2023
Vì sao các linh mục lại ăn cắp?
Hình minh họa: Đồng xu của bà góa
Các trường hợp linh mục phạm tội ăn cắp hoặc biển thủ tiền của Giáo hội thường làm trò cười trên các bài viết. Làm thế nào những người bảo vệ đức tin này lại phản bội điều răn thứ 7 của Chúa?
Tại sao các linh mục ăn cắp? Đây là câu hỏi mà một nghiên cứu rất nghiêm túc của Mỹ đã xem xét. Các kết luận của nghiên cứu này đã mang lại ít nhiều giá trị cho Giáo hội hoàn vũ.
Theo một nghiên cứu gần đây được công bố trong số tháng 1-tháng 6 của Tạp chí Kế toán Pháp lý và Điều tra (Journal of Forensic and Investigative Accounting) và được trang công giáo The Pillar xem xét, thì các linh mục trộm cắp này thường có động lực là thái độ cay chua, ghen tị và mong muốn che đậy những sai lầm đạo đức khác.
Nếu sự tin tưởng vào các linh mục và sự yếu kém của các cơ quan giám sát tạo điều kiện thuận lợi cho hành động này, nhưng chức linh mục không đặc biệt thu hút những kẻ lừa đảo.
Các nhà nghiên cứu Robert Warren và Timothy J. Fogarty đã tổng hợp thông tin về tội phạm tài chính do các linh mục công giáo Mỹ phạm trong sáu thập kỷ qua. Họ đã xem xét các yếu tố môi trường và cá nhân để hiểu làm thế nào các linh mục giáo xứ lại bị cám dỗ về tội phạm tài chính trong chính giáo xứ của họ.
Tam giác lừa đảo
Phân tích của họ tập trung vào trường hợp của hơn một trăm linh mục bị kết tội trộm cắp hoặc gian lận kể từ năm 1963 tại Hoa Kỳ. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tội phạm theo cái mà các nhà nghiên cứu gọi là “tam giác lừa đảo”: áp lực, cơ hội và sự hợp lý hóa.
“Các linh mục không chỉ có khả năng ăn cắp một lần mà còn tiếp tục ăn cắp theo thời gian”
Hơn 90% linh mục đang thi hành chức vụ tại giáo xứ khi họ phạm tội, trung bình họ thu gần 230.000 đô la trong khoảng thời gian trung bình sáu năm.
Các nhà nghiên cứu lưu ý, trong tất cả các trường hợp này, cơ hội ăn cắp tương ứng với điều kiện sinh hoạt trong giáo xứ của họ, không những chỉ ăn cắp một lần nhưng tiếp tục trong nhiều năm.
Bản phân tích ghi lại bốn phương pháp chính: “Lấy tiền trực tiếp thu được hàng tuần hoặc từ quỹ của người nghèo; ép các giáo dân lớn tuổi và dễ bị tổn thương (chủ yếu là các bà góa) đưa tiền cho giáo xứ hoặc cho cá nhân linh mục dưới nhiều lý do khác nhau; chuyển chi phiếu trả cho giáo xứ qua các tài khoản không thuộc giáo xứ; quỹ giáo xứ trả quá mức cho các chi phí cá nhân.
Quá ít phát hiện và ngăn chặn
Các nhà điều tra đưa ra sự yếu kém của các phương tiện phòng ngừa và điều tra trong Giáo hội. Giáo luật trao cho linh mục quản xứ độc quyền kiểm soát tài chính của giáo xứ, ngay cả khi họ buộc phải dùng chúng vì lợi ích cộng đồng. Vì thế họ có quyền đơn phương mở tài khoản ngân hàng, phân phối các quỹ và bán tài sản.
“Việc phát hiện là do tình cờ. Chỉ 29,5% trường hợp gian lận hoặc trộm cắp được phát hiện khi có kiểm tra tài chính”
Báo cáo cho biết, các hội đồng giáo xứ, gồm các tình nguyện viên, có xu hướng chỉ đảm bảo sự kiểm soát chính thức, phê duyệt một cách có hệ thống các hành vi của linh mục, người được xem là ở ngoài mọi nghi ngờ. Về phía các nhà lãnh đạo giáo phận, họ mong chờ các giáo xứ tự trị. Vì thế các giáo xứ không bị kiểm tra thường xuyên.
Theo báo cáo, việc phát hiện là do tình cờ. Chỉ 29,5% trường hợp gian lận hoặc trộm cắp được phát hiện khi có kiểm tra tài chính giáo xứ hoặc trong những lần kiểm tra thường kỳ. Gần một nửa số trường hợp được đưa ra ánh sáng trong nghiên cứu là do có người tố cáo, do có các vụ thâm nhập hoặc do điều tra bên ngoài.
Dữ liệu cho thấy chức tư tế không lôi cuốn những kẻ cố ý lừa đảo hoặc những người muốn trộm cắp. Các trường hợp được kiểm tra cho thấy các vụ này thường xảy ra với những người đã có hơn hai thập kỷ phục vụ trong sứ vụ và ở tuổi trung bình là 52 tuổi.
