hữu và Hồi giáo đã được ký vào ngày 4 tháng 2 năm 2019, bởi Đức Thánh Cha và đại Imam Ahmed el-Tayyeb tại Abu Dhabi trong chuyến thăm của ĐTC tới Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Do đó, tài liệu này còn được gọi là Tuyên bố Abu Dhabi.
Tổng thống Ramos-Horta đã tích cực vận động các nhà lập pháp thông qua văn kiện này. Ông cũng đã thảo luận về vấn đề này với cựu thủ tướng Mari Alkatiri, một người theo đạo Hồi, trong cuộc gặp gỡ vào ngày 28 tháng 4.
Ông nói: “Đông Timor sẽ là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng tài liệu này vào chương trình giảng dạy tại trường học. Tài liệu sẽ dạy cho học sinh về tôn giáo, dân tộc, tầng lớp xã hội và sự khoan dung chính trị trong xã hội.”
Chủ tịch Quốc hội Aniceto Guterres cho biết ông sẽ gặp Đức ông Marco Sprizzi, Đại biện Sứ thần Tòa thánh để đệ trình sắc lệnh liên quan đến việc thông qua.
Tổng thống nói thêm rằng thông báo chính thức của nhà nước về việc thông qua văn kiện sẽ được đưa ra vào ngày 20 tháng 5 trong khuôn khổ lễ nhậm chức của tổng thống đắc cử.
Tổng thống Ramos-Horta cũng cho biết điều quan trọng đối với Đông Timor với tư cách một quốc gia có đa số người Công giáo ở châu Á là phải duy trì danh tiếng về “một quốc gia không có bạo lực do tôn giáo.”
Ông Ramos-Horta, nhận Giải Nobel hoà bình năm 1996, là thành viên ủy ban của Giải thưởng Zayed 2022 về Tình huynh đệ nhân loại, một giải thưởng quốc tế được thành lập để đánh dấu cuộc gặp gỡ lịch sử của ĐTC và đại Imam Al-Azhar.
Vào tháng 10 năm ngoái, ông đã có cuộc gặp với ĐTC tại Vatican và được chính ĐTC tặng một bản của tài liệu.
Anh Roberto Fernandez, giáo viên tại Trường Thánh Phanxicô Assisi ở Fatuberliu, quận Manufahi, cách Dili khoảng 190 km về phía nam, cho biết việc thông qua tài liệu này “là bước đi đúng để khẳng định vị thế của Đông Timor như một quốc gia yêu chuộng hòa bình.”
Anh nói: “Chúng tôi sẵn sàng thực hiện nó ở đây… Nguyên tắc là Đông Timor cần phải là một ngôi nhà an toàn cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho tất cả các tôn giáo.”
Trong số 1,3 triệu dân số Đông Timor, người Công giáo chiếm 97% trong khi người Hồi giáo chiếm dưới 1%. (Ucanews.com)
(Vatican News 16.05.2022)