2022
Một chứng từ
Một chứng từ
Báo Tuổi Trẻ là một tờ báo lớn tại Sài Gòn. Cách đây khá lâu, trong số thứ Bảy 20.5.2006, tờ báo này đăng tải một bài viết có tựa đề: “Một xơ người Việt được tổng thống Mỹ vinh danh”.
Bài báo nói về nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng, người Mỹ gốc Việt, dòng Đaminh được chính tay ông George Bush, lúc bấy giờ đang là tổng thống Mỹ, vinh danh và trao tặng giải thưởng phục vụ tình nguyện vì những đóng góp của Chị và tập thể các chị em thuộc cộng đoàn do chị làm Bề Trên, trong việc giúp đỡ dân chúng tại những vùng bị bão Katrina và Rita, hai cơn bão dữ dội càn quét nước Mỹ trong những ngày áp giữa năm 2006.
Trong những ngày tháng tàn phá của bão, cộng đoàn của Chị Têrêsa Phạm đã mở rộng vòng tay hết sức để đón nhận các nạn nhân tránh bão. “Dù cơ sở vật chất của dòng tu còn khá chật vật”, phải “sử dụng cả nhà nguyện làm nơi ở cho những người tỵ nạn” (lời của bài báo), các nữ tu vẫn lo cho khoảng 200 nạn nhân có đủ chỗ ở, thực phẩm, chăn, nệm, quần áo và các thứ cần thiết khác…
Sau khi bão đi qua, các Chị còn tiếp tục lo đầy đủ thức ăn, để họ “mang theo trên đường trở về nhà sau này”… Chính những người đến tá túc trong cộng đoàn cũng ngỏ lời khen ngợi. Bài báo viết: “Xơ Bề Trên đã mời họ ăn cơm chung với những món ăn truyền thống như cà pháo, canh rau đay, cá kho…”.
Trong ngày được vinh danh và lãnh giải thưởng, nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng đã không nói về mình, lại rất khiêm tốn và thật thà thổ lộ: “Bằng khen này không phải cho riêng tôi mà cho tất cả những việc mà các xơ đã làm để giúp đỡ nạn nhân bão Katrina và Rita. Tôi nhận bằng khen này thay cho các xơ”.
Chẳng những chị không hề khoe khoang vì về mình, mà còn cám ơn những người do chính chị và các nữ tu giúp đỡ: “Khi nào cơn bão còn hoành hành, khi ấy bà con cần nơi lưu trú, nhà dòng sẽ vẫn mở rộng cửa, không giới hạn thời gian. Đừng cảm ơn chúng tôi. Chính chúng tôi phải cảm ơn mọi người. Chúng tôi chỉ là người nhận. Đồng hương trong cơn hoạn nạn đã cho chúng tôi cơ hội để phục vụ”.
Giữa một thế giới có quá nhiều loạn lạc, bất an, tranh giành, giết hại, khủng bố, gieo hoang mang, gieo hãi hùng…, làm cho người ta có cảm giác thế giới nghèo tình thương, chúng ta lại bắt gặp rất nhiều, rất nhiều anh chị em sống tình yêu thương đậm đà.
Trong số đó, có cả một tập thể rất đông những người con của Hội Thánh, vì tình yêu Chúa Kitô, luôn luôn hiến thân, luôn luôn cho đi. Cộng đoàn của nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng chỉ là những đốm sáng trong cả một bó đuốc sáng vô cùng ấy.
Để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em, họ đặt đức bác ái lên hàng đầu. Chính họ, những khuôn mặt khả ái của lòng mến đã làm cho bộ mặt thế giới còn nhiều méo mó, nhiều vết sẹo, được tươi sáng hơn, rực rỡ hơn, hạnh phúc hơn.
Họ chính là cánh tay của Chúa Thánh Thần nhằm xoa dịu nỗi đau của lòng người. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động, dù âm thầm nhưng đầy hiệu quả nơi Hội Thánh và trong lòng mỗi Kitô hữu.
Nhiều khi ta cảm thấy Chúa Thánh Thần có vẻ xa lạ, đang khi Ngài ở nơi ta, ngự trị trong tâm hồn ta. Chúa Thánh Thần hiện diện bên ta vừa như một người bạn, vừa như một người thầy.
