2020
Phụ nữ cần hiện diện nhiều hơn trong việc đào tạo linh mục
Theo nguyệt san “Donne Chiesa Mondo” số tháng 5, ấn bản online ngày thứ bảy 25.04 của Osservatore Romano, Đức Hồng y Marc Ouellet, Bộ trưởng Bộ Giám mục, lưu ý các khía cạnh khác nhau liên quan đến vai trò của phụ nữ trong việc đào tạo linh mục, trong các cộng đoàn giáo xứ và, bao quát hơn, trong đời sống của Giáo Hội.
Rõ ràng là phụ nữ chiếm phần lớn trong số những người lãnh nhận các hoạt động mục vụ của linh mục cũng như cộng tác với linh mục trong các hoạt động đó. Số 151 của Ratio fundamentalis 2016 có viết: sự hiện diện của phụ nữ có giá trị riêng trong tiến trình đào tạo chủng viện, kể cả trong việc nhìn nhận sự bổ trợ giữa nam nữ. Nhưng đối với Đức Hồng y Marc Ouellet, Bộ trưởng bộ Giám mục, vẫn còn nhiều việc phải làm. Vẫn còn là mô hình giáo sĩ. Cần phải có một cuộc cách mạng văn hóa.
Romilda Ferrauto thực hiện cuộc phỏng vấn:
ĐHY đã cổ võ sự hiện diện của phụ nữ trong việc đào tạo các linh mục và trong việc đồng hành thiêng liêng. Xin ĐHY cho biết tại sao và nhằm mục đích gì?
Phụ nữ có thể tham gia [tiến trình đào tạo] bằng nhiều cách: dạy thần học, triết học, linh đạo. Họ cũng có thể là thành phần của ban đào tạo, đặc biệt là trong việc phân định ơn gọi. Trong lãnh vực này, chúng ta cần ý kiến của các phụ nữ, cần trực giác và khả năng của họ trong việc nắm bắt những khía cạnh nhân bản nơi các ứng viên, khả năng trưởng thành tình cảm hay tâm lý của các ứng viên. Về mặt đồng hành thiêng liêng, chắc chắn phụ nữ có thể trợ giúp, nhưng tôi tin rằng một linh mục đồng hành cho ứng viên linh mục thì tốt hơn. Thay vào đó, phụ nữ có thể đồng hành trong việc đào tạo nhân bản, mà theo tôi, đây là phương diện chưa khai triển đủ trong các chủng viện. Cần đánh giá mức độ tự do của các ứng viên, khả năng thống nhất [bốn chiều kích đào tạo], khả năng thiết lập chương trình sống và cả căn tính tâm lý xã hội và tâm lý giới tính của các ứng viên.
Việc đào tạo linh mục dường như vẫn còn thiếu sót trong lãnh vực huấn luyện tình cảm. Có một câu hỏi nhạy cảm khác: chủ nghĩa giáo sĩ trị, tinh thần phân biệt đẳng cấp của các linh mục, đôi khi cả cảm thức được miễn trừ hình phạt. Theo ĐHY, đối với những điểm mấu chốt này, sự hiện diện của phụ nữ trong ban đào tạo có thể trợ giúp gì hay không?
Tôi tin rằng kinh nghiệm hợp tác bình đẳng với phụ nữ giúp ứng sinh hoạch định tác vụ tương lai của mình và nhận ra cách thức tôn trọng và cộng tác với phụ nữ. Nếu không được bắt đầu ngay trong thời gian đào tạo, linh mục có nguy cơ sống mối tương quan giáo sĩ trị đối với phụ nữ.
Ratio fundamentalis 2016, do Bộ Giáo sĩ ban hành, đề nghị việc đào tạo linh mục toàn diện, có khả năng thống nhất các chiều kích nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ. Trong chiều hướng này, sự hiện diện của phụ nữ mang tính “bổ sung” hay “nền tảng”?
Tôi tin rằng bản văn này cần được mở rộng và phát triển hơn nữa. Chúng ta luôn mang quan niệm giáo sĩ trị trong việc đào tạo, tuy vẫn nỗ lực để tiến bộ nhưng lại tiếp tục những gì đã làm. Còn nhiều yếu tố liên quan đến đào tạo nhân bản, nhưng tôi tin rằng những gì liên quan nhằm bổ sung phụ nữ vào việc đào tạo thì còn nhiều thiếu sót.
