2022
Những tư tưởng tâm huyết của Đức Thánh Cha về linh mục
NHỮNG TƯ TƯỞNG TÂM HUYẾT CỦA ĐỨC THÁNH CHA VỀ LINH MỤC
Đức Thánh Cha đã tái bày tỏ những điều tâm huyết của ngài về các linh mục: các vị phải là những người không cứng nhắc, đặc biệt trong tòa giải tội, có lòng thương xót và dịu dàng, gần gũi dân chúng, và gần gũi Giám mục của mình như những người con gần cha, không nói hành nói xấu anh em linh mục khác, và trên hết cần cầu nguyện thật nhiều. Riêng các linh mục có sứ mạng giáo dục tại chủng viện, cần phải là người biết phân định.
Cơ hội để Đức Thánh Cha tái trình bày lập trường trên đây của ngài là buổi tiếp kiến sáng thứ Năm 10/11 vừa qua dành cho 100 linh mục giám đốc và giáo sư thuộc các đại chủng viện ở Mỹ Châu Latinh tham dự khóa bồi dưỡng ở Roma.
Sau lời chào mừng và giới thiệu của Đức Hồng Y Lazaro Du Hưng Thực (You Heung Sik), Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, Đức Thánh Cha cám ơn Đức Hồng Y, vị Tổng Thư ký và Phó Tổng Thư ký của Bộ và ngài nói: “Bây giờ lẽ ra tôi đọc cho anh em một bài diễn văn dài 12 trang, thật là một kỷ lục… Nhưng để tránh nguy cơ này, tôi để lại văn bản cho vị thư ký, và cho đăng trên báo Quan sát viên Roma sẽ ra chiều hôm nay. Diễn văn này là điều tôi nghĩ về việc đào tạo linh mục, nhưng đó là một điều căn nhắc, cần đọc trong yên tĩnh. Bây giờ, tôi xin nói nơi đây ba bốn điều tôi có trong tâm hồn, tôi chia sẻ với anh em, cho đời sống linh mục của anh em, nhất là đời sống của những nhà đào tạo tại chủng viện”.
Thật ra, đã nhiều lần trong các cuộc gặp gỡ với các linh mục, chủng sinh và các tu sĩ, trong các buổi tiếp kiến ở Vatican hoặc trong các chuyến tông du, Đức Thánh Cha gửi lại bài huấn dụ dọn sẵn để mọi người đọc sau, và ngài ứng khẩu nói lên những điều tâm huyết.
Tránh cứng nhắc, cần phân định
Điều đầu tiên được Đức Thánh Cha nhắn nhủ là hãy tránh thái độ cứng nhắc. Ngài nói: “Một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất ngày nay xảy ra cho Giáo Hội, anh em biết rõ hơn tôi, đó là khi người ta theo những khuôn khổ huấn luyện cứng nhắc, rất cứng nhắc… Đã nảy sinh những dòng tu thật là một thảm họa, mà tôi phải dần dần đóng cửa, giải tán… Xét cho cùng, đằng sau sự cứng nhắc đó có sự ung thối. Vì thế điều quan trọng là phải phân định kỹ lưỡng trong việc huấn luyện những người trẻ. Và việc phân định ở đây, tôi nghĩ đó là chìa khóa. Nếu một nhà đào tạo không có khả năng phân định thì hãy nói với Giám mục bản quyền xin ngài bổ cho một công tác khác. Để phân định thì phải có thinh lặng, cầu nguyện, cần phải có sự đồng hành, có khả năng chịu đau khổ, không có câu trả lời sẵn. Những câu trả lời tiền chế ngày nay không hữu ích cho những người trẻ, trái lại cần phải đồng hành với họ, với một đạo lý rõ ràng, đúng vậy, đồng hành với họ trong những hoàn cảnh khác nhau”.