Chúa Thánh Thần vốn là Đấng an ủi. Ngài hiện diện trong ta, trong Hội Thánh, trong lòng đời để an ủi và nâng đỡ ta, an ủi và nâng đỡ mọi con cái loài người trong mọi khốn khó của đời người. Chúa Thánh Thần là nguyên lý của tình yêu, Chúa Thánh Thần làm cho tình yêu phát triển và lớn mạnh đến vô cùng.
Bởi Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi và nâng đỡ, Ngài cũng đòi ta hãy học lấy bài học của sự an ủi và nâng đỡ này mà sống với anh chị em quanh mình.
Nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng và các nữ tu thuộc cộng đoàn của chị, cùng rất nhiều những tấm gương khác trong Hội Thánh chính là bài học thực tế, Chúa Thánh Thần dùng để dạy từng người biết sống với anh chị em bằng đức ái chân thành, nhằm an ủi và nâng đỡ anh chị em. Học lấy bài học thực tế ấy, chúng ta không câu nệ, không nề hà, nhưng hăng hái lên được phục vụ anh chị em vì Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban Chúa Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi ích kỷ, mọi tính toán riêng tư nơi các Kitô hữu của Chúa. Xin hãy thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mỗi Kitô hữu, để họ chu toàn sứ mệnh được sai đi với một trái tim bừng cháy lửa yêu mến.
Xin Chúa Thánh Thần ban cho mỗi Kitô hữu sức sống của Chúa, để họ mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình bằng chính đời sống bác ái yêu thương, để qua chính hành vi đầy tình yêu của họ, mọi người nhận ra khuôn mặt nhân từ vô cùng của Thiên Chúa, để tin tưởng và sẵn sàng đón nhận Chúa làm Chúa của đời mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Chúa, để giữa lòng thế giới, đã có quá nhiều đe dọa, bạo lực, khủng bố, chiến tranh, mạng sống con người bị coi rẻ…, chúng con biết làm cho bộ mặt của thế giới thực sự tươi sáng, và làm bừng lên sức sống mới của Chúa, để nhiều người đau khổ muốn sống hơn, để thế giới bớt đi những tối tăm, để mạng sống con người được tôn trọng…
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG
2022
“Thánh Thể là sức mạnh của tôi”: câu chuyện của sơ Alicia Torres
“Thánh Thể là sức mạnh của tôi”: câu chuyện của sơ Alicia Torres
Sơ Alicia Torres chia sẻ về ơn gọi của mình là một nữ tu bén rễ trong Bí tích Rửa tội và “được kết nối mật thiết với Bí tích Thánh Thể”, từ đó sơ có được sức mạnh và hy vọng để trao ban cho những người xung quanh trong những “hoàn cảnh khó khăn” mà họ đang sống.
Mọi chuyện bắt đầu khi Alicia Torres theo học cử nhân tại Đại học Loyola. Thần học và đạo đức sinh học là hai môn nằm trong danh sách các khoá học. Nhưng trong thời gian này, Alicia cũng bắt đầu dành nhiều thời gian để thực hành việc chầu Thánh Thể. Khoảng thời gian vô cùng quý giá đó đã giúp cô tạo “một mối tương quan thực sự với Người”. “Không chỉ Bí tích Thánh Thể trở nên thật hơn” nhưng “niềm tin theo lý trí” của cô đã được biến thành “một niềm tin của con tim: là chính Chúa Giêsu!”.
Đó mới chỉ là khởi đầu. Khi Thánh Lễ và cuộc sống của cô trở nên thực hơn, Alicia bắt đầu cảm thấy một lời mời gọi thuộc trọn về Chúa với tư cách là một nữ tu.
Do đó, Alicia đã gia nhập một Hội dòng mới lập, Dòng Phanxicô Thánh Thể Chicago. Sơ Alicia vẫn tự hỏi về cách Chúa đã muốn dẫn mình đến với cộng đoàn này, vì trước đây sơ chưa hề tiếp xúc với việc phục vụ người nghèo. Sơ nghĩ rằng sứ mạng của sơ đâm chồi từ phong trào phò sự sống mà sơ đã tích cực tham gia từ thời trung học. Tuy nhiên, nhìn lại 13 năm dấn thân và sống trong dòng tu này, sơ không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng “kế hoạch của Chúa cho cuộc đời tôi thật hoàn hảo!”
