2023
Những câu chuyện của ba nữ tu dòng Clarét truyền giáo tại miền Amazon ở Bolivia
Những câu chuyện của ba nữ tu dòng Clarét truyền giáo tại miền Amazon ở Bolivia
Trong cam kết loan báo Tin Mừng cho những người dễ bị tổn thương nhất, ba nhà truyền giáo dòng Clarét đã cống hiến cuộc đời mình để phục vụ các cộng đồng Kitô hữu tại Giáo phận Đại diện Tông tòa Pando của Bolivia.
Chúng tôi là các Tu sĩ dòng Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, các nhà truyền giáo dòng Clarist, hiện ở Guayaramerín, Hạt Đại diện Tông tòa của Pando, thuộc miền Amazon của Bolivia. Nhà của chúng tôi cách sông Mamoré hai dãy nhà, con sông ngăn cách chúng tôi với Guajara-Mirim, một thành phố của Brazil ở bang Rondônia. Cả tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha đều được sử dụng trôi chảy ở khu vực biên giới và thương mại này. Và chúng tôi, Josiane (người Brazil), Judith và Lucía (người Argentina), cũng thông thạo cả hai ngôn ngữ này.
Chúng tôi đến đây vào ngày 12 tháng 3 năm 2020. Chúng tôi không quen biết ai, và đó là cách chúng tôi đối mặt với đại dịch virus corona. Chúng tôi thậm chí còn không biết bệnh viện ở đâu. Nhưng Chúa Quan phòng đã giúp chúng tôi rất nhiều và giờ đây chúng tôi cảm thấy vô cùng biết ơn Chúa về “rất nhiều điều tốt lành chúng tôi đã nhận được”.
Chúng tôi thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, và các hoạt động tông đồ của chúng tôi bao gồm mục vụ giáo xứ, mục vụ nông thôn, mục vụ truyền giáo trẻ em và thanh thiếu niên, mục vụ ơn gọi giới trẻ, mục vụ gia đình, mục vụ giáo dục, cũng như các khía cạnh của công lý, hòa bình và sự toàn diện của thụ tạo. Trong mỗi lĩnh vực này, chúng tôi tìm cách đồng hành và bảo vệ sự mong manh của những anh chị em dễ bị tổn thương nhất của chúng tôi ở các môi trường thành thị và nông thôn: những người cơ cực sống trên đường phố, những người già bị bỏ rơi, thanh niên, thiếu niên và trẻ em. Chìa khóa cho công việc của chúng tôi là đào tạo các giá trị Tin Mừng thông qua sự gần gũi huynh đệ.
“Những người giữ xe” ở Guayaramerín
Ở Guayaramerín, ánh nắng và hơi nóng của mặt trời rất gay gắt; đó là lý do tại sao mọi người di chuyển bằng xe máy đủ kích cỡ và màu sắc. Ngay cả trẻ em cũng lái xe máy! Người ta đỗ xe trên vỉa hè, và đó là nơi những “người giữ xe máy” xuất hiện. Họ là những người lớn và trẻ em nghèo dùng những miếng bìa cứng lấy từ chợ trung tâm để che cho xe máy của mọi người, chống nắng và giữ cho yên xe không bị quá nóng. Để trả công cho công việc đơn giản này, những người giữ xe yêu cầu một “fichita”, tức là một khoản tiền bồi dưỡng nho nhỏ.
Vào những dịp khác, những người này khéo léo sử dụng chính những miếng bìa cứng đó để làm quạt cho những du khách dừng chân dọc đường để ăn trưa. Đây là một cách khác để họ kiếm được “fichita”, và họ nhận được số tiền thù lao này nhờ sự dễ thương của họ. Nhu cầu đã khiến họ có được sự khiêm tốn sáng tạo. Ai có thể không nhận ra phẩm giá con người và Chúa Giêsu ẩn mình trong những con người với quần áo rách rưới đó?