Người ta thường nghe nói rằng cần phải cho các phụ nữ đảm nhận trách nhiệm. Chắc chắn đây là điều quan trọng. Nhưng nếu tôi hiểu rõ, phải chăng trước hết ĐHY ước muốn một cuộc cách mạng văn hóa? Có lẽ là một sự thay đổi não trạng chăng?
Vâng, chính xác. Trong một tham luận mới đây của tôi ở Hội nghị khoáng đại về Giáo dục Công giáo, tôi đã thừa nhận giá trị sáng tạo trong lời tựa tài liệu Veritatis gaudium (Niềm Vui Chân Lý) của Đức Thánh Cha (Tông hiến về các đại học và các phân khoa Giáo Hội, ngày 29.01.2018) để đổi mới những nghiên cứu cao cấp. Tuy nhiên tôi đã lưu ý rằng chiều kích đặt vấn đề về phụ nữ và lời giải đáp của Giáo Hội vẫn còn thiếu sót. Đây không chỉ là sự thăng tiến phụ nữ mà còn là xem phụ nữ như thành phần toàn vẹn của tất cả tiến trình đào tạo. Lẽ ra cần phải có ít là một ám chỉ đến điều đó, trong văn bản có tầm quan trọng như thế này, một văn bản hướng đến tương lai. Điều này chứng tỏ chúng ta vẫn còn dậm chân tại chỗ! Lúc tôi phát biểu tại phiên họp khoáng đại của hội nghị về Giáo dục Công Giáo, có các vị viện trưởng các đại học ở Roma; có nhiều phụ nữ nhưng tỉ lệ là một trên mười. Còn nhiều điều phải làm trong các nghiên cứu cao cấp của các đại học Công giáo. Cuộc cách mạng văn hóa có nghĩa là phải thay đổi não trạng. Quay lại với việc đào tạo linh mục, một linh mục có thể được chuẩn bị để giảng giải tốt, hoàn thành các phận vụ phải làm. Tuy nhiên mục vụ trước hết là việc chăm sóc con người. Và việc quan tâm đến con người là một phẩm chất nữ tính tự nhiên. Điều đáng nói đó là phụ nữ có sự nhạy cảm đối với con người, ít ra là về mặt chức năng. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong tất cả những cải tổ mục vụ của ngài, mời gọi chúng ta chú tâm đến dân chúng và đòi hỏi chúng ta phải làm sao đồng hành với họ để giúp họ tiến triển. Cho đến nay điều chúng ta quan tâm nhất là tính chính thống, là hiểu rõ giáo lý, dạy tốt giáo lý. Nhưng vấn đề là tất cả dân chúng đáng thương này phải tiếp thu giáo lý đó… Chúng ta làm thế nào để đồng hành với họ?
Các mối tương quan giữa linh mục và phụ nữ còn chịu tác động bởi nhiều điều kiện. Thường “dè chừng” lẫn nhau. Trước đây ĐHY đã nói đến nỗi khó khăn khi phải thiết lập một mối tương quan bình đẳng. Khó khăn đó xuất phát từ đâu? Có phải từ thiếu sót nào đó trong việc đào tạo linh mục hay không?
Có lẽ vấn đề mang tính chất sâu xa hơn, do cách thức đối xử với phụ nữ trong các gia đình. Có dè chừng bởi vì có sợ hãi… từ phía nam giới đối với phụ nữ hơn từ phía nữ giới đối với nam giới. Với một linh mục, với một chủng sinh, phụ nữ bị coi là mối nguy hiểm! Trong khi, thực tế, những người nam không có mối tương quan hài hòa với phụ nữ mới là mối hiểm nguy thực sự. Đó là nỗi hiểm nguy trong tác vụ linh mục, là nỗi hiểm nguy chúng ta cần phải triệt để thay đổi. Do đó trong thời gian đào tạo, điều quan trọng là phải có sự gặp gỡ, so sánh, trao đổi. Điều này giúp ứng sinh tương tác cách tự nhiên với nữ giới cũng như giúp họ đương đầu với thách thức trước sự hiện diện của phụ nữ, trước sức hấp dẫn của phụ nữ. Điều đó phải được dạy và học ngay từ khởi đầu, đừng cô lập các linh mục tương lai kẻo rồi họ bị ngỡ ngàng bởi thực tại và đến lúc đó họ có thể mất tự chủ.