Lần ăn cắp đầu tiên
Thường thường trong dân chúng, yếu tố có thể dẫn đến phạm tội ăn cắp là khi họ có nhu cầu vật chất bất thình lình, như mất việc làm, khó đáp ứng các nhu cầu cơ bản của gia đình. Nhưng những yếu tố này không liên quan, không là những yếu tố đầu tiên nơi các linh mục công giáo.
“Trong hơn một nửa số trường hợp, vấn đề là họ muốn có một mức sống cao hơn, muốn có vẻ bề ngoài thành công về vật chất”
Vì thế động lực phải được tìm kiếm ở nơi khác. Nhu cầu về nguồn tài chính để bù đắp cho những khiếm khuyết đạo đức khác, nói chung là có bản chất tình dục được thấy trong gần 12% trường hợp. Tiền ăn cắp dùng để hỗ trợ cho “các mối quan hệ bất hợp pháp”. Nợ cờ bạc xảy ra trong 8,4% trường hợp.
Nhưng ngoài những nhu cầu cấp thiết, trong hơn một nửa trường hợp, đó là để có một mức sống cao hơn và muốn có vẻ bề ngoài thành công về vật chất.
Cay chua là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến trộm cắp
Theo bản báo cáo, mặc dù ở Hoa Kỳ, các linh mục giáo phận được hưởng nhiều lợi ích, bao gồm ăn ở, bảo hiểm y tế, trợ cấp xe hơi và chế độ hưu trí, nhưng mức lương của họ gần như không cao hơn mức lương tối thiểu cho một công việc khá đòi hỏi và mất nhiều thời gian học hành. Vì thế đôi khi họ có cảm thấy bất công và ghen tị. Họ nghĩ họ chỉ lấy những gì thuộc về họ.
Nhiều người trong số các linh mục này đã dùng tiền bất chính để mua căn nhà thứ hai hoặc thứ ba. Trong một số ít trường hợp, họ muốn an toàn khi về hưu.
“Một vài linh mục dùng tiền bất chính để giúp người nhà hay các tổ chức từ thiện”
Cuộc điều tra cũng lưu ý, trong chừng mực các cha xứ thường cho mình là ‘doanh nhân độc lập’, họ có xu hướng chống lại quyền lực cấp bậc theo quan điểm cá nhân của họ về những gì mang lại lợi ích tốt nhất cho ‘khách hàng’.
Đôi khi họ làm từ thiện
Trong một số ít trường hợp, các linh mục đã không dùng tiền ăn cắp và biển thủ để làm lợi cho mình. Các báo cáo cho biết có bảy linh mục đã dùng tiền bất chính để giúp gia đình hoặc giúp các tổ chức từ thiện ở nước ngoài.
Tội ác và hình phạt
Các tác giả nhấn mạnh, ngay cả khi họ bị bắt và bị kết án, các bản án tù lâu năm là ngoại lệ chứ không phải theo quy tắc. Trong nhiều trường hợp, các linh mục chỉ phải chịu hình thức kỷ luật của chính quyền giáo hội. Gần một phần ba số người bị kết án hình sự sau đó đã có thể tiếp tục sứ vụ. Bản nghiên cứu lưu ý: “Những cơ hội để ăn cắp có thể được hỗ trợ do họ biết khi bị phát hiện sẽ không bị trừng phạt nghiêm khắc và sẽ không có hậu quả nghiêm trọng nào về mặt uy tín”.
Theo các kết luận của báo cáo, các giáo sĩ phạm tội về mặt tài chính có điểm chung là họ bị cô lập, bị mất lòng tin với sứ vụ và có mối quan hệ xáo trộn với các cấu trúc của giáo hội. Cùng với nhu cầu cải thiện cơ chế kiểm soát tài chính và trách nhiệm giải trình, nghiên cứu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đào tạo thường huấn cá nhân và thiêng liêng cho các linh mục trong suốt sứ vụ của họ.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Twitter bắt đầu rút “huy hiệu xanh” khỏi các tài khoản của các nhân vật, kể cả của Đức Phanxicô
Huy hiệu xác minh tài khoản Twitter của Elon Musk được chụp vào ngày 4 tháng 11 năm 2022
Ngày thứ năm 20 tháng 4, công ty Twitter bắt đầu xóa “huy hiệu màu xanh” của một số nhân vật cấp cao, gồm cả Đức Phanxicô và nghệ sĩ Beyonce. Nhà văn Stephen King và cầu thủ bóng rổ LeBron James vẫn còn “giải băng xanh chứng nhận” của họ. Huy hiệu nổi tiếng này là biểu tượng chứng nhận đó là tài khoản chính thức.
Kể từ khi tỷ phú Elon Musk mua công ty, mạng xã hội Twitter đã thay đổi quy trình gắn “huy hiệu xanh” cho đến nay được thêm vào sau khi xác minh tài khoản của các nhân vật công chúng, chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp hoặc các nhà báo.