Một cộng đồng nơi có thể cảm nhận được ân sủng
Một trong những khu vực chúng tôi thường xuyên ghé thăm là cộng đồng nông thôn San José, nơi niềm tin vững chắc của người dân đang lay động. Người lớn tuổi nhất trong số họ là một cụ già ngồi trong nhà nguyện một mình để cầu nguyện; cụ cầu nguyện rất to vì cụ bị điếc. Cụ dành thời gian dài tìm kiếm Chúa trong cô tịch. Đó có lẽ là cách cụ đạt được sự bình an và trí tuệ mà cụ truyền cho cộng đồng, bởi vì, mặc dù cụ không thể nghe, nhưng mọi người lắng nghe cụ một cách vui vẻ. Người đàn ông này thường đưa ra quyết định cùng với một linh hoạt viên lớn tuổi khác. Cả hai đều quảng đại và liên đới, đồng thời dạy mọi người biết chia sẻ và cho đi từ cảnh nghèo khó của họ.
Cộng đồng tuyệt vời này phản ánh ý thức mạnh mẽ về việc thuộc về Giáo hội Công giáo. Mọi người gặp nhau mỗi Chúa Nhật để chia sẻ Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Điểm đặc trưng của họ là lòng yêu thích cầu nguyện; rõ ràng là họ thích gặp gỡ Chúa. Trong chuyến thăm cuối cùng của chúng tôi ở đó, trong giờ Chầu Thánh Thể, chúng tôi đã ngưỡng mộ chứng kiến lòng sùng kính và nhiệt thành mà họ tuyên xưng. Theo cách nào đó, chúng ta có thể cảm nhận được ân sủng của Thiên Chúa, hiện diện và hoạt động. Đối với chúng tôi đó là một phước lành khi được chia sẻ với họ.
Tính hiệp hành và việc chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta
Giờ đây, chúng tôi đã trở thành một phần của miền Amazon. Với sự nhiệt tình và dấn thân, chúng tôi đã đón nhận những thách đố mà Đức Thánh Cha đã đặt ra cho chúng ta về việc chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta. Do đó, chúng tôi đã thành lập các cộng đồng của mình với nhận thức rằng mọi thứ trên trái đất của chúng ta đều được kết nối với nhau và do đó, mỗi hành động và sự liên đới của chúng ta đều có tác động đến môi trường xung quanh. Mỗi cử chỉ nhỏ được thực hiện với tình yêu thương đều có thể mang lại nhiều kết quả.
Đối với Thượng Hội đồng Giám mục mà chúng ta đang tiến hành ở tầm mức Giáo hội Hoàn vũ, chúng tôi đã tham gia rất nhiệt tình vào giai đoạn lắng nghe, thông qua sự đồng hành của chúng tôi tại các giáo xứ. Tập trung vào mục tiêu của Giáo hội là tạo ra “cuộc gặp gỡ với mọi người”, chúng tôi đã kiên nhẫn đi tới 500 km mỗi lần, qua địa hình gồ ghề và khắc nghiệt, với hy vọng các cộng đồng như El Sena, Porvenir, Villa Bush, Puerto Rico và Cobija cũng tham gia vào sự phân định này. Mỗi cộng đồng trình bày một thực tại độc đáo và cống hiến sự phong phú về văn hóa của riêng mình, những đặc điểm mà họ đã tập hợp lại với nhau một cách thân ái và huynh đệ trong sự hòa hợp với Giáo hội.
Trong gần ba năm phục vụ ở Guayaramerín, với tư cách là những nhà truyền giáo dòng Clarét, chúng tôi đã tích lũy được vô số kinh nghiệm đã được chia sẻ với mọi người và cộng đồng. Đó là những câu chuyện hàng ngày vẫn còn khắc sâu trong trái tim của chúng tôi, trái tim của những người đã khám phá ra rằng việc nghe được tiếng gọi của Chúa là điều tốt nhất có thể xảy ra với chúng ta.
Hồng Thủy
2023
Các cuộc xung đột sẽ không ngăn được chuyến viếng thăm của ĐTC tại Nam Sudan
Các cuộc xung đột sẽ không ngăn được chuyến viếng thăm của ĐTC tại Nam Sudan
Các giám mục Công giáo ở Nam Sudan chào đón chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha như một phúc lành trong một năm khó khăn và tin rằng tình hình căng thẳng xung đột tại quốc gia này không ngăn được chuyến viếng thăm của ngài.