Cần gần gũi
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi có một sở thích, đó là nói về sự gần gũi, vì tôi nghĩ cần phải đi tới nguồn mạch một đặc tính của Thiên Chúa, một đường lối của Thiên Chúa, đó là sự gần gũi. Chính Chúa nói điều đó chứ không phải tôi. Trong sách Đệ Nhị Luật, Chúa nói: “Hãy nói cho tôi: có dân nào được những thần minh rất gần như các các ngươi được Ta gần gũi?”. Chúng ta cần có sự gần gũi, dù là linh mục hay chủng sinh. Linh mục cần phải gần gũi. Gần gũi ai? Gần gũi các thiếu nữ trong giáo xứ sao? Có vài người làm như thế, và sau đó họ lấy nhau. Nhưng gần gũi ai đây? Gần gũi cách nào? Có hai đặc tính của sự gần gũi của Thiên Chúa: Thiên Chúa gần gũi trong thương xót và trong sự dịu dàng. Linh mục phải là người có lòng thương xót, với sự dịu dàng. Chúng ta không thể là những cha sở như chủ xí nghiệp của một giáo xứ, la lối, làm đủ mọi chuyện, chỉ sống với ba bốn điều, mà không biết đối thoại và không có khả năng vuốt ve một em bé, ôm hôn một cụ già hoặc không muốn mất thời giờ đi nói chuyện với các bệnh nhân, nhưng chỉ lo đề ra các kế hoạch cho giáo xứ. Nhưng làm như thế thì không hiệu quả. Cần gần gũi, có lòng thương xót và sự dịu dàng.
Đức Thánh Cha kể rằng: “Nhiều khi tôi đau khổ khi gặp những người đến khóc với tôi, vì họ đi xưng tội và xưng mọi sự, nhưng không được cha giải tội xá giải. Giả sử họ xưng tội vì đã phạm một, hai, mười ngàn tội đi nữa, thì hãy cảm tạ Chúa và tha thứ cho họ. Đừng hành hạ họ, Đừng nói tôi không thể ban phép giải tội cho anh, tôi không thể vì tôi phải đi xin phép Đức Giám Mục… Linh mục nào hành động như vậy thì là một kẻ tội phạm. Anh em hãy là những mục tử gần gũi, với lòng thương xót và dịu dàng.”
Hãy siêng năng cầu nguyện
Và Đức Thánh Cha đặc biệt nhắn nhủ các linh mục hãy siêng năng cầu nguyện. Ngài nói: “Một linh mục không cầu nguyện thì rốt cuộc sẽ rơi vào bãi rác. Có lẽ linh mục ấy sẽ kiên trì đến tuổi già nhưng là ở trong thùng rác, nghĩa là trong sự tầm thường. Tôi không muốn nói đó là tội trọng, nhưng là sự tầm thường, còn tệ hơn cả tội trọng, vì tội trọng làm cho bạn kinh hãi và đi xưng tội ngay. Sự tầm thường là một lối sống không cao, và người ta lợi dụng tất cả những gì có thể và kéo dài cho đến cùng. Linh mục nào không cầu nguyện thì rơi vào tình trạng đó. Anh em hãy cầu nguyện nghiêm túc, hãy xin vị đồng hành thiêng liêng với anh em, dạy anh em cầu nguyện. Hãy tin tưởng nơi cách thức anh em cầu nguyện với người đồng hành thiêng liêng của anh em. Xin anh em đừng đầu hàng trước điều đó.”
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Hễ một linh mục càng bận rộn, càng dấn thân thì càng phải dành thời giờ cho việc cầu nguyện, tóm lại là cần gần gũi với Chúa trong kinh nguyện.”
Gần gũi Giám mục bản quyền
Ngoài ra, các linh mục còn cần gần gũi Giám Mục của mình. Đức Thánh Cha nói: “Không có Giáo Hội nếu không có giám mục. Có thể anh em nói: nhưng Giám mục này là một người xấu, bất xứng. Nhưng cả anh em cũng là người bất xứng! Giám mục là người cha của anh em. Nếu anh em không có can đảm nói thẳng với Giám mục, thì đừng nói với người khác, hãy im lặng. Hoặc anh em đi nói với Giám mục, hoặc anh em xin Chúa giải quyết vấn đề, nhưng hãy gần gũi Giám mục, hãy tìm kiếm Giám mục, và Giám mục phải gần gũi các linh mục. Đúng vậy. Cần gần gũi Giám mục của mình trong tư cách là con cái, chứ không phải như kẻ nịnh bợ, tìm kiếm một lợi lộc nào đó. Điều này bao hàm việc cần kính trọng Giám mục.”
Đức Thánh Cha cảnh giác rằng “một điều anh em không bao giờ được phép làm, đó là hành động như hai người con của ông Nôê, cười nhạo cha say sưa. Hãy làm như người con thứ ba, đó là lấy chăn đắp che thân cho cha. Quả thực là nhiều khi có những Giám mục bất xứng, – xin Chúa đừng để như vậy, – nhưng bạn làm gì trong tư cách là con? Trong vườn nho của Chúa có đủ mọi loại. Hãy che thân cho cha, hãy can đảm nói với ngài, nhưng đừng coi sự xấu của Giám mục ấy để cười nhạo trong câu chuyện với những người khác và để biện mình điều gì đó cho mình. Giám mục là người cha.
Đừng nói hành nói xấu
Cũng trong việc tránh tật nói hành nói xấu, Đức Thánh Cha cảnh giác các linh mục hãy gần gũi các anh em linh mục khác, và đừng nói xấu nhau, vì chúng ta là anh em với nhau. Nếu anh em không có can đảm nói thẳng với đương sự, thì đừng đi kể với những người khác như những bà già ngôi lê đôi mách. Có quá nhiều tật xấu này trong Giáo Hội, ở mọi nơi.
Và sau cùng Đức Thánh Cha nhắc nhủ các linh mục đừng quên những người cộng tác của mình, đừng quên gốc gác của mình, nơi mình xuất xứ, đừng quên mùi của dân Chúa.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2022
Di dân Việt Nam tại Philippines mừng Đại lễ Các thánh Tử đạo Việt Nam
DI DÂN VIỆT NAM TẠI PHILIPPINES MỪNG ĐẠI LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Duy An | RVA
Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười Một năm 2022, tại khuôn viên Đài Chân Lý Á Châu-Philippines, Ban Mục vụ Di dân Việt Nam tại Philippines cùng với Ban Việt ngữ-Đài Chân Lý Á Châu, đã tổ chức ngày họp mặt cho anh chị em di dân Việt Nam tại Philippines để mừng kính Các Thánh tử đạo Việt Nam. Đã có khoảng 800 anh chị em Việt Nam, cả người không Công giáo và người nước ngoài, cùng tham dự và chia sẻ niềm vui của ngày đại lễ.
Sau những phút thánh hóa và khởi động vui nhộn, các tham dự viên đã lắng nghe bài chia sẻ của cha Phêrô Tạ Anh Vũ, linh mục thuộc Giáo phận Osnabrück, bên Đức, và hiện là giáo sư bộ môn Thần học mục vụ truyền thông xã hội tại Đại học Hoàng gia Giáo hoàng thánh Tôma Aquinô, Manila (UST). Với đề tài: “Mục vụ di dân trong chiều hướng ‘Hiệp hành cùng với Giáo hội’”, cha thuyết trình viên đã chia sẻ cho các tham dự viên những khái niệm cơ bản về di dân, những hoàn cảnh của người di dân, Giáo hội và mục vụ di dân, các hoạt động thiết thực cho anh chị em di dân ở bất cứ nơi đâu, rồi vấn đề mục vụ di dân tại Philippines, sau cùng là di dân và hiệp hành, với nhau và với Giáo hội. Song song với những khái niệm, kiến thức và lịch sử nói trên, linh mục Phêrô cũng chia sẻ những cảm nghiệm riêng của mình trong việc hỗ trợ, cầu nguyện và đồng hành với anh chị em di dân tại đất nước Philippines trong thời gian qua.
Cao điểm của ngày họp mặt là thánh lễ tạ ơn mừng kính Các thánh Tử đạo Việt Nam, diễn ra vào lúc 11g00, do cha Gioan Baotixita Trần Thanh Thế, Dòng Đa Minh, Trưởng ban Việt ngữ-Đài Chân Lý Á Châu và cũng là người đồng hành với anh chị em di dân Việt Nam tại Philippines, chủ tế. Đồng tế trong thánh lễ này, có khoảng 60 linh mục thuộc nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm các linh mục sinh viên, giáo sư và bề trên nhiều hội dòng.
Trước thánh lễ, mọi người cùng lắng đọng trong phút diễn nguyện xúc động và hào hùng về các chứng nhân đức tin Việt Nam khi xưa.