Để có thêm doanh thu mới ngoài quảng cáo, trong thông báo của ông Elon Musk tháng 11 năm 2022, công ty Twitter buộc những ai muốn giữ “giải băng xanh” phải trả 8 đô la mỗi tháng.
Twitter cũng đề nghị cung cấp các huy hiệu có màu khác, như màu vàng và xám và bắt đầu hiển thị các nhãn như “phương tiện truyền thông Quốc gia” và “tự động hóa” trên các tài khoản được xem là có liên quan đến chính phủ hoặc do rô-bốt quản lý.
Ông Stephen King, người đã chỉ trích việc ông Elon Musk đứng đầu công ty Twitter, tuyên bố qua mạng xã hội ông không đăng ký huy hiệu màu xanh. Ông viết: “Tài khoản Twitter của tôi nói rằng tôi đã đăng ký Twitter Blue. Tôi đã không đăng ký. Tài khoản Twitter của tôi nói rằng tôi đã đưa ra số điện thoại của mình. Tôi đã không đưa ra.”
Ông Elon Musk phản ứng trước câu tweet của Stephen Kinh ngạc, ông trả lời “không sao”, ông cho biết ông dùng tiền cá nhân để trả tiền cho huy hiệu màu xanh của “một số nhân vật”.
Trong một câu tweet ông cho biết chỉ trả tiền cho William Shatner, James LeBron và Stephen King. Tháng trước, nam diễn viên người Canada William Shatner đã phàn nàn ông đã phải trả tiền để giữ huy hiệu màu xanh.
Theo The Verge, James LeBron đã không trả tiền để giữ tài khoản được xác minh, ông nói ông sẽ không trả tiền để giữ huy hiệu màu xanh.
Donald Trump, Bill Gates và Kim Kardashian là một trong số những nhân vật có huy hiệu màu xanh đã biến mất khỏi Twitter ngày thứ năm.
Một số nhóm báo chí, như nhóm truyền thông Radio-Canada, đã đình chỉ hoặc ngừng xuất bản các tweet để chống lại cái gọi là nhãn “truyền thông Quốc gia”.
Các tài khoản Twitter của giáo hoàng không còn có dấu hiệu màu xanh, dấu hiệu chứng nhận là tài khoản chính thức.
Nhật báo Ý Repubblica bình luận: “Chỉ có một người như Elon Musk mới nghĩ mình là Chúa tể để cho mình quyền loại Đức Phanxicô như thế này.”
Tài khoản Twitter của Đức Phanxicô phát đi các thông điệp bằng 9 ngôn ngữ và có hơn 53 triệu người theo dõi không còn dấu hiệu màu xanh, vì không trả tiền hàng tháng. Màu xám cho các chính phủ đã được duy trì.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Nữ tu Helen Alford: “Giáo hội có thể mở mang tinh thần cho trí tuệ nhân tạo A.I.”
Ngày 1 tháng 4 -2023, nữ tu Dòng Đa Minh Helen Alford, 58 tuổi được bổ nhiệm làm chủ tịch Giáo hoàng Học viện về Khoa học Xã hội | ©️ Giáo hoàng Học viện Thánh Tôma Aquinô – ANGELICUM
Ngày 1 tháng 4, nữ tu Helen Alford được bổ nhiệm làm chủ tịch Giáo hoàng Học viện về Khoa học Xã hội, một cơ quan được Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994 để làm phong phú thêm suy tư của Tòa Thánh về các vấn đề liên quan đến học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, pháp luật, khoa học chính trị và xã hội học.
Tiến sĩ Kỹ thuật của Đại học Cambridge, nữ tu Helen Alford là kinh tế gia, chuyên về đạo đức kinh doanh và đã từng giảng dạy tại Hoa Kỳ. Kể từ năm 2021, nữ tu là trưởng khoa Khoa học Xã hội tại Giáo hoàng Học viện Thánh Tôma Aquinô ở Rôma, thường được gọi là Angelicum. Sơ đã ở chức vụ này từ năm 2001 đến năm 2013.
Với tư cách là người đứng đầu Giáo hoàng Học viện về Khoa học Xã hội, nữ tu Helen Alford đặc biệt khuyến khích suy tư về những biến động lớn của công nghệ mà thế giới đang trải qua. Và sẽ phải chứng tỏ Giáo hội có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc cách mạng kỹ thuật số đang tiến hành. Phỏng vấn.
Trong một thế giới thế tục hóa, nơi học thuyết xã hội công giáo có lẽ không còn được xem trọng như trước, làm thế nào để Giáo hoàng Học viện về Khoa học Xã hội, và nói rộng ra, Giáo hội có thể có tiếng nói?