Chuyến viếng thăm Nam Sudan của Đức Thánh Cha, từ ngày 3 đến 5/2/2023, được gọi là cuộc “Hành hương Đại kết vì Hoà bình đến các miền đất và dân tộc Nam Sudan”.
Đồng hành với Đức Thánh Cha trong chuyến thăm Nam Sudan sẽ có Đức Tổng Giám mục Anh giáo Justin Welby của giáo phận Canterbury và mục sư Iain Greenshields, người điều hành Đại hội đồng của Giáo hội Scotland.
Các vị lãnh đạo tôn giáo đã bày tỏ mong muốn đến thăm quốc gia trẻ nhất thế giới, nơi các Kitô hữu chiếm đa số. Nước này giành được độc lập vào năm 2011, nhưng chỉ hai năm sau đó, một tranh chấp chính trị đã gây ra một cuộc xung đột chết người. Vào thời điểm nó kết thúc sau một thỏa thuận hòa bình vào năm 2018, ước tính có khoảng 400.000 người đã thiệt mạng. Trong khi giao tranh quy mô lớn đã kết thúc, các cuộc đụng độ chết người giữa các sắc tộc và các cuộc tấn công của lực lượng dân quân vẫn tiếp diễn.
Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha có ý nghĩa quan trọng
Đức cha Stephen Nyodho Ador Majwok của Malakal, Nam Sudan, cho biết chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha có ý nghĩa đặc biệt đối với ngài và các tín hữu, và ngài bày tỏ sự đau buồn trước những điều kiện tồi tệ của những người dân phải di tản trong các khu vực xảy ra đụng độ.
Trả lời phỏng vấn của OSV News hôm 19/1/2023 Đức cha Majwok nói: “Chuyến thăm này có một ý nghĩa to lớn đối với chúng tôi. (Giáo phận) Malakal bị ảnh hưởng nặng nề nhất và cần hòa bình nhất. Vì vậy, chuyến thăm có một ý nghĩa đặc biệt đối với tôi với tư cách là giám mục.” Nói về những người phải di tản vì xung đột, Đức cha cho biết ngài vừa từ khu vực người dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất trở về. Điều họ cần là hòa bình để có thể quay trở lại.”
Các nhà lãnh đạo Giáo hội ở Nam Sudan nói rằng chuyến thăm của Đức Thánh Cha sẽ khuyến khích hòa bình và hòa giải, đồng thời thể hiện tình liên đới của Giáo hội hoàn vũ với nước này. Nó cũng được cho là sẽ khuyến khích các nhà lãnh đạo chính trị lựa chọn các giải pháp hòa bình. Đức cha nhấn mạnh rằng nguyên việc chuyến tông du mang tính chất đại kết cũng giúp duy trì hòa bình. (Ucanews 21/01/2023)
Hồng Thủy
2023
Các lãnh đạo Giáo hội Công giáo Myanmar đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ vì hòa bình
Các lãnh đạo Giáo hội Công giáo Myanmar đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ vì hòa bình
Các lãnh đạo Giáo hội Công giáo ở Myanmar đã đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ vì hòa bình sau sự gia tăng bạo lực và các cuộc tấn công nhằm vào thường dân ở nước này trong những tuần gần đây.
Các Giám mục Myanmar đã gửi một lá thư kêu gọi đến “người dân Myanmar” và “các bên liên quan thuộc nhà nước và không thuộc nhà nước”. Thư được ký bởi Đức Hồng y Charles Bo của Yangon, Đức Tổng Giám mục Marco Tin Win của Mandalay, và Đức Tổng Giám mục Basilio Athai của Taunggyi.
Các Giám mục Myanmar nói rằng “Là những nhà lãnh đạo của các tôn giáo/tín ngưỡng lớn ở Myanmar, chúng tôi đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ vì hòa bình, thúc giục tất cả chúng ta cần thực hiện cuộc hành hương vì hòa bình.”
Mối đe doạ với sự sống, trường học và nơi thờ phượng
Các ngài nêu lên “những mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự thánh thiêng của sự sống con người, những sinh mạng bị cướp mất, những cuộc đời phải di tản và những mạng sống đang chết đói” trong những tháng gần đây. Các ngài cũng lưu ý rằng những nơi thờ phượng và tu viện, “nơi các cộng đồng tìm kiếm hòa bình và hòa giải” đã bị tấn công. “Với nỗi đau đớn và thống khổ, chúng tôi đặt câu hỏi tại sao những nơi linh thiêng này lại bị tấn công và phá hủy.” “Là một quốc gia, chúng ta cần phải hàn gắn. Sự chữa lành đến từ ý thức sâu sắc về sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta. ”
Tuyên bố của các giám mục tha thiết cầu xin các bên liên quan hãy chặn lại mọi tiếng súng, hãy tiếp cận với tất cả, như là các anh chị em và bắt đầu cuộc hành hương thiêng liêng của hòa bình – thống nhất với tư cách là một quốc gia và một dân tộc.”
Lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 22/1 Đức Thánh Cha đã bày tỏ sự gần gũi của ngài với người dân Myanmar, những người đã phải chịu “những thử thách nghiêm trọng” kể từ khi cuộc đảo chính quân sự bắt đầu vào năm 2021. Đặc biệt ngài đau lòng hướng đến nhà thờ Đức Mẹ Hồn xác lên trời ở làng Chan Thar, một trong những nơi thờ tự lâu đời nhất và quan trọng nhất của đất nước, đã bị phóng hỏa và phá hủy.”
Đức Thánh Cha yêu cầu các tín hữu hiện diện trong buổi đọc kinh Truyền Tin cùng nhau cầu nguyện một “Kinh Kính Mừng” với Đức Mẹ Myanmar để cầu xin cho cuộc xung đột sớm kết thúc và “một thời kỳ mới của sự tha thứ, tình yêu và hòa bình sẽ bắt đầu.” (Licas 23/01/2022)
Hồng Thủy
2023
Cha Flor María Rigoni, tiếng nói của những người di cư và tị nạn
Cha Flor María Rigoni, tiếng nói của những người di cư và tị nạn
Cha Flor Maria Rigoni, linh mục người Ý, thuộc dòng Giovanni Battista Scalabrini, tiếng nói của những người di cư và tị nạn.
Theo gương đấng sáng lập, thánh Giovanni Battista Scalabrini, dành cả cuộc đời phục vụ người di cư và tị nạn, vào năm 1985 cha Flor Maria đến Mexicô, và sau đó đi khắp nơi trên thế giới để giúp đỡ những người di cư. Hiện cha đang chỉ đạo các hoạt động xã hội của Liên đoàn Scalabrini ở Colombia.
Trong 53 năm linh mục, cha Flor Maria đã hiện diện ở châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Trong một cuộc phỏng vấn vị linh mục lớn tuổi chia sẽ về cuộc đời và ơn gọi phục những người di cư và tị nạn.
Cha Flor Maria sinh giữa thời chiến ở biên giới giữa ý và Thuỵ Sĩ. Mẹ cha mang thai và cho cha chào đời rất khó khăn nên sức khoẻ của cha không được tốt. Trong những năm truyền giáo ở châu Phi, cha thường xuyên bị sốt rét dẫn đến hôn mê đến nỗi mọi người tưởng cha đã qua đời, nhưng sau đó cha lại hồi sức và tiếp tục phục vụ. Nói về điều này, cha khẳng định về ơn gọi truyền giáo của mình, và xác tín rằng Chúa gửi cho cha một sự khó nào đó để cha đồng cảm với những người bé nhỏ.
Những ai gặp cha đều nhận xét, cha Flor Maria là một người luôn mỉm cười, biểu hiện của sự khôn ngoan xuất phát từ sự hiểu biết tuyệt vời về thân phận con người và lòng thương xót Chúa. Cha tự nhận mình là người di cư, nhưng tự nguyện, không giống những người di cư khác trong những thập kỷ qua, những người bị “kết án di cư”.