Trong bài giảng thánh lễ, cha Giuse Trần Quốc Bảo, Dòng thánh Scalabrini, cha linh hướng của Nhóm Bát Cơm Nhân Ái, đã lược lại vắn gọn lịch sử hào hùng và kiên trung sống đức tin của các thánh Tử đạo tại Việt Nam. Nhấn mạnh đến những “chọn lựa” của các vị tiền bối tử đạo trong đời sống đức tin của các vị, nhất là chọn lựa giữa sự sống và cái chết, cha Giuse mời gọi anh chị em Việt Nam can đảm và kiên trung làm chứng cho đức tin ấy, giữa bao nhiêu chọn lựa của cuộc sống mưu sinh hằng ngày tại Philippines, dù là đang học tập, làm ăn hay tu học…
Cuối thánh lễ, có phần giới thiệu Ban Điều hành Mục vụ Di dân Việt Nam tại Philippines, với Trưởng ban là anh Phêrô Ngô Văn Khá và 2 Phó ban cùng 6 Tiểu ban khác.
Kế đó, cộng đoàn cùng vỗ tay chúc mừng các tân Phó tế người Việt Nam, thuộc nhiều cộng đoàn dòng tu tại Philippines mới được phong chức trong tháng vừa qua, trong đó có 3 thầy Dòng Tên, 3 thầy Dòng Chúa Thánh Thần, 3 thầy Dòng Thừa sai thánh Claret, 1 thầy Dòng Cát Minh (OCD), 1 thầy Dòng thánh Scalabrini, và 1 thầy Dòng Chúa Cứu Độ.
Thánh lễ kết thúc trong tâm tình tạ ơn và vui tươi. Mọi người cùng chung chia với nhau trong bữa ăn huynh đệ, đồng thời thưởng thức các tiết mục văn nghệ đặc sắc, công phu và vui nhộn với sự cộng tác hết mình của các đơn vị, hội dòng, nhóm, cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Ngày họp mặt mừng kính Đại lễ Các thánh Tử đạo Việt Nam của anh chị em di dân Việt Nam tại Philippines đã kết thúc lúc 15g00 cùng ngày trong bầu khí vui tươi, cảm tạ và tri ân.
Nguồn: vietnamese.rvasia.org
2022
Bài diễn văn Đức Thánh Cha dành cho Bộ Truyền thông
BÀI DIỄN VĂN ĐỨC THÁNH CHA DÀNH CHO BỘ TRUYỀN THÔNG
Đại hội toàn thể của Bộ Truyền thông với chủ đề: “Thượng hội đồng và Truyền thông: một hành trình để phát triển” (Synod and Communication: a journey to develop) đã diễn ra tại Roma từ ngày 10- 12. 11. 2022 với sự tham gia của nhiều thành viên bao gồm nhà báo, kỹ thuật viên, và nhân viên của Bộ. Được biết, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục giáo phận Mỹ Tho, thành viên của Bộ Truyền Thông cũng tham dự Đại hội.
Nhân dịp này, các tham dự viên Đại hội đã có buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng 12. 11. 2022. Trong buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha đã ngẫu hứng chia sẻ trực tiếp những suy tư của Ngài, và trao bài diễn văn đã soạn sẵn cho những người hiện diện.
Dưới đây là nội dung bài diễn văn đã chuẩn bị của Đức Thánh Cha:
BÀI DIỄN VĂN ĐỨC THÁNH CHA DÀNH CHO BỘ TRUYỀN THÔNG
Xin chào anh chị em!
Tôi xin cám ơn về những lời tốt đẹp của Tiến sĩ Paolo Ruffini. Tôi chào tất cả anh chị em đang tham dự Đại hội toàn thể của Bộ Truyền thông với chủ đề “Thượng hội đồng và Truyền thông: một hành trình để phát triển”.
Đức Thánh Cha chào đón Tổng trưởng Bộ Truyền thông, Tiến sĩ Paolo Ruffini
Thượng Hội đồng không phải là một bài tập đơn giản trong truyền thông, cũng không phải là một nỗ lực để suy nghĩ lại về Giáo hội với logic của đa số và thiểu số, để tìm ra một thỏa thuận. Đó là kiểu tầm nhìn mang tính thế gian, và theo mô hình của nhiều kinh nghiệm xã hội, văn hóa và chính trị. Thay vào đó, yếu tính của lộ trình hiệp hành hệ tại ở chân lý cơ bản mà chúng ta không bao giờ được lãng quên: nhằm mục đích lắng nghe, thấu hiểu, và thực hành ý muốn của Thiên Chúa.
Như là một Giáo hội, nếu chúng ta muốn biết ý muốn của Thiên Chúa là làm cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu toả hơn nữa trong thời đại của chúng ta, thì chúng ta phải trở lại với nhận thức rằng ý muốn ấy của Thiên Chúa không bao giờ được ban với tư cách cá nhân, nhưng luôn được ban tặng cho Giáo hội trong tư cách toàn thể. Chỉ trong kết cấu sống động của các mối tương quan trong Giáo hội, chúng ta mới trở nên có khả năng lắng nghe và hiểu được Đức Chúa, Đấng đang nói với chúng ta. Nếu không “bước đi cùng nhau”, chúng ta có thể đơn giản trở thành một tổ chức tôn giáo, song le tổ chức này đã đánh mất khả năng để cho ánh sáng sứ điệp của vị Tôn Sư tỏa sáng, đã đánh mất khả năng mang lại hương vị cho các biến cố khác nhau của thế giới.
Đức Giêsu cảnh báo chúng ta đề phòng về một xu hướng như vậy. Người lặp lại với chúng ta rằng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 13-16). Đây là lý do tại sao chiều kích hiệp hành là một chiều kích cấu thành Giáo hội, và việc suy tư mà chúng ta đã tham gia trong những năm vừa qua nhằm mục đích đưa ra một cách kiên vững điều mà Giáo hội luôn tin tưởng trọn vẹn.
Sách Thánh đầy rẫy những câu chuyện về những người nam và người nữ, mà đôi khi chúng ta nhầm tưởng là những anh hùng đơn độc. Chẳng hạn, tổ phụ Abraham, người đầu tiên được Thiên Chúa ngỏ lời, không phải là một người đơn độc lên đường, mà là một người rất coi trọng tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng mời gọi ông rời khỏi quê cha đất tổ của mình, và ông thực hiện điều này cùng với gia đình của mình (Gen 12, 1-9). Câu chuyện về Abraham là câu chuyện về các tương quan thân thích của ông.
Ngay cả Môsê, người giải phóng dân Israel, cũng sẽ không thể hoàn thành sứ mạng nếu không có sự giúp đỡ của người anh Aaron, người chị Maria, và người anh rể Jethro, cùng một số người khác đã giúp ông lắng nghe Lời Chúa và đem ra thi hành vì lợi ích của tất cả mọi người. Môsê là một người bị tổn thương trong cuộc sống cá nhân, ông không có tài ăn nói, trái lại, còn là một người nói lắp. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng Môsê là một người gặp khó khăn trong việc giao tiếp, nhưng những người ở bên cạnh Môsê đã bù đắp cho sự bất tài của bản thân ông (x. Xh 4; 10, 12-16).
Đức Maria thành Nazareth đã không thể hát bài Magnificat nếu không có sự hiện diện và tình bạn của người chị họ Elizabeth (x. Lc 1, 46-55). Mẹ cũng sẽ không thể bảo vệ hài nhi Giêsu khỏi sự căm ghét của những kẻ muốn giết Người nếu không có Giuse ở bên (Mt 2,13-15; 19-23).
Chính Đức Giêsu cũng cần có những tương quan với người khác, và khi phải đương đầu với trận chiến cuối cùng trong sứ mạng tại Giêrusalem, vào đêm bị bắt, Người đã đưa các bạn là Phêrô, Giacôbê và Gioan đến Vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26, 36-46).
Sự đóng góp của truyền thông chính là làm cho chiều kích cộng đồng này, năng lực liên kết này, và ơn gọi kết nối này trở nên khả thi. Và, do đó, chúng ta hiểu rằng nhiệm vụ của truyền thông là thúc đẩy sự gần gũi, mang lại tiếng nói cho những người bị loại trừ, để thu hút sự chú ý đến những gì chúng ta thường loại bỏ và phớt lờ. Có thể nói, truyền thông là một công cụ kết nối, trong đó tiếng nói của Thiên Chúa vang lên và được lắng nghe.
Tôi muốn khai triển 3 điều như là những đường hướng để suy tư trong tương lai về lĩnh vực này.
Nhiệm vụ đầu tiên của truyền thông là làm cho con người bớt cô đơn. Nếu truyền thông không làm giảm đi cảm giác cô đơn mà rất nhiều người nam nữ cảm thấy họ phải cam chịu, thì truyền thông đó đơn thuần chỉ là giải trí, nó không phải là công cụ để kiến tạo các mối tương quan như chúng ta đã đề cập đến ở trên.