Sơ Alicia, khi nhìn lại ơn gọi của mình, giải thích về mối liên hệ giữa đặc sủng của Thánh Phanxicô Assisi và Bí tích Thánh Thể: “Nhiều người không nhận ra Bí tích Thánh Thể quan trọng như thế nào đối với Thánh Phanxicô Assisi. Sau Công đồng Lateranô IV, ngài đã viết một lá thư cho mỗi linh mục trên thế giới để nhấn mạnh việc thực hành yêu mến và sùng kính Thánh Thể, điều đã được các Nghị phụ của Công đồng đề nghị”.
Đối với sơ Alicia và các chị em cùng Dòng, sứ mạng dành cho người nghèo qua việc giảng dạy và loan báo Tin Mừng được thực hiện nhờ một “mối tương quan đặc biệt với Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể”. “Có một mối liên hệ mạnh mẽ và lạ thường giữa sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và sự hiện diện với dân của Người, đặc biệt là với những người nghèo và người đau khổ”.
Chúa không chỉ hướng sơ đi theo hướng mà sơ không nhìn thấy, mà Người còn dẫn sơ đến một Hội dòng mà sơ là “một trong những người đầu tiên gia nhập”. Sơ Alicia nói: “Đó là những ngày tiên phong của Dòng.”
Hình nhóm những nhà thuyết giảng
Hiện nay sơ Alicia sống và phục vụ như một giáo viên tôn giáo ở một vùng ngoại ô nghèo của Chicago. Sơ nói: “Bí tích Thánh Thể là tâm điểm lớp học của tôi, là trọng tâm kinh nghiệm tôn giáo của các học trò nhỏ của tôi”. Một kinh nghiệm chứng tá về việc làm thế nào để mời trẻ em đến gặp gỡ Chúa, sau đó dẫn chúng đến chỗ tin và cảm nhận sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Sơ kể: “Tôi có một học trò rất khó khăn trong việc diễn tả bằng lời. Sau hai tháng học về Bí tích Thánh Thể, tôi đã yêu cầu em vẽ một hình ảnh về Chúa Giêsu. Em đã vẽ một vòng tròn với một Thánh giá ở chính giữa. Tôi hỏi em đã vẽ gì và em đã trả lời với vẻ tự nhiên và thích thú: “Thiên Chúa! Thiên Chúa”.
Sơ Alicia đang tiếp tục thực hiện sứ mạng có quy mô toàn quốc từ sáng kiến của các Giám mục Hoa Kỳ. Cuối tháng Tư vừa qua ở Chicago, sơ đã giúp tổ chức một khoá tĩnh tâm cho các linh mục thuyết giảng về Bí tích Thánh Thể. Các linh mục thuyết giảng này sẽ tham gia chiến dịch Phục hưng Thánh Thể Quốc gia sẽ bắt đầu vào ngày 19 tháng 6 tới đây, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa, và sẽ kết thúc với đại hội Thánh Thể toàn quốc vào năm sau.
Sơ Alicia đã bắt đầu làm việc trong ủy ban điều hành của dự án này ngay từ mùa hè năm ngoái “cùng với nhiều nhà lãnh đạo giáo dân tuyệt vời khác”. Sau khi được giao nhiệm vụ đặc biệt trong nhóm điều hợp cùng với các linh mục sẽ trở thành “những nhà thuyết giảng trong Đại hội Thánh Thể quốc gia”, sơ bắt đầu giúp cá nhân các linh mục về ơn gọi của họ cho sứ mạng này và cung cấp cho họ những thông tin.
Sơ Alicia nói: “Thật không thể tin được khi nhìn thấy sự hăng hái của các linh mục và sự canh tân ơn gọi linh mục của họ. Bởi vì các linh mục có một vai trò then chốt trong việc mang con người đến với Bí tích Thánh Thể, và Bí tích Thánh Thể đến với con người. Nhưng điều này cũng rất hữu ích đối với sơ trong ơn gọi nữ tu khi khám phá ra vai trò của chính mình trong Giáo hội, bằng cách hỗ trợ một điều gì đó thật thiết yếu. Sơ nói: “Tôi có một món quà thật đẹp để cho đi và đó chính là điều mang lại sự sống cho tôi.”