Nữ tu Helen Alford: Nhiều người cảm thấy Giáo hội không còn đóng một vai trò quan trọng. Nhưng tại Rôma, tôi nghĩ chúng ta có một quan điểm khác. Các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc hoặc Liên minh Châu Âu, khá cởi mở và điều này không có gì mới. Khi Đức Gioan Phaolô II công bố thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội, Sollicitudo Rei Socialis năm 1987, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức hội thảo ở New York về thông điệp này. Ngay sau đó, năm 1990, báo cáo phát triển con người đầu tiên được công bố và tôi nghĩ thông điệp này đã có một số tác động. Các quốc gia bắt đầu tự đánh giá họ trên cơ sở Chỉ số Phát triển Con người, thay vì chỉ trên Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Khí hậu nóng lên toàn cầu là mối quan tâm ngày càng tăng đối với các Giáo hội | ©
Khi thông điệp Laudato si’ được công bố năm 2015, ngay sau đó hai thỏa thuận lớn đã được ký kết: Hiệp định Khí hậu Paris và các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hiệp Quốc. Mọi người công nhận thông điệp của Đức Phanxicô đã đóng một vai trò quan trọng trong các thỏa thuận này.
Cuối cùng, tôi tin Giáo hội quan trọng và có ảnh hưởng theo một số cách và trong một số lĩnh vực, nhưng không phải ở mọi nơi. Đó là tình huống bình thường của Giáo hội: chúng ta đưa ra lời kêu gọi, một số người quan tâm, một số người không.
Theo sơ, ngày nay Giáo hoàng Học viện về Khoa học Xã hội giải quyết những chủ đề quan trọng nào nhất?
Nguồn chủ đề số một của chúng tôi là Đức Phanxicô. Chúng tôi phải hỗ trợ ngài và các chủ đề ngài muốn làm việc. Tôi chưa có dịp nói chuyện với ngài, nhưng chúng tôi biết qua các bài viết và sứ vụ của ngài, nói chung những gì ngài quan tâm.
Đó là hai khủng hoảng: xã hội và môi trường, vốn là tâm điểm của thông điệp Laudato si’. Một khía cạnh khác là chiều hướng đưa cộng đồng chúng ta trở lại trung tâm của suy nghĩ và hành động, ý tưởng chủ đạo của thông điệp Tất cả anh em Fratelli Tutti.
“Chúng ta không chỉ là những cá nhân đơn thuần đạt được mục tiêu của riêng mình, mà về cơ bản chúng ta đang cùng nhau xây dựng xã hội của mình”
Tôi thích nghĩ, chúng ta đang cố gắng làm để lợi ích chung vượt thắng, chống lại khuynh hướng dùng một lần rồi bỏ. Chúng ta biết các hệ thống xã hội có thể thay đổi qua hành động của chúng ta và chúng ta có thể cùng nhau làm việc để thế giới có công lý hơn. Để làm được điều này, chúng ta cũng phải rao giảng Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trên thế giới. Đó là cách tiếp tục sự nhập thể, một chia sẻ đức tin của chúng ta cách thực tế.
Trí tuệ nhân tạo là chủ đề bùng nổ trong các tin tức gần đây. Hình ảnh Đức Phanxicô trong chiếc áo khoác thời trang đã lan đi khắp thế giới. Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm – và là một điều tốt đẹp. Giáo hội phân tích sự phát triển của công nghệ này như thế nào?
Phát triển công nghệ nằm trong tầm tay chúng ta. Công nghệ không giống như khoa học, vốn là thứ chúng ta khám phá, vì nó liên quan đến các nguyên tắc của thứ trật tự nhiên. Công nghệ cũng giống như văn hóa, nó là thứ chúng ta tạo ra.
Vì thế có hai quỹ đạo phát triển chính về mặt kỹ thuật. Kỹ thuật đầu tiên chúng ta biết ngày nay như kỹ thuật thống trị và một số người cho đó là kỹ thuật trọng tâm hoặc đơn kỹ thuật. Nó đặt máy móc làm trung tâm và xã hội phải thích ứng với nó. Chúng ta thấy điều này với trí tuệ nhân tạo. Một số nhóm người hưởng lợi từ kiểu phát triển này và phần còn lại của xã hội buộc phải thích nghi.
Dù bề ngoài có như thế nào, trí tuệ nhân tạo hoàn toàn không hoạt động giống bộ não con người |
Tuy nhiên, có một hình thức phát triển công nghệ khác được cho là lấy con người hoặc lấy cuộc sống làm trọng tâm. Đó là việc làm cho một lối sống cụ thể trở nên hiệu quả, phong phú và đầy đủ hơn, không cho phép nhóm này thống trị nhóm khác. Ví dụ, khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp, hai loại máy kéo sợi khác nhau đã được phát triển. Chiếc đầu tiên được một thợ kéo sợi có kinh nghiệm phát minh trong những năm 1770, chiếc thứ hai được các kỹ sư sáng chế trong những năm 1830, do các chủ nhân máy dệt, những nhà tư bản lớn ủy thác làm. Ban đầu, cả hai máy đều có năng suất như nhau, nhưng có sự khác biệt rất lớn về cách chúng ảnh hưởng đến người dùng. Cuối cùng, chiếc thứ hai có thể được bất cứ ai có được chỉ dẫn đều có thể dùng.