Để thực hiện một sứ mạng như thế, cần phải rõ ràng rằng người ta chỉ cảm thấy bớt cô đơn khi họ nhận ra những vấn đề, những hy vọng, và những khó khăn mà họ mang trong mình được sự bộc lộ ra bên ngoài. Chỉ duy Giáo hội biết dìm mình vào thực tại mới thực sự biết được điều gì ẩn khuất nơi tâm hồn của con người đương thời. Do đó, tất cả truyền thông đích thực được thực hiện trước hết từ sự lắng nghe chân thành, được hình thành từ những cuộc gặp gỡ, những khuôn mặt, những câu chuyện. Nếu không biết cách ở trong thực tại thì chúng ta sẽ tự giới hạn mình khi chỉ đưa ra những hướng dẫn từ trên cao mà không ai muốn chú ý đến. Truyền thông phải là một trợ giúp đắc lực đối với Giáo Hội trong việc ở trong thực tại một cách cụ thể, nhằm thúc đẩy việc lắng nghe và can thiệp vào phần lớn vấn đề của con người ngày nay.
Liên quan với thách đố đầu tiên này, tôi muốn thêm một thách đố khác: truyền thông mang lại tiếng nói cho những người không có tiếng nói. Rất thường xuyên chúng ta chứng kiến những hệ thống truyền thông gạt ra bên lề và phê bình những gì không thoải mái và những gì chúng ta không muốn thấy. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhận thức rõ nhiệm vụ của mình là phải ở bên những người rốt hết, và môi trường sống tự nhiên của Giáo hội là chính môi trường sống của những vùng ngoại biên hiện sinh.
Nhưng những người ở vùng ngoại biên hiện sinh không chỉ là những người sống bên lề xã hội vì lý do kinh tế, mà còn là những người dù có của ăn nhưng bị tước đoạt ý nghĩa cuộc sống; họ cũng là những người sống trong hoàn cảnh bị gạt ra bên lề do những lựa chọn nhất định, hoặc những thất bại của gia đình, hoặc những biến cố cá nhân đã để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử của họ. Đức Giêsu không bao giờ sợ hãi người phung hủi, người nghèo, người xa lạ, ngay cả khi họ bị đánh dấu bởi sự kỳ thị về đạo đức. Đức Giêsu không bao giờ phớt lờ những người không theo đúng lễ giáo dưới bất cứ hình thức nào. Tôi tự hỏi rằng với tư cách là một Giáo hội, liệu chúng ta có biết cách đưa ra tiếng nói cho những anh chị em này, chúng ta có biết cách lắng nghe họ, chúng ta có biết cách phân định ý muốn của Thiên Chúa cùng với họ, và do đó, nói với họ Lời mang ơn cứu độ chăng.
Cuối cùng, thách đố thứ ba của truyền thông mà tôi muốn để lại cho anh chị em là việc giáo dục bản thân trong nỗ lực truyền thông. Trong Tin Mừng, không hiếm khi chúng ta thấy có những hiểu lầm, sự chậm chạp trong việc hiểu những giáo huấn của Đức Giêsu, hoặc sự hiểu lầm đôi khi trở thành những bi kịch thực sự, như đã xảy ra với Giuda Iscariot, người đã nhầm lẫn sứ mạng của Đức Kitô với chủ nghĩa thiên sai chính trị.
Vì vậy, chúng ta cũng phải chấp nhận chiều kích “gian nan” này trong truyền thông. Rất thường, những người nhìn Giáo hội từ bên ngoài vẫn bị bối rối trước những căng thẳng khác nhau bên trong Giáo hội. Nhưng những ai hiểu được cách thức hoạt động của Chúa Thánh Thần thì đều nhận thức rõ rằng Chúa Thánh Thần rất thích tạo ra sự hiệp thông giữa những đa dạng, và sự hòa hợp từ những hỗn độn. Hiệp thông không bao giờ là đồng nhất, mà là khả năng kết hợp các thực tại rất khác nhau. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần có khả năng giao tiếp ngay cả với khó khăn này mà không cần giả vờ để giải quyết hoặc che giấu nó. Sự bất đồng ý kiếnkhông nhất thiết là một thái độ rạn nứt, nhưng nó có thể là một trong những thành tố của sự hiệp thông. Truyền thông cũng phải tạo điều kiện cho sự đa dạng về quan điểm, đồng thời luôn cố gắng duy trì sự hiệp nhất và sự thật, cũng như chống lại sự vu khống, bạo lực bằng lời nói, chủ nghĩa cá nhân, và chủ nghĩa chính thống cực đoan, nấp dưới chiêu bài trung thành với sự thật, nhưng lại chỉ gieo rắc chia rẽ và bất hòa. Nếu nhượng bộ những suy đồi này, thì truyền thông, thay vì làm nhiều điều tốt đẹp, rốt cuộc, lại gây ra nhiều nguy hại.
Anh chị em thân mến, công việc của Bộ Truyền thông không chỉ đơn thuần là kỹ thuật chuyên môn. Ơn gọi của anh chị em, như chúng ta đã thấy, chạm vào chính cách thức hiện diện của Giáo hội.
Xin cảm ơn anh chị em về những gì anh chị em thực hiện. Tôi khuyến khích anh chị em hãy tiến về phía trước với cách thế kiên quyết và ngôn sứ. Phục vụ Giáo hội có nghĩa là xứng đáng với sự tin cậy và cũng can đảm mạo hiểm trên những lộ trình mới. Theo nghĩa này, hãy luôn luôn đáng tin cậy và can đảm.
Tôi ưu ái chúc lành cho anh chị em. Xin anh chị em cũng đừng quên cầu nguyện cho tôi.
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: press.vatican.va (12. 11. 2022)
2022
Tuần lễ bảo vệ tự do tôn giáo
Tuần lễ bảo vệ tự do tôn giáo
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ sẽ tổ chức một chiến dịch, từ ngày 16 đến 23/11/2022, thu hút sự chú ý đến tự do tôn giáo và các Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Các giờ cầu nguyện và trình bày chứng từ sẽ được tổ chức trên khắp năm châu.
Với tiêu đề #RedWeek (#Tuần lễ Đỏ), chiến dịch này sẽ diễn ra trên tất cả các lục địa. Như những năm trước ở một số quốc gia, các nhà thờ và tòa nhà mang tính biểu tượng sẽ được chiếu ánh sáng màu đỏ.
#Redweek (#Tuần lễ Đỏ)
#Redweek sẽ bắt đầu vào ngày 16/11/2022, tại London, với buổi trình bày chính thức trước quốc hội Anh bản báo cáo “Bị bách hại và bị lãng quên? – một báo cáo về những Kitô hữu bị bách hại vì đức tin của họ từ năm 2020-2022”.
Chiến dịch nâng cao nhận thức này sẽ được triển khai ở nhiều quốc gia và sẽ được đánh dấu bằng các giờ cầu nguyện, suy tư và các hội nghị. Ví dụ, ở châu Mỹ Latinh, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ ở Colombia đã mời Sơ Gloria Narvaez, một nữ tu bị những kẻ khủng bố Hồi giáo giam giữ ở Sahel trong 5 năm, chia sẻ kinh nghiệm của sơ ở Bogota và Medellin.
Tại Pháp, chuông sẽ vang lên tại 100 nhà thờ trên khắp đất nước và một hội nghị bàn tròn sẽ được tổ chức ở Paris, sau đó là một buổi cầu nguyện ở nhà thờ Thánh Tâm Montmartre vào ngày 23/11, với chứng từ của Đức Tổng Giám mục Ndagoso của Kaduna, Nigeria. Tại Đức, các nhân vật đến từ Iraq, Nigeria và Pakistan được mời để trình bày chứng từ tại các thánh đường Regensburg, Mainz hoặc Augsburg.
Tuần lễ bảo vệ tự do tôn giáo ra đời vào năm 2015 tại Brazil khi chi nhánh Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ ở nước này đã chiếu ánh sáng đỏ tượng Chúa Cứu Thế ở Rio de Janeiro để thu hút sự chú ý về cuộc bách hại các Kitô hữu ở Iraq. Kể từ đó, một thứ Tư trong tháng 11 được dành cho tự do tôn giáo và các sáng kiến đã được phát triển ở nhiều quốc gia, bắt đầu bằng việc chiếu sáng một số tòa nhà.
Hồng Thủy