Nói về ơn gọi truyền giáo, cha Flor Maria chia sẻ rằng, cha được đánh động bởi hai bức ảnh do một linh mục tặng: một bức mô tả một linh mục truyền giáo trên lưng ngựa ở Brazil, và bức khác với hình ảnh một nhà truyền giáo đang ở trong hầm mỏ ở Bỉ.
Chuyến đi truyền giáo đầu tiên của cha trên biển với công việc là trợ lý điện trên một con tàu. Cha và đoàn thuỷ thủ đến Nhật Bản và trải qua cuộc chiến Yom Kippur, sau đó do không thể di qua Kênh Suez con thuyền phải đi vòng qua châu Phi. Tổng cộng 8 tháng.
Chuyến vượt biển là một trải nghiệm độc đáo đối với cha Flor Maria. Cha nói: “Các tu sĩ Dòng tên dạy tôi thần học và triết học, và biển đã dạy tôi tất cả linh đạo mà hôm nay tôi có được. Biển là chiếc nôi, trong đó người ta có thể chạm đến sự vô biên của Chúa. Trong biển khơi, nơi mặt đất biến mất khỏi chân trời, người ta thấy trời cao, một bầu trời biết nói. Biển giúp con người liên lạc với toàn thể nhân loại”.
Sau chuyến đi biển đó, cha Flor Maria tiếp tục đi những chuyến khác. Chuyến cuối cùng là chuyến cha rời Ý để đến Thái Bình Dương, rồi cảng Chile.
Cha ở Đức 10 năm, hầu hết thời gian dành cho người di cư đến từ lục địa châu Mỹ. Sau đó, cha đến châu Mỹ và ở lục địa này trong 39 năm. Lúc đầu cha đến Mexico, vùng biên giới với Hoa Kỳ. Cha nói người di cư Mexico dạy cha niềm hy vọng. Chính những hoạt động trợ giúp không mệt mỏi người di cư Mexico mà vào năm 2020 cha đã được Tổng thống Mexico trao Giải thưởng quốc gia về Nhân quyền, và được đưa vào danh sách của 150 người đã để lại dấu ấn quan trọng cho quốc gia.
Hành trình tiếp theo của cha là Colombia. Ở quốc gia này, ngoài trải nghiệm phục người di cư cha Flor Maria còn phải đối diện với nạn buôn người, mà theo cha thực sự là một bi kịch.
Cha cùng với các tu sĩ Scalabrini làm việc cho người di cư dựa theo ba yếu tố chính: đón tiếp, đào tạo và lãnh thổ. Các tu sĩ tiếp nhận tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo và màu da, cung cấp cho họ các khoá học nghể để họ có thể làm việc trong thời gian ngắn, sau đó là cung cấp cho họ các vật liệu cần thiết để họ có thể bắt đầu làm nơi trú ngụ đơn giản. Điều sau cùng là lãnh thổ, một nơi để người di cư có thể ổn định cuộc sống và cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Trên vùng đất định cư này, cha Flor Maria cùng với các anh em trong dòng tiếp tục giúp họ xây dựng những lớp học. Theo cha, đây là một thực tế cần phải tiến hành để hướng đến tương lai.
Về những khó khăn trong các hoạt động hỗ trợ người di cư, cha Flor Maria chia sẻ: “Mệt mỏi, thất vọng có, nhất là khi việc mình làm không được nhìn nhận. Tuy nhiên chúng tôi tiếp tục làm việc cùng với một sự dấn thân. Chúng tôi, những tu sĩ Scalabrini, không phân biệt tôn giáo, giới tính, màu da hay hệ tư tưởng chính trị. Điều quan trọng đối với chúng ta là con người, và chúng tôi thêm Tin Mừng. Tôi sẽ tiếp tục miễn là Chúa ban cho tôi sức mạnh, và bất cứ nơi nào cũng được. Tôi hy vọng tôi không phải là gánh nặng cho bất cứ ai. Và như Thánh Phaolô nói, với tâm hồn là một nhà truyền giáo, tôi không biết nên ở lại với anh chị em hay nói lời tạm biệt và ra đi với Chúa thì tốt hơn”.
Ngọc Yến