Với trí tuệ nhân tạo, chúng ta phải đối diện với một vấn đề được tạo ra, vì loại phát triển đầu tiên lấy công nghệ làm ưu tiên chứ không đặt con người vào trọng tâm. Tuy nhiên, lựa chọn thứ hai sẽ hoàn toàn có thể thực hiện được ở cấp độ cấu trúc. Vấn đề là không có khoản đầu tư nào cho lựa chọn thứ hai này. Phát triển công nghệ có thể là một điều tốt. Chúng ta có thể làm tốt hơn nữa với trí tuệ nhân tạo và các công nghệ khác mà chúng ta có để chúng có thể hỗ trợ cuộc sống và con người một cách tốt nhất có thể.
Một bức thư đã được công bố gần đây có chữ ký của ông Elon Musk và các nhân vật khác, kêu gọi tạm dừng nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo trong sáu tháng. Làm thế nào Giáo hội có thể trả lời cho những mối quan tâm về chủ đề này?
Nhiều cuộc đối thoại đang tiến hành. Chẳng hạn năm 2020, Giáo hoàng Học viện về Sự sống đã công bố một tài liệu có tựa đề Lời kêu gọi của Rôma về đạo đức A.I., đã được các công ty lớn như Microsoft ký kết. Năm nay, Học viện cũng kêu gọi các tôn giáo khác ký kết để cố gắng tạo cho nó một chiều kích liên tôn.
Ở Vatican, các thực thể khác đã đưa ra các phản ánh, như bộ Văn hóa và Giáo dục có một bộ phận dành riêng cho văn hóa kỹ thuật số. Bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện cũng có những nhân vật quan tâm đến các chủ đề này. Có một nhóm chuyển đổi bên trong Tòa thánh làm việc trên các khía cạnh khác nhau của vấn đề trí tuệ nhân tạo.
“Những người đứng đầu trong các tổ chức kỹ thuật này đang nhận ra họ cần một tầm nhìn khác.”
Một trong những điều thiết yếu mà Giáo hội có thể làm là mang đến cho mọi người một cái nhìn khác. Nếu mọi người có thể nhìn thế giới khác đi, họ có thể thay đổi các dữ kiện để thiết kế công nghệ theo một cách khác. Giáo hội có thể mở mang đầu óc con người.
Theo một cách nào đó, đó chính là điều mà Tin Mừng luôn làm: làm cho mọi người cảm thấy có một thế giới khác. Cuối cùng, chúng ta biết sẽ có một thế giới khác, nhưng chúng tôi muốn cho thấy, ngay cả trong thế giới hiện tại của chúng ta, mọi thứ vẫn có thể tốt hơn nhờ sự hiện diện của ân sủng, lời huấn dạy của Chúa Kitô, cộng đồng đức tin và nhiều thứ khác.
Những người điều hành các công ty kỹ thuật số có quan tâm đến các công việc này không?
Tôi nghĩ những người cấp cao trong các tổ chức công nghệ này đánh giá cao những gì chúng tôi làm. Họ nhận ra họ cần một tầm nhìn khác. Họ không nhất thiết phải biết cách áp dụng nó vào thực tế, nhưng họ có thể bắt đầu nghĩ về nó.
Cuối cùng, chính các kỹ sư phải đưa tầm nhìn này vào thực tế. Nhưng nếu họ không có cảm hứng để cố gắng làm điều này, họ sẽ không làm, và đó là lãnh vực chúng ta có thể tham gia. Nếu ông Mark Zuckerberg và đồng nghiệp của ông yêu cầu các kỹ sư của họ tạo một giao diện làm lợi cho công ty của họ và đồng thời cải thiện phẩm chất con người, họ có thể làm. Tuy nhiên, đây không phải là mục tiêu được giao cho các nhân viên, và nhiều người trong số họ đang rời bỏ các công ty này vì họ không thích những gì họ đang làm và những gì họ thấy.
“Bất cứ nơi nào cần thu thập nhiều thông tin để đạt được kết quả tốt nhất có thể, hệ thống A.I. đều rất tuyệt vời.”
Những người khác sống căng thẳng trong lòng, họ tiếp tục làm trong lãnh vực này, dù họ thấy những tác động tiêu cực, chẳng hạn mạng xã hội không tốt cho con cái họ. Hệ thống kinh tế của chúng ta tạo động lực mạnh mẽ cho nhiều người tiếp tục làm trong thế giới công nghệ. Để đối diện với nó, chúng ta cần ân sủng, lời cầu nguyện và sự giúp đỡ thiêng liêng, và chúng tôi đã nói điều này ở Học viện Giáo hoàng.
Hình minh họa / CC_BY-2.0
Học viện dành nhiều chú ý để phát triển ý tưởng về một nền kinh tế huynh đệ và nhấn mạnh đến hạnh phúc của con người. Làm thế nào trí tuệ nhân tạo có thể phù hợp với tầm nhìn kinh tế này?