Nhiều người nghĩ rằng nếu phụ nữ được tham dự nhiều hơn vào việc đào tạo (và vào đời sống) linh mục, cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục sẽ không đạt tới mức độ thê thảm như đã thấy. Có đúng thế chăng hoặc đây có là một kiểu mẫu hay chăng?
Chắc chắn có một phần sự thật trong đó. Bởi lẽ đàn ông là một hữu thể có tình cảm. Nếu thiếu sự tương tác giữa hai giới, sẽ có nguy cơ phát triển sự bù trừ… Có thể là bù trừ trong việc ăn uống, hoặc được tỏ bày trong cách hành xử quyền bính, hoặc trong các mối tương quan đóng kín, sự đóng kín này trở thành thao túng, kiểm soát… và có thể dẫn đến lạm dụng lương tâm và lạm dụng tình dục. Tôi tin rằng đối với linh mục, việc học cách tương quan với phụ nữ, trong lãnh vực đào tạo, là một yếu tố nhân bản giúp cân bằng nhân cách và tình cảm của người nam.
ĐHY đã nhiều lần nói rằng vấn đề phụ nữ đòi hỏi từ phía Giáo Hội một sự đầu tư quan trọng, nhưng đã không được làm đủ. Tại sao chúng ta không nhận thức được tính khẩn cấp của vấn đề này?
Bốn mươi năm qua, xã hội được ghi dấu bởi những biến chuyển lớn, ít ra là ở phương Tây. Việc có được ý thức về sự hiện diện của phụ nữ trong thế giới lao động, trong đời sống công cộng vẫn còn là điều mới mẻ, có thể nói là như vậy. Giáo Hội bước đi chậm chạp. Chúng ta đã chậm trễ và cần phải thu ngắn khoảng cách vì xã hội đã tiến xa hơn. Giáo Hội cũng đã góp phần kìm hãm việc đòi hỏi phải đạt tới một sự bình đẳng hoàn toàn, về mặt thừa tác, như thể sự khác biệt giới tính chẳng có chút giá trị nào. Cả ở đây chúng ta cũng đối diện với sự áp đặt ý thức hệ thừa nhận nam giới. Thực sự chúng ta cần sáng tạo sao cho phụ nữ hiện diện nhiều hơn, chẳng hạn trong lãnh vực tiên báo, trong việc làm chứng tá và cả trong quản trị. Trong nhiều bộ có các phụ nữ làm chưởng ấn, họ điều phối hoạt động mục vụ. Nhưng vấn đề là mô hình Giáo Hội học mang tính giáo sĩ. Trong Giáo Hội có những người có vai trò hàng đầu: rao giảng Lời Chúa, ban các Bí tích, như thể các linh mục là thực tại chủ yếu của Giáo Hội, nhưng không phải là như thế. Trung tâm của Giáo Hội không phải là thừa tác vụ, mà là Bí tích Rửa tội, nghĩa là đức tin. Và chứng tá của đức tin chính là nơi mà phụ nữ có thể chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt.
ĐHY trả lời thế nào cho các phụ nữ Công giáo bất bình vì sự tán dương thiên tài phụ nữ, tán dương một số mẫu mực của nữ tính?
Ai đó đã viết rằng người ta đi từ thù ghét phụ nữ đến tích cực thần thoại hóa phụ nữ! Cả hai thái độ đều sai lầm và rốt cuộc cũng giống nhau vì thiếu cái nhìn sâu xa. Về điểm này, tôi nghĩ rằng ngay cả suy tư thần học cũng có những bước phải vượt qua, kể cả suy tư nhân loại học và suy tư linh đạo về phụ nữ hay về mối tương quan nam-nữ. Suốt nhiều thế kỷ, khoa chú giải đã xây dựng học thuyết Imago Dei, Hình ảnh của Thiên Chúa một cách hết sức trừu tượng. Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa thì thiêng liêng. Nhưng ý nghĩa bản văn Sáng thế là sự năng động của tình yêu giữa đàn ông và đàn bà vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Nghĩa là, một đôi với tư cách là một đôi. Giờ đây, các nhà chú giải đã khai triển tư tưởng này. Nhưng để đưa tư tưởng này vào văn hóa cần phải thấu triệt những gì là đàn ông và đàn bà.
Sự vượt trội của phụ nữ giữa những người tích cực tham gia sinh hoạt cộng đoàn giáo xứ rút cục là điều ai cũng biết, thế thì từ đâu lại có ý tưởng cho rằng Giáo Hội là một thực tại nam giới? Có lẽ bởi vì thừa tác vụ chức thánh được dành riêng cho nam giới và điều này, dù có nói thế nào, ngay từ đầu đã khiến phụ nữ trở nên thấp kém trong Giáo Hội, giam cầm phụ nữ vào những bổn phận kém “cao quý” hơn?
Cám ơn anh đã đặt câu hỏi quan trọng này. Câu trả lời đó là: bởi vì mô hình giáo sĩ. Nếu phụ nữ không có quyền chức, họ không tồn tại. Trong khi trách vụ chỉ là thứ yếu và rất phụ thuộc vì nó phục vụ cho Bí tích Rửa tội, nó phải làm sống động tử hệ thiêng liêng trong tâm hồn con người. Chính đây mới là Giáo Hội! Và tất cả những gì còn lại, rao giảng Lời Chúa, ban Bí tích, đều dùng để làm sống động thực tại cốt lõi này. Đức Thánh Cha Phanxicô nói điều đó khi lặp lại ý tưởng của Hans Urs von Balthasar. Ngài nói rằng trong Giáo Hội, Đức Maria trổi vượt hơn Phêrô, bởi vì Mẹ thể hiện chức tư tế của Phép rửa trong ý nghĩa tròn đầy nhất của nó, Mẹ là đấng trung gian trao ban Ngôi Lời nhập thể cho nhân loại. Và do đó, khuôn mẫu của Giáo Hội là nữ giới bởi lẽ đức tin là sự tiếp nhận Lời và ở nền tảng của sự tiếp nhận ân sủng chính là nữ giới. Đức Maria là biểu tượng của điều đó. Đây chính là Giáo Hội học mà tôi gọi là “lễ cưới”, bởi vì khi nói lễ cưới tôi đặt tình yêu ở bình diện cao nhất. Điều này có giá trị không chỉ đối với các đôi hôn phối nhưng ngay cả đối với đời sống thánh hiến, đời sống linh mục và thừa tác vụ, tất cả được hợp nhất trong mối quan hệ hôn phối giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Chính Giáo Hội mạc khải cho thế giới mầu nhiệm Thiên Chúa là tình yêu. Romilda Ferrauto
Phaolô Nguyễn Quốc Hưng dịch từ vaticannews.va/it
2020
Bệnh nhân covid-19 trăn trối với cô y tá: “Tôi sẽ phù hộ cho cô vì những gì cô đã làm”
– Một y tá đã cố gắng hết mình để giúp đỡ một bệnh nhân đang hấp hối vì nhiễm virus corona và nhận lại một di sản quý giá.
Thị trưởng vùng Volvera, một thị trấn nhỏ ở miền bắc Italy, đã công bố câu chuyện cực kì cảm động mà một cô y tá đã nói với ông tại bệnh viện địa phương San Luigi. Cô ấy không muốn mô tả những gì các phương tiện truyền thông đang truyền tải: những con số, những số liệu thống kê, những nghị định và lệnh cấm. Cô ấy muốn chia sẻ điều hiển nhiên khác ở khía cạnh về các bệnh nhân dương tính với COVID và nhân viên chăm sóc sức khỏe. COVID không chỉ là một loại virus nguy hiểm.
Lời kể của cô ấy là một cái nhìn thoáng qua về những gì đang xảy ra trong các phòng chăm sóc đặc biệt của các bệnh viện trên khắp thế giới. Trước hết, cô là nhân chứng cho thảm kịch khiến bệnh nhân, người nhà và nhân viên y tế cùng trải nghiệm trong đau khổ tột cùng, nhưng đó cũng là những tia sáng làm nảy sinh hy vọng.
Chúng ta không cho phép vi-rút cướp đi nhân phẩm của chúng ta
Trong các bệnh viện, nơi thần chết lơ lửng như một mối đe dọa chưa từng có, cuộc chiến liên tục này không chỉ để cứu sống những sinh mạng, mà còn vì lý do không kém phần khó khăn và ít nhận thấy, đó là để bảo vệ phẩm giá của con người, vì lợi ích của tất cả chúng ta.
COVID-19 có khả năng làm cho người bệnh cảm thấy bị mất kiểm soát bản thân đến mức họ cần gắn dây và máy thở. Họ thấy mình ở trong một tình huống dường như lên án người thân vì đã khiến người thân có cảm giác tội lỗi tột độ vì đã vắng mặt trong thời khắc thiêng liêng lúc họ qua đời.
Những tình huống này dường như làm tê tái trái tim các bác sĩ và y tá, những người đang cố gắng cứu chữa họ. Để có thể tập trung hết sức mình trong công việc, các bác sĩ và y tá buộc lòng phải tránh ánh mắt của họ.
Một cuộc gọi video để nói lời từ biệt
Tất cả những nỗi đau này được mô tả ở phần giữa của bức thư kể về một bà mẹ có bốn người con. Bà tuyệt vọng tìm cách nhìn vào mắt cô y tá, cố gắng làm dịu trái tim cô ấy qua việc khẩn khoản cô y tá cho phép bà thực hiện bổn phận làm mẹ, cầu xin được đối xử như một con người ngay cả khi chết. Nỗi đau được mô tả khi bà thực hiện cuộc gọi video cho bốn đứa con, trong đó bác sĩ thông báo cho bà và bốn đứa con về tình hình nghiêm trọng của bà.
Cô y tá, trước sự tuyệt vọng này, sử dụng điện thoại thông minh của mình để thực hiện một cuộc gọi video để bà có thể nói lời vĩnh biệt với gia đình. Họ nhìn thấy nhau lần cuối, với những giọt nước mắt và những lời yêu thương vô hạn.
Sau đó, cô y tá, người viết một lá thư, nói rằng: “Bệnh nhân chết. Bạn quyết định bước ra ngoài và để phần còn lại cho đồng nghiệp của bạn. Và bạn thấy rằng, theo thủ tục, họ phun thuốc khử trùng cho bà ấy, bọc bà ấy trong một tấm trải giường và đưa bà ấy đến nhà xác. Một mình, chỉ một mình, những thứ đồ cá nhân của bà ấy, được gom lại trong một túi màu đen ba lớp, sẽ bị thiêu hủy”
“Cảm ơn cô, tôi sẽ phù hộ cho cô vì những gì cô đã làm cho tôi.”
Khi chiếc xe tang mang theo quan tài rẽ về bên trái và chiếc xe của bệnh nhân chỉ có một đứa con trai có mặt trong nhà xác để nhận quan tài rẽ về bên phải, mọi thứ dường như mất đi và vô nghĩa. Virus đã chiến thắng; nó đã tiếp tục tiêu diệt thêm một mạng sống khác nữa rồi. Tuy nhiên, nó đã không thành công trong việc làm tiêu tan một cái chết có ý nghĩa sâu sắc đến như vậy.
Một di sản quý giá vẫn còn cho những người tiếp tục sống. Cô y tá kể lại chi tiết: “Một bệnh nhân nắm lấy tay tôi và nói, ‘Cảm ơn cô. Tôi sẽ phù hộ cho cô vì những gì cô đã làm cho tôi.’ Bạn sẽ rất khó cầm được nước mắt trong tình huống này.”
Những lời này được vang lên với phước lành và hy vọng cho tất cả mọi người, kể cả những người có và không có niềm tin. Trước thảm kịch vô cùng lớn lao này, sự cứu độ duy nhất là tính nhân đạo của chúng ta, nó như là món quà mà chúng ta nhận ra cả niềm vui và nỗi đau trong ánh mắt của những người khác, chúng ta nhận ra tâm hồn của họ có những nét tương đồng như chính chúng ta.
Đây là bài viết của thị trưởng Ivan Marusich, người sao chép đầy đủ thư của cô y tá: Trong những thời điểm khó khăn này, chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta là ai và nhân phẩm của mỗi người trong chúng ta không thể thay đổi. Chúng ta là con cái Chúa, là anh chị em trong Đức Kitô. Ngay cả sự sỉ nhục và vô nhân đạo của một đại dịch cũng không thể thay đổi điều đó. Chúng ta đừng quên tìm kiếm khuôn mặt của Chúa Kitô trong những người khác. Silvia Lucchetti
Văn Quyết dịch từ Aleteia
2020
Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc Tế: Tính Hỗ Tương giữa Đức Tin và Các Bí Tích trong Nhiệm Cục Bí Tích
2020
Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho các nghệ sĩ để được ân sủng sáng tạo tuyệt vời
Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho các nghệ sĩ để được ân sủng sáng tạo tuyệt vời
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mở đầu Thánh Lễ sáng Thứ Hai (27/4) của Chúa Nhật Tuần III Phục Sinh, bằng những tư tưởng đặc biệt dành cho các nghệ nhân.
“Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nghệ sĩ, những người có khả năng sáng tạo lớn lao”, và cho việc chỉ cho chúng ta con đường đi đến vẻ đẹp. Ngài nói tiếp: “Xin Chúa ban cho tất cả chúng ta ân sủng của sự sáng tạo vào thời gian này”.
Sau đó Ngài suy tư về bài đọc Tn Mừng trong ngày (Ga 6:22-29) đoạn Chúa Giêsu hướng đám đông đã tìm kiếm Ngài sau khi có phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều chỉ vì cái bụng no đầy khi nói với họ “đừng làm việc vì của ăn hay hư nát, mà vì lương thực mang lại sự sống đời đời”.
Là người tốt, Đức Giáo Hoàng nói, họ hỏi Ngài cách để đạt được điều này và Chúa Giêsu trả lời: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ông hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích rằng đám đông nghe Chúa Giêsu “mà không biết mệt”. Một khi được no thoả, họ nghĩ họ sẽ tôn Ngài làm vua, “nhưng họ đã quên mất lòng nhiệt thành đầu tiên của họ đối với Lời Ngài”.
Nhớ về cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu
Vì thế, Đức Giáo Hoàng nói tiếp, Chúa nhắc nhớ đám đông về cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Lời và “Ngài chỉnh con đường của người dân đã chọn vốn mang tính thế tục hơn, thay vì con đường phúc âm”.
Điều này cũng xảy ra với chúng ta nữa, Đức Giáo Hoàng cảnh báo, khi chúng ta rời xa khỏi con đường của Tin Mừng và chúng ta đánh mất ký ức về sự nhiệt thành đầu tiên dành cho Lời Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu, Đức Giáo Hoàng nói, mời gọi chúng ta trở về với cuộc gặp gỡ đầu tiên: “Đây là một ân sủng khi chúng ta đối diện với những cơn cám dỗ”.
Và Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh ân sủng của việc “luôn trở về với lời mời gọi đầu tiên, khi Chúa Giêsu nhìn vào chúng ta bằng tình yêu”. “Mỗi người chúng ta có kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ đầu tiên mà Chúa Giêsu nói: hãy theo Ta”, Đức Giáo Hoàng nói.
Trên hành trình, Đức Giáo Hoàng nói tiếp, chúng ta lạc xa, “chúng ta lãng quên”, và chúng ta đánh mất sự tươi mới của lời mời gọi đầu tiên ấy.
Trở về Galilee
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi người tín hữu hãy cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta ân sủng trở về với thời khắc mà trong đó chúng ta có kinh nghiệm đầu tiên về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Ngài nhắc lại cách mà Chúa Giêsu nói với các phụ nữ khi họ ra mộ vào sáng sớm Phục Sinh là hãy về và nói với các môn đệ “hãy đến Galilee và ở đó, họ sẽ gặp Thầy” (x. Mt 28:10).
Galilee, Đức Giáo Hoàng nói, là nơi của cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Chúa Giêsu.
“Mỗi người chúng ta đều có Galilee của riêng mình bên trong”, Đức Giáo Hoàng kết thúc, “thời khắc cụ thể ấy mà Chúa Giêsu đến gần…nhìn vào tôi bằng tình yêu, và nói với tôi: ‘Hãy theo Thầy’”.
Joseph C. Pham (Vatican News)