Sơ Alicia mô tả ơn gọi nữ tu của mình được đâm rễ nơi Bí tích Rửa tội và “kết nối mật thiết với Bí tích Thánh Thể”. “Tôi không thể tưởng tượng được một cuộc sống khác ngoài việc đồng hành với những người có những hoàn cảnh hết sức khó khăn, và vẫn còn hy vọng”, khi “hằng ngày chúng ta nghe thấy tiếng súng ở ngay bên. Nhưng tôi không sợ vì tôi tin rằng tôi đã được Chúa mời gọi ở đây, và tôi được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, và Người là nguồn sức mạnh của tôi.”
Sr. Bernadette M. Reis, fsp
2022
Trở về nguồn để biến đổi chính mình
Trở về nguồn để biến đổi chính mình
Qua cuộc phỏng vấn của Giuditta Bonsangue với sơ Brigitte Flourez, bề trên tổng quyền dòng các Nữ tu Chúa Giêsu Hài đồng, chúng ta được biết dòng đã hình thành như thế nào: từ một hiệp hội giáo dân trở thành một hội dòng với ơn gọi giáo dục, đặc biệt dành cho các nữ sinh.
Chúng tôi đã gặp nhau vào ngày đầu tiên của Hội nghị toàn thể của Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền năm 2022, vào cuối ngày. Nhưng trên khuôn mặt của sơ Brigitte không tỏ vẻ mệt mỏi, bởi vì ánh mắt sơ tràn đầy năng lượng và tiếng cười lan toả. Tuy nhiên, chúng tôi không thể nghĩ ra quá nhiều câu hỏi mà chỉ muốn lắng nghe sơ nói.
“Tên tôi là Brigitte; đó là tên thánh rửa tội của tôi và tôi là một nữ tu. Ở một số nước, họ gọi tôi là Mẹ Brigitte.” Cuộc phỏng vấn với sơ Brigitte Flourez, Bề trên Tổng quyền dòng các Nữ tu Chúa Giêsu Hài Đồng được bắt đầu như thế.
“Tôi đã thánh hiến bản thân cho Chúa Kitô vì ước muốn hiến dâng cuộc đời mình cho Người và cho tha nhân. Tôi lớn lên trong một gia đình có đức tin và gia đình dạy tôi cầu nguyện và truyền lại cho tôi các giá trị xã hội sâu sắc. Người thân của tôi đã tham gia vào cuộc sống nông thôn và bắt đầu các tiến trình biến đổi trong giới nông dân, điều vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Do đó, tôi đã rất may mắn.”
Khi nào thì sơ hiểu rằng cuộc đời mình đã được dành cho đời sống thánh hiến?
“Trong một buổi tĩnh tâm, tôi đã được tình yêu của Chúa Giêsu đánh động. Tôi tự nhủ: Mình phải làm gì đó, nhưng mà điều gì? Tôi đã tìm kiếmThiên Chúa trong những việc tôi đang làm, để hiểu tôi có thể thay đổi mình bằng cách nào. Nó không rõ ràng ngay lập tức, nhưng tôi đã quyết định sống trong một cộng đoàn, trong một khu phố rất nghèo, rất bình dân. Sau đó tôi mới phát hiện ra người sáng lập của cộng đoàn của tôi (Nicolas Barré).”
Tại sao mà sau đó sơ mới biết người sáng lập dòng của sơ?
Thực tế là ban đầu chúng tôi không phải là những nữ tu, nhưng chỉ là một nhóm nữ giáo dân tham gia vào việc giáo dục thiếu nữ. Vào thời điểm đó, năm 1662, chúng tôi là điều mà ngày nay được coi là một hiệp hội giáo dân. Rất lâu sau đó chúng tôi mới trở thành các nữ tu; Cha Barré rất xa với đời sống tu trì truyền thống. Khi đó chúng tôi không phải là các nữ tu. Hiện tại, điều quan trọng đối với chúng tôi là sẵn sàng cho những gì chúng tôi được kêu gọi để sống, trong giáo phận, dưới sự hướng dẫn của giám mục, nhưng với sự tự do tuyệt vời
Khi nào thì các chị từ những nữ giáo dân trở thành nữ tu?
“Sau cuộc Cách mạng Pháp, Nhà Nước cổ võ việc giáo dục các thiếu nữ, và thành lập các cơ sở trường học và trường nội trú. Nhiều hội dòng đã được thành lập để thực hiện chương trình này, và chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi đã đổi mới trong lĩnh vực giáo dục; các trường của chúng tôi được cho là một trong những trường tốt nhất. Vào năm 1850, một số người nhập cư Tây Ban Nha nhìn thấy những gì chúng tôi đang làm trong các trường học của chúng tôi đã mời chúng tôi thực hiện điều tương tự như thế ở Tây Ban Nha. Ở đó không có các trường học cho thiếu nữ, nơi có thể giáo dục theo cách cá nhân như vậy; họ đến với chúng tôi để tìm hiểu phương pháp giáo dục rất đơn giản nhưng đồng thời rất quan tâm chú ý đến nhu cầu của học sinh. Ở Tây Ban Nha, các thiếu nữ được đào tạo trong các đan viện. Vì chúng tôi chỉ là một hiệp hội giáo dân, để giao phó các trường học cho chúng tôi, các giám mục Tây Ban Nha đã yêu cầu chúng tôi được Toà Thánh phê chuẩn. Vì vậy, để có được sự công nhận chính thức, chúng tôi buộc phải trở thành một dòng tu theo giáo luật.”
Việc trở thành một hội dòng có thay đổi nhiều với các chị không?
“Có theo một số khía cạnh nào đó, nhưng thật may mắn là chúng tôi vẫn giữ được lòng nhiệt thành truyền giáo của mình! Thật vậy, chúng tôi đã trở thành hội dòng đầu tiên gửi một phụ nữ đến Nhật Bản! vào hậu bán thế kỷ 19; đó là sơ Mathilde Raclot. Sơ là một phụ nữ phi thường, gan dạ và đồng thời gắn bó với hội dòng của mình. Sơ đã có thể hoàn thành sứ vụ của mình ở châu Á, vào thời điểm Hiến pháp của dòng chúng tôi được thay đổi, khi mọi việc đều cần sự cho phép của các bề trên; việc này là điều không thể thực hiện ở một nơi xa xôi như vậy!
Chúng tôi đã sống qua những năm tháng mà chúng tôi xuất sắc trong giáo dục, xuất sắc cho xã hội thời đó, cho các phụ nữ Pháp, Nhật Bản, Malaysia. Tại Singapore, chúng tôi vẫn có 15.000 học sinh và chúng tôi là một trong những trường học tốt nhất của quốc gia.”
Sau đó điều gì đã xảy ra?
“Tôi có thể nói rằng chúng tôi đã làm được nhiều điều tốt, bởi vì muốn đáp lại các nhu cầu của thời đại. Nhưng có phải người sáng lập của dòng chúng tôi chỉ muốn điều này? Hôm nay trong Hội nghị toàn thể, chúng ta đã nghe nói về tính dễ bị tổn thương và tôi nghĩ về ngài. Thiên Chúa là Đấng vĩ đại, nhưng đã trở nên nhỏ bé để được gần gũi với những người nhỏ bé, khi sinh ra như một em bé. Vì lý do này, mục đích đầu tiên và hình thức đầu tiên của dòng này là để trở thành người nghèo, giống như Chúa Kitô. Đón nhận một trẻ em nghèo là tiếp nhận Chúa Kitô, bởi vì Người đã nói “Mọi điều anh chị em làm cho những người bé nhỏ là làm cho chính Ta.” Trọng tâm của đoàn sủng của chúng tôi là đón tiếp em trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi, để mang lại cho các em phẩm giá qua giáo dục và được hạnh phúc nhờ đức tin. Điều này thật tốt đẹp phải không? Đôi khi để làm điều thiện và đáp ứng nhu cầu của thời đại, chúng ta có nguy cơ quên đi người nghèo; vì lý do này, điều rất quan trọng là phải được nuôi dưỡng bởi nhựa sống của nguồn gốc. Điều này rất khó tìm. Và chúng tôi vẫn gặp khó khăn này cho đến ngày hôm nay.”
Làm thế nào chúng ta có thể quay trở lại nguồn mạch để hiểu con đường cần thực hiện?
“Hôm nay chúng ta đã nói về một sự biến đổi cần được thực hiện. Đây chắc chắn là nguồn mạch. Khi tôi vào dòng, tôi đã đọc một số bản văn của đấng sáng lập của chúng tôi, những bản văn thật đánh động! Chúng không tương thích với các quy tắc giáo luật đã được áp dụng cho chúng tôi. Vào thời điểm đó, phụ nữ không được cho là một phần của cuộc sống cộng đồng, bởi vì họ được quy định làm việc cho lĩnh vực riêng tư. Trong quá trình đào tạo của tôi, mục đích đầu tiên của dòng là làm việc cho sự thánh thiện thông qua việc thực hành các lời khấn, theo khuôn khổ giáo luật thời bấy giờ. Đối với Đấng Sáng Lập của chúng tôi, Thiên Chúa thánh hoá chúng ta trong việc yêu thương phục vụ trẻ em nghèo và bị bỏ rơi để chúng được nên thánh. Đó là một cách để chúng ta hoán cải và biến đổi chính mình. Nhưng điều đó thật khó khăn. Tôi xin lỗi nếu tôi nói như thế, nhưng tôi rất đam mê nó. Đó là con đường mà chúng tôi tiếp tục đi, tìm lại tinh thần của cội nguồn, để tiếp tục biến đổi chính mình.”
Giuditta Bonsangue
(Vatican News 19.06.2022)
2022
Đức Thánh Cha mời gọi giới trẻ Công giáo nghi lễ Syro-Malabar sống phục vụ và có trách nhiệm
Đức Thánh Cha mời gọi giới trẻ Công giáo nghi lễ Syro-Malabar sống phục vụ và có trách nhiệm
Ngày 18/6/2022, trong cuộc gặp gỡ các tham dự viên của “Hội nghị các nhà lãnh đạo giới trẻ Syro-Malabar” đang hành hương đến Roma, Đức Thánh Cha mời gọi họ đi theo Chúa Giêsu bằng cách nói “có” với một đời sống phục vụ và trách nhiệm, và nói “không” với một cuộc sống hời hợt hưởng thụ.
Giáo hội Công giáo nghi lễ Syro-Malabar là một trong hai Giáo hội Công giáo Đông phương ở Ấn Độ, hiệp thông hoàn toàn với Đức Giáo hoàng. Đây là Giáo hội Công giáo Đông phương lớn thứ hai sau Giáo hội Công giáo Đông phương Ucraina, với khoảng 4,25 triệu tín hữu trên toàn thế giới. Hơn một nửa trong số họ sống ở bang Kerala, Ấn Độ, nơi Giáo hội có từ thế kỷ thứ nhất sau khi Thánh Tôma Tông đồ rao giảng Tin Mừng tại đây.
Ước muốn đi theo Chúa Giêsu
Trò chuyện với khoảng 75 nhà lãnh đạo trẻ của các Giáo phận Syro-Malabar, Đức Thánh Cha lưu ý rằng ước muốn của các Kitô hữu chúng ta là đi theo Chúa Giêsu và “bước đi trên con đường tình yêu của Người, con đường duy nhất dẫn đến sự sống vĩnh cửu.” Mặc dù không dễ dàng, nhưng theo ngài, con đường này “hấp dẫn” và “mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Nó cho chúng ta sức mạnh để nói ‘có’ với một cuộc sống phục vụ và trách nhiệm, và nói ‘không’ với một cuộc sống hời hợt và hưởng thụ.” “Cuộc sống của chúng ta tìm thấy bản chất và ý nghĩa bất cứ khi nào chúng ta thưa ‘vâng’ với Chúa Giê-su.”
Làm chứng cho tình yêu thương
Nhắc nhở rằng Giáo hội tiếp tục phát triển không phải bởi việc chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng chứng tá, Đức Thánh Cha kêu gọi họ làm chứng cho tình yêu thương được các thánh bày tỏ trong mọi thời đại, chủ yếu là giữa những người đồng trang lứa với họ ở cộng đồng Syro-Malabar, và cả giữa những người không thuộc cộng đồng của họ, và ngay cả những người “không biết Chúa Giêsu.”
Đức Thánh Cha lưu ý rằng tình yêu đó “chứng tỏ – hơn bất kỳ lời nào – rằng Kitô giáo không nằm ở một loạt các điều cấm cản trở khát vọng hạnh phúc, nhưng trong một dự án cuộc sống có khả năng mang lại sự viên mãn cho mọi trái tim con người.”
Rời bỏ tiện nghi; không bị tê liệt bởi sự sợ hãi
Đức Thánh Cha cũng khuyến khích các bạn trẻ Ấn Độ theo gương của Đức Mẹ: dám rời bỏ sự tiện nghi và không để mình bị tê liệt bởi sợ hãi, tạo tương quan với các thế hệ đi trước mình để học và hành xử theo sự khôn ngoan của họ. (CSR_2567_2022)
Hồng Thủy