Chúng ta có thể làm cho trí tuệ nhân tạo hoạt động để hỗ trợ các kỹ năng của con người, giống như máy kéo sợi đã làm vào cuối những năm 1700. Một số dạng A.I. đã làm được điều này, chẳng hạn như các hệ thống giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh hiệu quả hơn.
Bất cứ nơi nào cần thu thập nhiều thông tin để có được kết quả tốt nhất có thể, hệ thống A.I. đều tuyệt vời vì chúng có thể làm điều đó rẻ hơn và nhanh hơn. Cùng như máy hơi nước có thể làm những việc mà sức người, sức ngựa không làm được, A.I. có thể giúp chúng ta cải thiện hiệu năng của quy mô và khả năng của chúng ta.
Nhiều người lo sợ các công cụ trí tuệ nhân tạo tiên tiến sẽ thay thế một số loại công việc – chẳng hạn các chatbot này đã có thể sao chép các bài báo hoặc hợp đồng rất chính xác. Sơ nghĩ gì về tác động của việc gia tăng trí tuệ nhân tạo với việc làm, văn hóa làm việc và đạo đức?
Tôi nghĩ mỗi khi một công nghệ lớn xuất hiện, nó sẽ phá hủy một số việc làm nhưng lại tạo ra các việc làm khác. Đầu tiên là hơi nước, sau đó là điện, rồi công nghệ thông tin. Ngày nay, trí tuệ nhân tạo có lẽ là một loại công nghệ có ảnh hưởng khác sẽ có tác động rất rộng rãi. Mọi người luôn lo lắng khi công nghệ mới xuất hiện.
“Các nghiên cứu đã đưa ra những dự đoán khá bi quan về những công việc sẽ bị ảnh hưởng bởi A.I.”
Đúng là hiện nay, các nghiên cứu đã đưa ra những dự đoán khá bi quan về những công việc sẽ bị ảnh hưởng bởi A.I. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta có thể định hướng lại sự phát triển này để nó hỗ trợ phát triển con người và tập trung vào việc nâng cao năng suất các kỹ năng con người hơn là loại bỏ các kỹ năng khỏi công việc.
Điểm mấu chốt là chúng ta có lựa chọn, chúng ta không bị buộc phải phát triển công nghệ theo một hướng nào đó chỉ mang lợi ích đến cho một nhóm người. Chúng ta phải có tự tin cần thiết để đặt những câu hỏi đúng. Tiêu chí phải là phát triển công nghệ để hỗ trợ sự sống và sự tốt lành của tạo vật nói chung. Nếu tiêu chí là kiếm càng nhiều tiền càng tốt, bất kể người khác phải trả giá như thế nào, thì chắc chắn nó sẽ gây thiệt hại, như đã từng xảy ra trong quá khứ. Đây là tư duy kỹ trị mà Đức Phanxicô nói đến.
Marta An Nguyễn dịch
2023
Số phận xáo trộn của sáu người con của một linh mục công giáo Thụy Sĩ
Lisbeth, 72 tuổi, Christina 71, Toni 70, Monika 64, Daniela 58 và Adrian 56 tuổi chỉ mới biết mình có cùng một người cha chung: linh mục Anton Ebnöther từ 12 năm nay. Bộ phim “Cha của chúng tôi” của Miklós Gimes hiện đang được chiếu trên màn ảnh Thụy Sĩ nói về câu chuyện của họ. Một im lặng lâu ngày đã kết thúc. Trang Công giáo Thụy Sĩ gặp các người con này.
Sáu người con của linh mục Anton Ebnöther bên cạnh giám mục Bonnemain, giáo phận Coire © Flimbringer
Bà Lisbeth Binder, 72 tuổi, người con gái đầu của cha phó xứ Anton Ebnöther. Linh mục đã cưỡng hiếp mẹ của bà. Mẹ của bà Lisbeth là người nấu bếp cho giáo xứ Bülach, Thụy Sĩ, từ rất nhỏ bà Lisbeth đã nghi ngờ có một cái gì đó không ổn. Nhưng phải đến năm 65 tuổi bà mới tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra.
“Chính mẹ tôi lần đầu tiên nói trước máy quay của nhà làm phim Miklos Gomes.” Trong phim “Cha của chúng tôi”, người xem thấy người phụ nữ lớn tuổi (đã qua đời năm 2016) đã phải đấu tranh với chính mình. Bà kể về cách linh mục Anton Ebnöther đã cưỡng bức, đã hiếp và để mặc bà với những cơn đau bụng nặng nề. Sau vụ hiếp này, người phụ nữ trẻ mang thai. Bà báo cho cha phó xứ Anton Ebnöther, cha đưa bà một phong bì có 100 quan Thụy Sĩ. Bà xin cha đi theo bà đến bác sĩ.
