2022
Đức Thánh Cha Phanxicô: Gia đình bị tấn công, nhiều hệ tư tưởng tước đoạt giá trị con người
Đức Thánh Cha Phanxicô: Gia đình bị tấn công, nhiều hệ tư tưởng tước đoạt giá trị con người
Trong buổi tiếp kiến dành cho các tham dự viên Tổng tu nghị của Phong trào Tông đồ Schönstatt tại Đức, Đức Thánh Cha nêu ra những khủng hoảng của thời đại chúng ta, “hôn nhân gặp khủng hoảng, người trẻ bị cám dỗ, người già bị lãng quên, trẻ em chịu đau khổ” và ngài kêu gọi tìm ra những con đường mới và mở ra hy vọng cho những khủng hoảng này.
Phong trào Tông đồ Schönstatt là một phong trào Đức Mẹ, được thành lập năm 1914 tại Đức nhằm canh tân thiêng liêng trong Giáo hội Công giáo.
Nói với toàn thể Phong trào, Đức Thánh Cha ghi nhận những việc tốt đẹp Phong trào đã đóng góp cho Giáo hội và cho thế giới, đặc biệt trong việc đồng hành với các gia đình, và loan báo về vẻ đẹp của “Giao ước Tình yêu” mà Chúa đã thiết lập với dân của Người. Ngài nhấn mạnh: “Ngày nay có rất nhiều cuộc hôn nhân bị khủng hoảng, người trẻ bị cám dỗ, người già bị lãng quên, trẻ em chịu đau khổ. Anh chị em là những người mang thông điệp về hy vọng cho những tình huống đen tối mà mọi giai đoạn cuộc sống đều trải qua.”
Đức Thánh Cha đặc biệt lưu ý đến các hệ tư tưởng khác nhau đang làm xói mòn những nền tảng nâng đỡ nhân cách của con người và của toàn xã hội nói chung. Hơn nữa, khoảng cách thế hệ, sự hiểu biết lẫn nhau giữa người già và người trẻ ngày càng mờ nhạt. Trong khi đó, sự liên minh giữa các thế hệ mới có thể cứu được nhân loại, bởi vì bằng cách này, căn tính cá nhân và gia đình được gìn giữ. Hơn nữa, gia tài sự khôn ngoan, ý nghĩa của sự sống con người, cũng sẽ được truyền lại trong gia đình theo kế hoạch của Thiên Chúa.
Mẫu gương của Gia đình thánh Nazareth, đặc biệt là Mẹ Maria, về sự dịu dàng và yêu thương tận tuỵ sẽ giúp cho chúng ta có được động lực để trở thành những nhịp cầu của tình bác ái huynh đệ và đặc biệt liên đới với những người túng thiếu nhất.
Văn Yên, SJ
2022
Albino Luciani Triều giáo hoàng Gioan-Phaolô I: một luồng khí trong lành cho đời sống của Giáo hội
Albino Luciani Triều giáo hoàng Gioan-Phaolô I: một luồng khí trong lành cho đời sống của Giáo hội
Đức Gioan-Phaolô I, 33 ngày khiêm nhường
Hồng y Aloisio Lorscheider, tu sĩ dòng Phanxicô đã tham dự Công đồng Vatican II nhiệt tình cho thấy tầm quan trọng của triều giáo hoàng Đức Gioan Phaolô I: “Tôi nghĩ triều giáo hoàng này như luồng gió mới cho đời sống Giáo hội, như bình minh của một ngày tươi sáng”.
Sự giản dị, những lời ngài nói để bảo vệ các em bé nhỏ và nụ cười phúc hậu của ngài nhanh chóng ghi dấu ấn trong lòng các tâm hồn. Ngài lấy tên hai giáo hoàng tiền nhiệm để tỏ lòng kính trọng Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI, là mục tử gần với giáo dân. Đức Gioan-Phaolô I nói với hồng y Quốc vụ khanh của ngài: “Tôi chân thành nói, trước hết tôi là linh mục, sau là giáo hoàng, nhưng tôi muốn tôi là mục tử, không phải nhân viên văn phòng… trước tiên tôi là giám mục giáo phận Rôma, sau đó là giáo hoàng”.
Trong thánh lễ nhậm chức ngày 23 tháng 9 năm 1978, ngài tự phát nói, chính Đức ông phụ trách nghi lễ đã “chọn ba bài đọc cho thánh lễ long trọng này. Đức ông cảm thấy các bài này phù hợp, còn tôi, tôi cố gắng giải thích các bài này cho anh chị em.” Không phải không hài hước, ngài cho biết, Đức ông chọn bài đọc hai nói về “đức vâng lời, làm tôi hơi bị bối rối”. Hai bài giảng, 3 thông điệp, 3 tông thư, 4 bức thư trong đó có bức thư gởi cho các giám mục Argentina (quốc gia của em bé Candela Giarda được chữa lành nhờ lời cầu bàu với Đức Gioan-Phaolô I), 4 buổi tiếp kiến, 5 Kinh Truyền Tin và 9 bài phát biểu. Bản tổng kết nhanh chóng và tạo ấn tượng. Một triều giáo hoàng chớp nhoáng nhưng sáng chói.
Giản dị
Theo Đức Bênêđíctô XVI thì “lòng khiêm tốn có thể được xem là di chúc thiêng liêng của ngài. Chính nhờ đức tính này mà 33 ngày đủ để giáo hoàng Luciani đi vào lòng người. Sự giản dị của ngài đã truyền đạt lời huấn dạy kiên định và phong phú. Nhờ trí nhớ phi thường, nhờ văn hóa rộng lớn, ngài đã ứng biến với nhiều câu trích của các nhà văn. Chú tâm đến sự đơn giản, ngài không dùng “từ long trọng về chức giáo hoàng uy nghi”, ngài nói về mình ở ngôi thứ nhất số ít, ngài từ chối vương miện, chỉ dùng chiếc mũ giám mục. Ngài chọn phương châm giám mục như Thánh Charles Borromeo chọn: “Humilitas, Khiêm tốn”. Trong một tiếp kiến chung ngài nói: “Tôi chỉ có thể nói với anh chị em một nhân đức, đó là kính Chúa, hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (Mt 11-29). Dù anh chị em đã làm những điều rất tốt, nhưng chúng ta nên nói, tôi chỉ là người đầy tớ vô dụng.”
Và theo bà Pia Luciani, cháu của ngài, thì di sản ngài để lại cho Giáo hội là “phải cố gắng làm hết sức và giao phần còn lại cho Chúa”. Cha xứ ngôi làng quê hương của ngài thích thú nhớ lại, “nụ cười của ngài, tinh thần thanh thản liên tục của ngài không phải là ơn tự nhiên ngài có: chúng là kết quả của đức kiên nhẫn, lời cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Chúa”. Theo tác giả Christophe Henning, người viết quyển tiểu sử duy nhất bằng tiếng Pháp về Đức Gioan-Phaolô I, ngài là “mục tử có đức tin sâu đậm và giản dị”. Khi được bầu làm giáo hoàng, Albino Luciani đã nói với các hồng y: “Xin Chúa tha thứ cho những gì các bạn làm”. Dưới con mắt của Christophe Henning, không nghi ngờ gì nữa, triều giáo hoàng của Đức Gioan-Phaolô I “tạo điều kiện thuận lợi cho việc bầu chọn một giáo hoàng, cũng là một mục tử”. Đức Phanxicô (một nửa là người Argentina, một nửa là người Ý) rất nhạy cảm với hình ảnh của Đức Gioan-Phaolô I, dù hai giáo hoàng không biết nhau, nhưng có một dây liên hệ thú vị giữa “hai người Ý địa phương này”.
Một giáo hoàng yêu thương và được yêu mến
Nhiều biệt danh trìu mến được đặt cho ngài: “Giáo hoàng nhân lành”, “Giáo hoàng tươi cười”, “linh mục của thế giới” nói lên sự gần gũi và hòa nhã của ngài, người muốn làm cho giáo dân của những buổi tiếp kiến chung hàng tuần “thích thú nghe bài giáo lý thích ứng với thế giới hiện đại”. Ngài bắt đầu các bài giáo lý với chủ đề gia đình. “Giáo lý viên có một không hai” này chỉ có 4 buổi tiếp kiến chung, ngài theo bước chân của Thánh Piô X. Trong một buổi tiếp kiến chung ngài nói: “Chúng ta phải cảm thấy mình nhỏ bé trước mặt Chúa. tôi không thấy xấu hổ khi cảm thấy mình như đứa bé trước mặt mẹ mình. Anh chị em tin vào mẹ của anh chị em, tôi tin vào Chúa, vào những gì Ngài dạy tôi”, những lời này cho thấy chiều sâu đức tin của ngài.
Linh mục Gérard Pelletier, sử gia của Giáo hội nói, ngài là giáo hoàng đầu tiên đã ứng khẩu trước cử tọa, không cần đọc bài soạn sẵn. Dấn thân gần gũi với giáo dân, ngài tuyên bố với giáo dân Rôma: “Tôi có thể đảm bảo với anh chị em, tôi yêu anh chị em, tôi chỉ mong phục vụ anh chị em với tất cả sức lực kém cỏi của tôi, những gì tôi có và con người thật của tôi.”
Linh mục José Dabusti, người đã cầu nguyện cho em bé Candela Giarda, 11 tuổi người Argentina được chữa lành, cha ấn tượng trước sự vui mừng, trước biểu hiệu trên khuôn mặt của ngài, và hơn nữa là đức khiêm tốn của ngài.” Linh mục Pelletier nhấn mạnh, Đức Gioan-Phaolô I trên hết là mục tử và ngài không làm việc ở Giáo triều la-mã như các vị tiền nhiệm trực tiếp của ngài.
Chú tâm đến người khác
Nhân từ và chú tâm đến người khác là những lời khuyên thường xuyên trong các bài phát biểu của ngài: “Không có tội lỗi nào là quá lớn, đau khổ lớn lao nào rồi cũng qua đi, nhưng các đau khổ luôn có thể được lòng thương xót vô hạn ôm ấp”. Theo bà Pia Luciani, Đức Gioan-Phaolô I luôn được xem là thánh khi ngài còn sống. Ngài kiên nhẫn, chú tâm nhiều đến người nghèo. Quan tâm đến số phận của họ, ngài muốn có “mức lương công bằng” cho thế giới việc làm. Ngài có dự án viết một thông điệp có tên Người nghèo và nghèo đói trên thế giới. Như thế ngài có thể “trên hết truyền được tình yêu của Thiên Chúa khi nhấn mạnh đến hiệu năng hiếm có và tình nhân loại đích thực trong tình yêu của Chúa. Ngài đã làm cho điều này biểu hiệu qua lời nói và qua chính cuộc sống của ngài, dịu dàng và nhân từ khi ngài gần gũi với mọi người (…). Người ẩn mình giữa hai triều giáo hoàng lâu dài của Đức Phaolô VI và Đức Gioan-Phaolô II đáng được chúng ta chú ý và biết ơn.
Marta An Nguyễn dịch
2022
Phản ứng về sự phẫn nộ của Ucraina chống Đức Giáo hoàng
Phản ứng về sự phẫn nộ của Ucraina chống Đức Giáo hoàng
Có một vài phản ứng về sự phẫn nộ từ Ucraina và Ba Lan chống Đức Giáo hoàng Phanxicô, liên quan đến vụ cô Darya Dugina, chết trong vụ khủng bố bằng xe bom ở Mascơva, hôm 20 tháng Tám vừa qua.
Dugina, 30 tuổi, là con của một triết gia Aleksander Dugin, ảnh hưởng lớn trên chính sách của Tổng thống Nga Vladimir Putin, và cũng là một ký giả mạnh mẽ ủng hộ chiến tranh của Nga chống Ucraina.
Chính phủ Ucraina đã phẫn nộ vì câu nói ứng khẩu của Đức Thánh cha vào cuối buổi tiếp kiến chung, hôm 24 tháng Tám vừa qua, ngài nói rằng: “Tôi nghĩ đến một thiếu nữ tội nghiệp bị nổ tung lên không trung vì một quả bom được đặt dưới ghế xe ở Mascơva. Những người vô tội trả giá vì chiến tranh. Chúng ta hãy nghĩ đến thực tại đó và nói với nhau: chiến tranh là điên rồ. Và những người kiếm lợi với chiến tranh và nạn buôn bán võ khí là những tội phạm giết hại nhân loại…”
Hôm sau, 25 tháng Tám, Bộ Ngoại giao Ucraina đã triệu Đức Sứ thần Tòa Thánh ở Kiev đến để phản đối. Từ Ba Lan, nhiều báo chí cũng phê bình Đức Giáo hoàng và thậm chí có chính trị gia lăng mạ ngài.
Không có phản ứng chính thức nào từ phía Tòa Thánh về sự việc này của chính phủ Ucraina. Nhưng hôm 26 tháng Tám, Đại sứ Ucraina cạnh Tòa Thánh, ông Andrii Yurash, đã có những lời tuyên bố dịu giọng và nhấn mạnh tầm quan trọng của những quan hệ giữa Ucraina và Tòa Thánh.
Tuy nhiên, ông Andrea Tornielli, Tổng biên tập Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, đã gửi đến chương trình tiếng Ucraina của đài Vatican một tuyên ngôn, trong đó ông nhấn mạnh rằng: “Đức Giáo hoàng nói với tâm hồn của một linh mục, chứ không phải là một nhà chính trị. Ngài muốn bày tỏ sự cảm thông theo tinh thần Kitô đối với người chết, với mọi người chết, kể cả với Darya Dugina, và chắc chắn ngài không muốn làm thương tổn tâm tình của nhân dân Ucraina. Không gì có thể biện minh cho việc giết người. Nhiều lần Đức Giáo hoàng Phanxicô đã lên tiếng bênh vực các nạn nhân bị gây hấn bất công… Những lời của Đức Giáo hoàng hôm 24 tháng Tám vừa qua, rất mạnh mẽ, kêu gọi chấm dứt chiến tranh và thực sự dấn thân cho hòa bình từ phía các nhà lãnh đạo quốc gia.
Theo ký giả Ricardo Cascioli, trong bài xã luận trên trang mạng “Địa bàn mới hằng ngày”, truyền đi ngày 27 tháng Tám ở Ý, “Chính phủ Ucraina nóng lòng mong muốn được sự ủng hộ rộng rãi nhất của quốc tế trong cuộc chiến chống lại Nga, dường như quên vai trò đặc thù của vị thủ lãnh Giáo hội Công giáo, một vai trò không giống vai trò của bất kỳ vị quốc trưởng nào. Trong viễn tượng này, cả việc chính phủ Ucraina mời Đức Thánh cha đến Kiev cũng bị ngờ là không theo lô-gíc tìm kiếm hòa bình, nhưng là tìm kiếm đồng minh chống lại kẻ thù”.
(Kai 26-8-2022, Nuova bussola quotidiana 27-8-2022)
- Trần Đức Anh, O.P.
2022
Đức Thánh Cha Phanxicô thăm mục vụ tại thành phố Aquila
Đức Thánh Cha Phanxicô thăm mục vụ tại thành phố Aquila
Sáng Chúa Nhật ngày 28/8, Đức Thánh Cha đã bay đến Aquila cách Roma hơn 100km để viếng thăm thành phố này và mở Cửa Thánh tại Vương cung Thánh đường Collemaggio. Năm 2009, thành phố Aquila đã bị một trận động đất khiến hơn 300 người chết và hơn 1600 người bị thương.
Đức Thánh Cha đã khởi hành lúc 8 giờ sáng từ Vatican và đến Aquila sau 25 phút bay bằng trực thăng. Ngài đã có cuộc gặp với các gia đình nạn nhân và giới chức chính quyền của thành phố. Sau đó, ngài đến Vương cung thánh đường Collemaggio để dâng thánh lễ và sau đó mở Cửa Thánh.
Bài giảng Thánh Lễ của Đức Thánh Cha
Các Thánh là những minh hoạ sống động của Tin Mừng. Cuộc đời của họ là điểm quy chiếu đặc biệt giúp chúng ta nhìn ra Tin Mừng mà Đức Giêsu đã đến để loan báo, đó là: Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương. Đây chính là tâm điểm của Tin Mừng. Chính cuộc Nhập Thể và dung mạo của Đức Giêsu là minh chứng hữu hình của tình yêu ấy.
Hôm nay, chúng ta cử hành Thánh Lễ trong một ngày đặc biệt của thành phố này và Giáo Hội nơi đây: Ngày Lễ Xá Giải (hoặc Ngày Xá Tội) được thành lập bởi Đức Giáo Hoàng Celestino V. Nơi đây có lưu giữ thánh tích của vị Giáo Hoàng này. Ngài là hiện thân tròn đầy của những gì chúng ta nghe trong bài đọc I hôm nay: “Càng làm lớn con càng phải khiêm hạ, như thế con sẽ được ân nghĩa trước mặt Chúa” (Cn 3,8). Chúng ta thường sai khi nhớ đến Đức Celestino V, như một “kẻ từ chối vĩ đại”, theo như một kiểu nói trong tác phẩm Thần Khúc của Đan-tê. Thật ra, Đức Celestino V không phải là kẻ từ chối (khi Ngài từ nhiệm ngôi vị Giáo Hoàng). Ngài không phải là người nói không, nhưng là con người của lời đáp “xin vâng”.
Thật ra, chẳng có cách nào để thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa nếu không phải là khởi đi từ nỗ lực của con người: không có con đường khác. Dưới mắt của người đời, có những người bị xem là yếu đuối và thất bại, nhưng họ mới là những người chiến thắng thật sự, bởi vì họ là những kẻ cuối cùng đặt trọn vẹn niềm tin vào Thiên Chúa và nhìn nhận Thánh Ý của Người. “Thiên Chúa mặc khải những mầu nhiệm của Người cho những kẻ hiền lành… Người được tôn vinh nơi những người khiêm hạ” (Cn 3,19-20). Trước tinh thần thế gian nhuốm đầy mùi kiêu căng, Lời Chúa hôm nay mời chúng ta trở nên hiền lành và khiêm hạ. Khiêm nhường không có nghĩa là hoàn toàn phủ nhận chính mình, nhưng là nhìn nhận một cách đúng đắn những giá trị của chúng ta cũng như những thiếu hụt và yếu kém của chúng ta. Khởi đi từ những thiếu hụt yếu kém của mình, sự khiêm hạ dạy chúng ta không tập trung nhìn vào chính mình nhưng là hướng mắt về Thiên Chúa, Đấng có thể làm mọi sự và là Đấng sở hữu trọn vẹn chúng ta ngay cả khi tự sức mình chúng ta chẳng thể sở hữu được gì. “Mọi sự đều có thể đối với những ai có lòng tin” (Mc 9,23).
Sức mạnh của những người khiêm hạ là chính Thiên Chúa, chứ không phải là những chiến thuật, những phương tiện nhân loại theo lẽ khôn ngoan của thế gian này. Theo nghĩa ấy, Đức Celestino V là một chứng nhân can đảm của Tin Mừng, một người không để cho mình bị tù hãm hay lèo lái bởi thúc đẩy của quyền lực. Nơi Ngài, chúng ta ngưỡng mộ một Giáo Hội tự do, được giải phóng khỏi những suy nghĩ kiểu trần thế và là một chứng nhân trọn vẹn cho Danh của Thiên Chúa, là Đấng Thương Xót. Đây chính là tâm điểm của Tin Mừng, bởi vì thương xót nghĩa là nhận ra chúng ta là những kẻ được yêu thương ngay chính trong tình trạng khốn cùng của chúng ta: hai điều này đi với nhau. Không thể hiểu lòng thương xót nếu chúng ta không hiểu chính nỗi khốn cùng của chính mình. Làm một người tín hữu không phải là bước theo một Thiên Chúa mù mờ và khiến chúng ta sợ hãi. Thư gởi tín hữu Do-thái đã nhắc chúng ta về điều này: “Anh em đã chẳng đến gần một điều gì đó có thể sờ thấy được, có lửa đang cháy, có mây mù, có bóng tối, có tiếng kèn vang dậy, có tiếng nói gầm thét đến độ khiến cho những ai nghe thấy phải van xin Chúa đừng nói với họ nữa”. Không, thưa anh chị em, chúng ta đến gần Đức Giêsu, là con một của Thiên Chúa, là Lòng Thương Xót của Chúa Cha, là Tình Yêu cứu độ chúng ta. Chính Người là lòng thương xót: chỉ với lòng thương xót, chúng ta mới có thể nói về nỗi khốn cùng của mình. Nếu ai muốn đến với lòng thương xót bằng một lối khác thì người ấy đã lạc đường. Vì vậy, điều quan trọng là hiểu thực tại của mình.
Trải qua hàng thế kỷ, thành phố Aquila đã gìn giữ sống động món quà mà Đức Thánh Giáo Hoàng Celestino V đã để lại cho mình. Tôi được vinh dự nhắc nhở tất cả mọi người rằng nhờ Lòng Thương Xót, và chỉ có nhờ Lòng Thương Xót mà thôi, mỗi người chúng ta mới có thể sống cuộc sống của mình trong niềm vui. Thương Xót là kinh nghiệm nhận ra mình được đón nhận, được phục hồi, được tăng sức, được chữa lành, được khích lệ. Kinh nghiệm về ơn được tha thứ là một kinh nghiệm gần gũi thiết thân với sự phục sinh, tại đây và ngay lúc này. Ơn tha thứ là hành trình đi từ sự chết đến sự sống, từ kinh nghiệm lo sợ vì tội lỗi của mình đến kinh nghiệm tự do và vui mừng. Ước gì Đền Thánh này luôn là nơi chốn mà chúng ta được hoà giải, được có kinh nghiệm về ơn phục hồi và được thấy những khả thể khác được ban tặng cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của những khả thể, của bảy mươi lần bảy. Ước gì nơi này là ngôi Đền Thánh của ơn tha thứ, không chỉ mỗi năm một lần, nhưng là mãi mãi. Và như thế mỗi người chúng ta có thể xây dựng hoà bình nhờ vào kinh nghiệm đón nhận và trao ban ơn tha thứ. Khởi đi từ nỗi khổ của mình và nhìn vào đó để làm sao đến được với ơn tha thứ, bởi vì trong nỗi khốn khổ, chúng ta sẽ luôn tìm thấy một ánh sáng nào đó như là con đường dẫn đến với Chúa. Ví dụ, sáng nay tôi nghĩ về điều này. Khi chúng tôi bay đến Aquila, chúng tôi không thể đáp xuống được vì sương mù dày đặc, mịt mù. Phi công trực thăng bay vòng quanh, vòng quanh… và cuối cùng đã nhìn thấy một lỗ nhỏ và ra hiệu là sẽ xuống bằng lỗ đó, và đã làm được. Tôi đã nghĩ về sự khốn khổ: với nỗi khốn khổ cũng xảy ra tương tự. Chúng ta thấy mình chẳng còn gì và chúng ta chạy quanh… rồi Chúa mở ra một lỗ nhỏ. “Hãy đặt mình vào đó, vào những vết thương của Chúa. Ở đó có lòng thương xót, dù trong nỗi khốn cùng.”
Anh chị em thân mến,
Anh chị em đã đau khổ nhiều do cuộc động đất gây ra. Như một dân tộc, anh chị em đã cố gắng chỗi dậy và phục hồi. Những ai đã đau khổ cần phải biết trân trọng và nhận ra giá trị của đau khổ mà mình đã trải qua, cần phải hiểu rằng bóng tối mà mình đã trải qua chính là một quà tặng giúp cho mình có khả năng thấu hiểu được đau khổ của những người khác. Anh chị em có thể là những chứng nhân cho lòng Thương Xót, bởi lẽ anh chị em đã có kinh nghiệm mất tất cả, đã nhìn thấy sự sụp đổ của những gì con người xây dựng, đã phải từ bỏ tất cả những gì là thân thương nhất, đã phải trải qua nỗi đau mất đi những người thân yêu nhất. Anh chị em có thể là những người biết trân giữ lòng Thương Xót, bởi vì chính anh chị em đã kinh nghiệm về sự khố cùng.
Trong cuộc sống của chúng ta, không cần phải trải qua những cơn động đất, mỗi chúng ta đều có thể có kinh nghiệm về điều mà tôi tạm gọi là “những cuộc động đất của tâm hồn”. Kinh nghiệm ấy đặt chúng ta đối diện với sự mỏng manh của chính mình, với những giới hạn của chính mình, với chính sự nghèo khó khốn cùng của mình. Đó là có thể là kinh nghiệm mất tất cả, nhưng đó cũng là kinh nghiệm có thể dạy cho chúng ta về sự khiêm hạ thật sự. Trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy, hoặc người ta sẽ nổi giận với cuộc đời, hoặc người ta sẽ học bài học về sự hiền lành khiêm hạ. Do đó, hiền lành và khiêm hạ là đặc tính của những ai có sứ mạng trân giữ và làm chứng cho lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta có lạc bước trên đường đời, bài Tin Mừng hôm nay chính là một tiếng chuông gióng lên để nhắc nhở chúng ta (Lc 14,1.7-14). Đức Giêsu được mời đến dùng bữa tại nhà một người Pharisêu và Người quan sát thấy có nhiều người muốn ngồi ở chỗ tốt nhất. Trong dịp ấy, Người kể một dụ ngôn vẫn còn giá trị cho chúng ta ngày hôm nay: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối”. Rất thường xuyên, người ta đánh giá nhau qua những vị thế mà người ta chiếm được trong thế giới này. Thế nhưng giá trị của một con người không phụ thuộc vào cái chỗ người ấy ngồi; đúng hơn, giá trị của một con người phụ thuộc vào sự tự do mà người ấy có được và sống được ngay cả khi phải ngồi ở chỗ cuối, ngay cả khi chỗ dành cho người ấy là trên Thập Giá.
Người Kitô hữu biết rằng cuộc đời mình không phải là một hành trình xây dựng sự nghiệp theo kiểu thế gian, nhưng là một sự nghiệp theo cung cách của Đức Kitô, Đấng không đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (Mc 10:45). Nếu chúng ta không hiểu được tính cách mạng của lời Tin Mừng giải phóng này, chúng ta sẽ lại tiếp tục hưởng ứng chiến tranh, cổ vũ bạo lực và bất công. Tất cả đều là dấu hiệu của việc thiếu tự do nội tâm. Nơi nào không có tự do nội tâm, nơi ấy mở ra những con đường cho chủ nghĩa ích kỷ, cá nhân, lợi nhuận và bất công.
Anh chị em thân mến, ước gì thành phố Aquila trở thành một thủ phủ thật sự của sự tha thứ, của hoà bình và của hoà giải. Ước gì thành phố này có thể trao ban cho tất cả mọi người kinh nghiệm về sự biến đổi mà chính Đức Maria đã hát trong lời kinh Magnificat: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Ấy là sự biến đổi mà chính Đức Giêsu đã nhắc nhở chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên” (Lc 14,11). Chúng ta hãy phó thác nơi Đức Maria, Đấng mà anh chị em đã tôn kính với tước hiệu là Mẹ cứu rỗi của dân thành Aquila, ước nguyện được sống theo Tin Mừng. Nhờ sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ, xin cho thế giới của chúng ta được tràn đầy ơn tha thứ và bình an.
—
Cuối Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã chào thăm người dân Aquila hiện diện cũng như tham dự từ xa. Trước khi đọc Kinh Truyền Tin, ngài đặc biệt nhớ đến người dân Pakistan hiện đang vật lộn với những trận lũ lụt khiến nhiều người chết, mất tích và bị thương. Ngài kêu gọi tình liên đới của cộng đồng quốc tế để hỗ trợ những nạn nhân.
Sau khi kết thúc Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã đến Cửa Thánh của Vương cung Thánh Đường Collemaggio để làm nghi thức mở Cửa Thánh. Ngài mở cửa, cầu nguyện và đi qua Cửa Thánh, sau đó đoàn đồng tế cũng đi qua Cửa Thánh và viếng mộ ĐGH Celestino V.
Cuối buổi cử hành, Đức Thánh Cha ra sân vận động Gran Sasso lúc 12:25pm trưa để lên trực thăng trở về lại Vatican.
Ảnh: Vatican Media