Bà Lisbeth, người con gái đầu của linh mục Anton Ebnöther | © Regula Pfeifer Kath.ch
Bà Lisbeth chỉ tìm thấy bức thư sau khi mẹ bà qua đời. Quá phẫn nộ, bà xé bức thư và đốt nó, vứt tro vào bồn vệ sinh.
Sinh tại bệnh viện Viège
Linh mục chánh xứ Bülach – bề trên của linh mục Ebnöther – sau đó gởi người đầu bếp mang thai đến Bệnh viện Đức Mẹ ở Viège, cùng với một nữ tu, em của linh mục. Tại đây, các cô gái mang thai ngoài ý muốn có thể làm việc trước khi sinh con. Lisbeth gần như được đề nghị cho làm con nuôi. Nhưng một người dì bên mẹ đến Viège đưa họ về. Cùng với mẹ, Lisbeth lớn lên trong cùng căn phòng trong trang trại của gia đình.
“Mẹ chỉ nói với tôi: ‘Cha của con đã chết vì một căn bệnh không chữa lành được’.”
Nhưng vẫn có một im lặng tuyệt đối. Cha của Lisbeth là ai? Mẹ luôn nói với tôi: Cha đã qua đời vi một căn bệnh không chữa lành được.” Trong một thời gian dài, Lisbeth không biết gì hơn.
Khi Lisbeth 30 tuổi, bà được biết: Cha còn sống. Mẹ của bà có kỳ nghỉ hè ở Katholische Arbeitnehmerbewegung (KAB). Chính ở đây, một phụ nữ khác cho bà biết Anton Ebnöther (trong thời gian đó đã bị loại ra khỏi hàng linh mục) có một nhà trọ ở vùng Grisons. Bà Lisbeth cho biết: “Và đó là những thông tin đầu tiên của tôi.”
Cuộc gọi đầu tiên với linh mục Anton Ebnöther
Vài ngày sau, bà gọi dịch vụ điện thoại 111 để xin số điện thoại của linh mục. Bà nhận được ba số điện thoại có thể. Cuộc gọi đầu tiên là đúng. Anton Ebnöther trả lời: “Từ lâu tôi đã chờ cuộc gọi của cô.” Bối rối, bà vặn lại: “Vì sao ông không gọi cho tôi?”
Nhà nội trú ‘Sunnene ở SaaS (GR) khi Tony Ebnöther là chủ nhân | Bưu ảnh thời đó
Trong kỳ nghỉ sau đó, bà Lisbeth đã dám gặp Ebnöther ở Davos. Ông đưa bà vào xe. Nhưng “sau trao đổi đầu tiên, ông đột nhiên đặt tay lên chân tôi. Sau đó, ông muốn hôn tôi, và không chỉ trên má. Tôi bị sốc”. Bà ra lệnh cho ông dừng lại: “Tôi là con ông”. Sau đó, bà nhanh chóng ra ngoài. Bà chưa biết người này đã hiếp mẹ của bà.
Tuy nhiên, bà không cắt liên lạc, bà muốn biết thêm về người đàn ông là cha của bà. Bà và những người thân thường đến nhà trọ ‘Sunneschy’. Chủ nhà trọ và là cựu linh mục đối xử với họ như khách. Một lần, Lisbeth đưa mẹ đến đó. Nhưng khi mẹ của bà vừa nhìn thấy Anton, “tóc bà dựng đứng’, hai mẹ con nhanh chóng ra đi.
Năm 2011, ông Anton Ebnöther qua đời. Trong tang lễ, cuối cùng Lisbeth biết được những gì bà nghi ngờ: bà có anh em cùng cha khác mẹ. Đó là sáu người con sinh ra từ bốn bà mẹ khác nhau. Lisbeth đã phải cần thời gian để lắng xuống câu chuyện này, và bây giờ bà cảm thấy đỡ hơn.
Cha Anton Ebnöther trong tuổi thanh xuân | Dr
Hai người con với một phụ nữ đã kết hôn
Hai người con tiếp theo của linh mục được sinh ra khi ông là cha phó xứ ở Bülach. Anton Ebnöther đã quan hệ với các phụ nữ khác, trong đó có bà Christina đã có chồng. Chồng của bà đã tin tưởng cha phó xứ, ông tâm sự các vấn đề tình dục của hai vợ chồng và xin cha nói chuyện với vợ ông. Cha Anton Ebnöther đã quan hệ với vợ ông, hai đứa con ra đời năm 1952 và năm 1953. Người chồng không bao giờ biết ông không phải là cha ruột của hai người con này.
Bị kết án phải trả tiền cấp dưỡng
Monika là người con thứ tư sinh cuối năm 1958. Lúc đó mẹ của Monika là bà Rita, một hướng dẫn viên cho nhóm các cô gái trẻ ‘Blauring’ đến nhà xứ Klưsters và Ebnöther đã hãm hiếp cô. Khi mang thai, cô nhờ ông giúp đỡ, ông đưa phong bì có 200 quan. Cô phải xoay xở với chừng đó. Linh mục nghĩ cô sẽ phá thai.
Monika Gisler là đứa con thứ 4 của linh mục Anton Ebnöther | Wolfgang Holz, Kath.ch
Khi Rita cho cha mẹ nuôi biết mình mang thai, họ đuổi cô ra khỏi nhà và không muốn gặp lại cô. Sau đó, cô nói chuyện với một tổ chức công giáo chăm sóc các bà mẹ đơn thân. Được một luật sư giúp đỡ, cô đòi Anton Ebnöther phải nhận quan hệ cha con và tiền trợ cấp. Linh mục không muốn trả tiền, cũng không muốn bí mật của mình bị tiết lộ. Ông cho rằng đứa bé không phải là con của ông. Ngày 25 tháng 12 năm 1958, Monika ra đời. Ba ngày sau, bà Rita thông báo cho giám mục giáo phận Coire biết con gái bà đã ra đời. Bí mật bị tiết lộ, tin tức lan truyền nhanh chóng. Sự nghiệp linh mục của Anton Ebnöther xem như chấm dứt vĩnh viễn.
Chỉ sự ra đời này dẫn đến một chuỗi pháp lý, như các nhà báo Tamedia đã tường trình. Trước tòa án Signelégier, Anton Ebnöther phủ nhận mình là cha đứa bé và cáo buộc người phụ nữ trẻ là ‘cô gái có đời sống nhẹ dạ’. Sau khi xét nghiệm máu, năm 1961 tòa bắt linh mục phải trả tiền trợ cấp cho con gái của ông.
“Mẹ tôi thần tượng hóa linh mục Anton”
Ông Adrian Meier, 56 tuổi là người con út của Anton Ebnöther. Khi sinh ra ông và chị Daniela của ông, linh mục đã rời khỏi chức tư tế. Ông thừa nhận: “Chúng tôi không bị tác động mạnh về mặt cảm xúc như các anh chị em cùng cha khác mẹ của chúng tôi” dù Anton gần như không chăm sóc các con. Adrian lớn lên ở Küblis, ở Grison Prättigau, cùng với mẹ và chị Daniela.
Mẹ của ông và Anton Ebnöther gặp nhau khi Anton quản lý nhà trọ ‘Sunneschy’ gần xã SaaS. Lúc đó cựu linh mục đồng hành với các dịch vụ tôn giáo của Giáo hội công giáo và Cải cách địa phương trong vai trò là người tổ chức.
Ông Adrian kể: “Anton Ebnöther có một mạng lưới giao tiếp rộng. Rất nhiều người ngưỡng mộ ông vì ông hòa đồng, ông là nhạc sĩ và tiếp xúc tốt với mọi người.” Mẹ của Adrian ngưỡng mộ Ebnöther, cả sau khi chia tay: “Bà thần tượng hóa ông và luôn bảo vệ ông.” Theo Adrian, mẹ của ông đồng tình trong quan hệ của bà với Anton, không giống như các phụ nữ đã có con với ông.
Adrian là người con út của Anton Ebnöther | © Regula Pfeifer Kath.ch
Tuy nhiên, mẹ của Adrian không thích nói về người yêu cũ của bà: “Đó là chuyện cấm kỵ, sau một vài lần thử để nói, chúng tôi không đề cập đến nữa.”
Người cha, một chủ đề cấm kỵ
Nhưng sự ngưỡng mộ của bà với Ebnöther đã không ảnh hưởng đến các con, Adrian nói về cảm xúc mơ hồ của ông: “Chúng tôi ở gần về địa lý, nhưng xa cách tinh thần,” ông không xem đó là cha mình và không bao giờ có cảm giác gắn bó.
Anton Ebnöther đã đến thăm một vài lần, Adrian nhớ lại: “Mỗi lần đến thăm, ông tạo một cảm giác thoải mái ngay lập tức và như thể đây là một gia đình lý tưởng. Nhưng chúng tôi không muốn liên quan gì đến người tự cho mình là cha chúng tôi. Mỗi lần ông đến thăm, chúng tôi chạy trốn mỗi và nhốt mình trong phòng.”
Adrian nhận xét: “Anton Ebnöther là linh mục và không có một vai trò nào. Điều chắc chắn, ông không có trách nhiệm của một người cha.”
Kết hôn muộn – hình ảnh tiêu cực của người cha
Adrian tự hỏi quan hệ cha con tiêu cực đã tác động như thế nào với ông: “Có lẽ đó là lý do vì sao trên 40 tuổi tôi mới lập gia đình. Tôi có các quan hệ nhưng tôi ngần ngại kết hôn. Một số mối quan hệ đã bị phá vỡ vì chuyện này, ‘tôi không muốn thất bại, như cha mẹ tôi.’
Sau khi gặp các anh chị em cùng cha khác mẹ. mối quan hệ của họ đã được hình thành. Số phận của chúng tôi khác nhau; mỗi người phải đối diện số phận theo cách của mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch