2020
Cha Andrej Matis, từ nhạc sĩ chuyên nghiệp nổi tiếng thế giới đến chức linh mục
Cha Andrej Matis, từ nhạc sĩ chuyên nghiệp nổi tiếng thế giới đến chức linh mục
Thứ Bảy ngày 5 tháng 9 năm 2020, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã phong chức cho 29 linh mục thuộc hội Opus Dei tại Vương cung Thánh đường Thánh Eugenio, ở Rôma.
Trong số các tân chức có Andrej Matis, 32 tuổi, linh mục đầu tiên thuộc hội đến từ Slovakia. Trước khi theo học Thần học ở Rôma, cha Andrej là một nhạc sĩ chuyên nghiệp, đã làm việc nhiều năm với tư cách là nghệ sĩ vĩ cầm cho nhóm Mucha Quartet, đã từng biểu diễn tại các nước như Thụy Sĩ, Cộng hòa Séc, Ý, Ba Lan, Pháp, Áo và Luxembourg.
“Con đường đến với chức linh mục của tôi không trực tiếp như những trường hợp khác. Tôi đã làm việc như người nghệ sĩ chuyên nghiệp trong nhiều năm. Khi còn bé, tôi đã đam mê âm nhạc và tôi biết ơn sự ủng hộ của cha tôi, người rất say mê âm nhạc. Nhờ cây vĩ cầm mà tôi đã khám phá ra Opus Dei ”.
“Tôi đã khám phá ra rằng âm nhạc có thể là cách thế để tôi đến gần Chúa và bạn bè của tôi. Bằng cách dâng lên Chúa, âm nhạc có thể trở thành việc tông đồ. Có những người làm việc vì kế sinh nhai hay để trở thành người nổi tiếng, nhưng tôi đã thấy rằng làm việc có thể là một con đường để đạt đến sự thánh thiện”.
“Chúa Giêsu đã trải qua phần lớn cuộc đời mình để làm việc như người thợ mộc. Cuộc đời của tôi đã được thay đổi từ khi tôi gia nhập vào Opus Dei như một thành viên. Nó giống như một cuộc phiêu lưu mà bạn sẽ không biết nó sẽ kết thúc ở đâu nhưng nó khiến bạn hạnh phúc”.
Cha Andrej Matis cho biết, ngài đã dành ra 11 năm cuộc đời để luyện tập vĩ cầm và nghiên cứu các tác giả vĩ đại của nền âm nhạc cổ điển như Händel, Sibelius, Tchaikovsky hay Mendelssohn, và khẳng định rằng con đường dẫn ngài đi từ âm nhạc đến chức linh mục là trạng thái tự nhiên, một quyết định chín chắn từng chút một trong cuộc đối thoại với Chúa. Chính bạn bè của cha Andrej Matis cũng lo cho ngài: “Họ hỏi tôi rằng liệu việc thay đổi hướng đi trong cuộc sống sau rất nhiều nỗ lực để đạt đến một trình độ chuyên môn nhất định có phải là một quyết định đúng đắn hay không?”.
“Nhờ Opus Dei mà tôi đã bắt đầu sống cách nghiêm túc đời sống Kitô hữu của tôi. Tôi tăng cường đời sống cầu nguyện, và Chúa đã gợi ý cho tôi điều mà tôi chưa từng thấy xưa nay: Ngài muốn tôi trở thành linh mục. Tiến trình chuyển đổi từ nghệ sĩ vĩ cầm sang chức linh mục không có gì ấn tượng. Công việc chuyên môn, trong trường hợp âm nhạc của tôi, là điều khiến tôi gần Chúa hơn và mang Ngài đến với bạn bè của tôi. Giờ đây tôi muốn làm việc đó với tư cách là linh mục, ngay cả khi các phương tiện hoàn toàn khác nhau”.
“Vẻ đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” đó là câu nói của Dostoevsky mà Đức Bênêđictô XVI rất yêu thích. Cha Andrej Matis nói: “Nó rất thực tế”. “Xã hội ngày nay rất xu thời, thường để trực giác hoặc cảm tính lôi kéo mình, và vẻ đẹp là thứ trực tiếp thách thức bạn, lôi cuốn các cảm xúc của bạn”. “Về điều này, tôi cho rằng vẻ đẹp là phương tiện để giao tiếp với Chúa, bởi vì mọi người luôn nhạy cảm đối với Ngài. Vẻ đẹp đích thực có thể được tặng ban, và qua đó con người có thể đến với vẻ đẹp đích thực của Chúa Kitô trên thập giá, ngay cả khi thoạt nghe nó có vẻ nghịch lý. Tuy nhiên, khi bạn khám phá ra nó, thì đây là vẻ đẹp cứu rỗi thực sự”.
Vị linh mục nhạc sĩ nhận xét: “Xin mọi người hãy cầu nguyện cho các ơn gọi giáo dân, các gia đình Kitô hữu và các nam nữ tu sĩ. Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người hướng đến sự thánh thiện, Ngài mời gọi từng người chúng ta. Nếu chúng ta cầu nguyện Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta trong ơn gọi mà Ngài đã mời gọi chúng ta và sẽ làm cho chúng ta thêm phần hạnh phúc”. Đối với một số phương tiện truyền thông và dư luận quần chúng, hạnh phúc đôi khi gắn liền với danh tiếng, sự giàu có và quyền lực.
Tác giả: Ary Waldir Ramos Díaz
Chuyển ngữ: G. Võ Tá Hoàng
2020
Tiếp kiến chung 09-09-2020: Đối phó với đại dịch bằng tình yêu không giới hạn
Tiếp kiến chung 09-09-2020: Đối phó với đại dịch bằng tình yêu không giới hạn
Đức Thánh Cha tiếp kiến chung
(09-09-2020)
Đối phó với đại dịch bằng tình yêu không giới hạn và vì công ích
Hồng Thủy
Vì virus corona không biết đến rào cản, biên giới hay sự khác biệt về văn hóa và chính trị, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cũng không dựng nên rào cản, biên giới hay sự phân biệt cho tình yêu khi hành động vì công ích để giải quyết những vấn đề trầm trọng do đại dịch gây ra.
Buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng thứ Tư ngày 9 tháng 9 là buổi tiếp kiến thứ hai có sự tham dự của giáo dân kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng nổ tại Ý, và được tổ chức tại sân Damaso của Vatican.
Trong bài giáo lý, Đức Thánh Cha nói về đề tài “Tình yêu và công ích”. Ngài nhắc rằng học thuyết xã hội của Giáo hội dạy rằng công ích phải là mục tiêu của mọi nỗ lực cá nhân và tập thể để chữa lành thế giới bị thương tích. Sự dấn thân của các Ki-tô hữu chúng ta trong khía cạnh này được truyền cảm hứng bởi tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa; tình yêu này kêu gọi chúng ta không đặt giới hạn cho tình yêu của chúng ta đối với người khác và cho mối quan tâm của chúng ta đối với phúc lợi của họ.
Chỉ có thể tốt hơn sau đại dịch nếu cùng tìm công ích
Mở đầu bài giáo lý, Đức Thánh Cha nhắc rằng cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua do đại dịch ảnh hưởng đến tất cả mọi người; chúng ta có thể trở nên tốt hơn sau khi thoát khỏi đại dịch nếu chúng ta cùng nhau tìm kiếm công ích. Thật không may, chúng ta đang đang chứng kiến sự xuất hiện của các lợi ích đảng phái. Ví dụ, có những người muốn chiếm hữu các giải pháp khả thi, như trong trường hợp các vắc xin và rồi bán cho người khác. Một số lợi dụng tình hình để gây chia rẽ: để tìm kiếm lợi thế kinh tế hoặc chính trị, làm phát sinh hoặc gia tăng xung đột. Những người khác đơn giản là không quan tâm đến đau khổ của người khác, họ đi ngang qua và đi con đường của họ (x. Lc 10,30-32). Họ là các đệ tử của quan Ponzio Philato, rửa tay phủi trách nhiệm của mình.
Cách đáp trả của Ki-tô giáo với đại dịch là tình yêu không giới hạn
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: Câu trả lời của Kitô giáo đối với đại dịch và những khủng hoảng kinh tế xã hội, hậu quả của đại dịch, được dựa trên tình yêu, trên hết là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn đi trước chúng ta (x. 1Ga 4,19). Người yêu thương chúng ta trước, Người luôn đi bước trước trong tình yêu và trong các giải pháp. Người yêu chúng ta cách vô điều kiện, và khi chúng ta đón nhận tình yêu này của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng có thể đáp lại theo cách tương tự. Tôi không chỉ yêu những người yêu tôi như gia đình, bạn bè, nhóm của tôi, mà cả những người không yêu tôi, những người không biết tôi, hoặc những người ngoại quốc, và cả những người làm cho tôi đau khổ hoặc những người tôi xem là kẻ thù (x. Mt 5,44). Đây là sự khôn ngoan Ki-tô giáo, đây là thái độ của Chúa Giê-su. Và điểm cao nhất của sự thánh thiện là yêu kẻ thù và điều này không dễ dàng. Tất nhiên, yêu thương tất cả mọi người, kể cả kẻ thù, thì rất khó – tôi phải nói rằng đó là một nghệ thuật! Nhưng đó là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi và cải thiện. Tình yêu đích thực, điều giúp chúng ta trở nên phong phú và tự do, luôn luôn mở rộng và bao gồm. Tình yêu này hàn gắn, chữa lành và tạo nên điều tốt. Rất nhiều lần, một sự nhẹ nhàng thì tạo nên điều tốt hơn là các cuộc tranh luận; một sự dịu dàng tha thứ chứ không phải là những tranh luận để tự vệ. Tình yêu bao gồm thì chữa lành.
Tình yêu bao gồm, không giới hạn
Đức Thánh Cha giải thích: Vì vậy, tình yêu không chỉ giới hạn trong các mối quan hệ giữa hai hoặc ba người, hoặc giữa bạn bè, hoặc gia đình. Nó bao gồm các mối quan hệ dân sự và chính trị (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo [CCC], 1907-1912), bao gồm cả mối quan hệ với tự nhiên (TĐ. Laudato si’ [LS], 231). Vì chúng ta là những hữu thể xã hội và chính trị, một trong những biểu hiện cao nhất của tình yêu chính là biểu hiện xã hội và chính trị, có tính chất quyết định đối với sự phát triển của con người và để đối mặt với bất kỳ loại khủng hoảng nào (sđd, 231). Chúng ta biết rằng tình yêu thương làm cho gia đình và bạn bè trở nên phong phú, trổ sinh kết quả; nhưng thật tốt khi nhớ rằng nó cũng làm cho các mối quan hệ xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị trổ sinh kết quả, cho phép chúng ta xây dựng một “nền văn minh của tình yêu”, như thánh Phaolô VI[1] đã thích gọi và thánh Gioan Phaolô II cũng nói theo cách thức của ngài. Không có nguồn cảm hứng này, nền văn hóa ích kỷ, vô cảm, loại bỏ sẽ thắng thế; nghĩa là loại bỏ người tôi không thích, người tôi không thể yêu thương và người đối với tôi là vô ích cho xã hội.
Đức Thánh Cha thuật lại một câu chuyện để minh họa: Hôm nay, khi đi vào, tôi gặp một đôi vợ chồng. Họ nói với chúng tôi: “Xin cầu nguyện cho chúng con bởi vì chúng con có một người con khuyết tật”. Tôi hỏi: “Cháu bao nhiêu tuổi? Ông bà làm gì?” – Chúng con đồng hành và giúp cháu.” Đức Thánh Cha nhận định: Tất cả cuộc đời của cha mẹ dành cho đứa con khuyết tật đó. Đây là tình yêu. Và những kẻ thù, đối thủ, các nhà chính trị, ngay cả những người trái ngược với ý kiến của chúng ta, họ dường như là những người khuyết tật chính trị, xã hội. Chỉ có Thiên Chúa biết họ đúng như thế hay không. Nhưng chúng ta phải yêu mến họ, phải đối thoại với họ, phải xây dựng nền văn minh tình thương này, nền văn minh chính trị, xã hội, của sự hiệp nhất toàn nhân loại. Ngược lại là các cuộc chiến tranh, chia rẽ, ganh ghét, cả chiến tranh trong gia đình: bởi vì tình yêu bao gồm là xã hội, là gia đình, là chính trị… tình yêu chiến thắng tất cả.
Công ích
Đức Thánh Cha nói tiếp: Virus corona cho chúng ta thấy rằng thiện ích thực sự cho mọi người chính là công ích và ngược lại, công ích là điều tốt lành thực sự cho con người (x. CCC, 1905-1906). Nếu một người chỉ tìm ích riêng của mình thì đó là người ích kỷ. Ngược lại, con người cao thượng hơn, khi trao mở ích lợi của mình với tất cả, khi chia sẻ nó. Không chỉ là của cá nhân, sức khỏe cũng là một lợi ích chung. Một xã hội lành mạnh là một xã hội quan tâm đến sức khỏe của mọi người.
Chữa trị virus không giới hạn bằng tình yêu không biên giới
Và Đức Thánh Cha lưu ý: Một thứ virus không biết đến rào cản, biên giới hay sự khác biệt về văn hóa và chính trị phải được chữa trị bằng một tình yêu không rào cản, biên giới hay sự phân biệt. Tình yêu thương này có thể tạo ra các cấu trúc xã hội khuyến khích chúng ta chia sẻ hơn là cạnh tranh, cho phép chúng ta bao gồm những người dễ bị tổn thương nhất và không loại bỏ họ, và giúp chúng ta thể hiện điều tốt hơn của bản chất con người của chúng ta chứ không phải điều tồi tệ hơn. Tình yêu thật sự không biết đến văn hóa loại bỏ. Thật vậy, khi chúng ta yêu thích và tạo ra sự sáng tạo, tin tưởng và liên đới, thì các sáng kiến cụ thể vì lợi ích chung sẽ xuất hiện ở đó[2]. Và điều này đúng cả ở cấp độ cộng đồng nhỏ và lớn, và ở cấp độ quốc tế. Điều mà chúng ta làm trong gia đình, làm trong khu xóm, trong làng, trong thành phố lớn và trên mức độ quốc tế và cho chính mình, là chính hạt giống mọc lên và sinh hoa trái. Nếu bạn bắt đầu trong gia đình, trong khu xóm với sự đố kỵ ganh ghét, với tranh chấp thì cuối cùng sẽ có chiến tranh. Ngược lại, nếu bạn bắt đầu với tình yêu thương, bằng chia sẻ tình yêu, tha thứ, thì sẽ có tình yêu và tha thứ cho tất cả.
Nỗ lực cho công ích là truyền bá vinh quang của Thiên Chúa
Ngược lại, nếu các giải pháp cho đại dịch mang dấu ấn của sự ích kỷ, dù là của con người, công ty hay quốc gia, có lẽ chúng ta có thể thoát khỏi virus corona, nhưng chắc chắn không thoát khỏi cuộc khủng hoảng xã hội và con người mà virus đã nêu rõ và nhấn mạnh. Vì vậy, hãy cẩn thận đừng xây trên cát (x. Mt 7, 21-27)! Để xây dựng một xã hội lành mạnh, hòa nhập, công bằng và hòa bình, chúng ta phải thực hiện nó trên nền đá của công ích.[3] Công ích là đá tảng. Và đây là công việc của tất cả mọi người, không chỉ một số chuyên gia. Thánh Tôma Aquinô nói rằng việc thăng tiến công ích là bổn phận công lý của mọi công dân. Mỗi công dân có trách nhiệm với công ích. Và đối với các Ki-tô hữu thì đó cũng là một sứ mệnh. Như thánh Inhaxiô thành Loyola dạy, hướng những nỗ lực hàng ngày của chúng ta đến công ích là một cách để tiếp nhận và truyền bá vinh quang của Thiên Chúa.
Một nền chính trị tốt là có thể và cần phải có: đặt con người và công ích ở trung tâm
Đức Thánh Cha nhận xét rằng chính trị thường không được tiếng tốt, và chúng ta biết tại sao. Điều này không muốn nói là tất cả các chính trị gia là xấu xa, tôi không muốn nói như thế. Tôi chỉ muốn nói rằng thật không may là chính trị thường không được tiếng tốt. Tại sao? Nhưng chúng ta không được cam chịu với cái nhìn tiêu cực này, mà hãy phản ứng bằng cách chứng minh bằng những sự việc rằng một nền chính trị tốt là có thể và cần phải có[4], một nền chính trị đặt con người và công ích ở trung tâm. Nếu anh chị em đọc lịch sử của nhân loại, anh chị em sẽ thấy có nhiều chính trị gia thánh thiện, họ đã theo con đường này. Đó là điều có thể được tùy theo mức độ mà mỗi công dân và đặc biệt, những có trách vụ xã hội và chính trị, đặt hành động của họ trên căn bản trên các nguyên tắc đạo đức và linh hoạt nó bằng tình yêu chính trị và xã hội. Các Kitô hữu, đặc biệt là các giáo dân, được mời gọi làm chứng tốt cho điều này và có thể làm được điều này nhờ nhân đức bác ái nuôi dưỡng chiều kích xã hội nội tại của nó.
Mọi người đóng góp cho công ích
Đức Thánh Cha kết thúc bài giáo lý với lời mời gọi: Vì thế đây là lúc làm tăng trưởng tình yêu thương xã hội của chúng ta, bằng sự đóng góp của mọi người, bắt đầu từ sự nhỏ bé của chúng ta. Công ích đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người. Nếu tất cả mọi người đều góp sức của mình vào đó, và nếu không ai bị bỏ rơi, chúng ta sẽ có thể tái tạo mối quan hệ tốt đẹp ở cấp cộng đồng, quốc gia, quốc tế và cũng hài hòa với môi trường (x. LS, 236). Vì vậy, trong những cử chỉ của chúng ta, ngay cả những cử chỉ khiêm tốn nhất, làm cho điều gì đó của hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta mang trong mình trở nên hiển hiện, bởi vì Thiên Chúa là Ba Ngôi, Thiên Chúa là Tình Yêu. Đây là định nghĩa đẹp nhất về Thiên Chúa mà trong Kinh Thánh, thánh Gioan Tông đồ, người được Chúa Giê-su yêu thương rất nhiều, đã định nghĩa. Với sự giúp đỡ của Chúa, chúng ta có thể chữa lành thế giới bằng cách cùng nhau làm việc vì công ích, không chỉ vì ích lợi của tôi nhưng vì ích lợi của tất cả.
[1] Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình 01/01/1977: AAS 68 (1976), 709.
[2] X. thánh GIOAN PHAOLÔ II, TĐ. Những mối quan tâm xã hội, 38.
[3] Sđd, 10.
[4] X. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình 01/01/2019 (08/12/2018).
2020
Bang Queensland của Úc buộc linh mục tiết lộ bí mật tòa giải tội
Ngày 8 tháng 9, cơ quan lập pháp của bang Queensland của Úc đã thông qua dự luật yêu cầu các linh mục vi phạm ấn tín tòa giải tội, phải báo cáo về các vụ lạm dụng tình dục trẻ em mà các ngài đã biết hoặc nghi ngờ. Nếu không làm như vậy sẽ bị phạt ba năm tù.
Không giúp cho sự an toàn của người trẻ
Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge của Brisbane nói rằng việc đòi buộc báo cáo các vụ lạm dụng như vậy sẽ “không tạo ra sự khác biệt đối với sự an toàn của những người trẻ” và dự luật dựa trên “kiến thức nghèo nàn về cách thức bí tích thực sự có hiệu quả trong thực tế”. Ngài đưa ra những câu hỏi về vấn đề tự do tôn giáo.
Tòa Thánh khẳng định tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích giải tội
Tuần trước, các giám mục Úc đã trao cho chính phủ liên bang những nhận định của Tòa thánh về 12 khuyến nghị của báo cáo năm 2017 về lạm dụng tính dục trẻ em trong các cơ sở giáo dục của nước này. Đáp lại một khuyến nghị liên quan đến ấn tín tòa giải tội và việc ban ơn tha tội, Tòa thánh nhắc lại tính bất khả xâm phạm của ấn tín và nói rằng việc tha tội không thể bị điều kiện bởi các hành động trong tương lai ở bên ngoài tòa giải tội.
Dự luật gây nguy hiểm cho lòng tin của công chúng
Stephen Andrew, nghị sĩ Queensland duy nhất của tổ chức Pauline Hanson’s One Nation, nói rằng “dự luật thực sự gây nguy hiểm cho lòng tin của công chúng và sự gắn kết trong cộng đồng của chúng ta”. Ông đặt câu hỏi: “Người dân Queensland có thể tự tin đến mức nào khi họ đang sống trong một môi trường tự do và nền dân chủ mở được quản lý bởi nhà nước pháp quyền, nơi nhà nước giam giữ các giám mục của mình?”
Các bang Victoria, Tasmania, Nam Úc và Lãnh thổ Thủ đô Úc cũng đã thông qua luật buộc các linh mục vi phạm ấn tín tòa giải tội, trong khi các bang New South Wales và Tây Úc ủng hộ luật đó.
Vào tháng 11 năm 2019, các Tổng chưởng lý trong các chính phủ liên bang và tiểu bang của Úc đã đồng ý về các quy tắc báo cáo, theo đó, các linh mục được yêu cầu hoặc vi phạm ấn tín tòa giải tội, hoặc vi phạm các quy tắc bắt buộc báo cáo lạm dụng. Hơn nữa, các linh mục sẽ không thể sử dụng biện pháp bảo vệ thông tin liên lạc đặc quyền trong ấn tín tòa giải tội để tránh đưa ra bằng chứng chống lại bên thứ ba trong các thủ tục tố tụng hình sự hoặc dân sự. (CNA 08/09/2020) Hồng Thủy
2020
Kitô hữu – Người truyền lửa yêu thương của Chúa cho thế giới
Đức Giám mục GB. Bùi Tuần (Gp. Long Xuyên), trong bài viết có tựa đề “Trăn trở về cách giới thiệu Tin Mừng” đã chia sẻ như sau:
“Thực vậy, theo dõi thời sự những dấu chỉ về Nước Trời trong nhân loại nói chung và tại Việt Nam nói riêng, tôi nhận ra nhiều người tốt việc tốt trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chân thiện mỹ không bị nhốt trong ranh giới một dân tộc, một tôn giáo, một nền văn hóa. Khắp nơi vẫn lấp lánh những gương sáng về những giá trị thiêng liêng cao cả, như khiêm nhường, bao dung, tinh thần trách nhiệm, chân thành, trung thực, bác ái, công bình, chiêm niệm, dũng cảm.
Và điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả, đó là con người thời nay không còn dễ được thuyết phục bởi những lý thuyết hứa hẹn, những hội nghị long trọng, những cuộc lễ lớn, những nghi thức và biểu tượng đẹp. Trái lại, yếu tố chinh phục họ nhất chính là những con người sống quyết liệt với những giá trị cao. Họ đi tìm những người như thế. Cái phao đời họ là những người như vậy.
Theo tôi, những người có giá trị cao hơn hết đang được đa số khâm phục chính là những ai luôn phấn đấu tự đào tạo nên người có bản lãnh, biết phân định thực hư, dám từ bỏ mình vì ích chung, đầy lửa thương cảm đối với con người, nhất là đối với kẻ nghèo khổ. Đôi khi tôi có cảm tưởng thứ tình yêu được tô luyện bằng hy sinh có một vận tốc thiêng liêng tựa như ánh sáng, và có thể tạo ra một thứ năng lượng tâm lý khổng lồ.
Chính những người mang lửa đó sẽ góp phần lớn trong việc đổi mới đất nước và Hội Thánh.”[1]
Mỗi Kitô hữu chúng ta là một phần tử của Hội thánh Chúa nên đều được ơn gọi chia sẻ sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh vì bản chất của Hội thánh Chúa Kitô là truyền giáo (Vat II, AG 2).
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, truyền giáo là loan truyền tình thương của Thiên Chúa đến với con người.
Ngài nói: “Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cốt yếu là loan truyền tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được mạc khải cho nhân loại qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó chính là việc loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu chúng ta và muốn mọi dân tộc hiệp nhất trong lòng thương xót yêu thương của Người”[2]
Trong dịp khác, Đức thánh Giáo hoàng cũng nói rằng truyền giáo là chia sẻ quà tặng “Đức Giêsu Kitô” mà Giáo Hội nhận được.
Ngài nhấn mạnh, “Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu Kitô, và Giáo Hội không thể giấu ánh sáng quí báu đức tin dưới cái thùng (Mt 5,15), bởi Giáo Hội có sứ mạng chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. Giáo Hội muốn dâng tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Chúa Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu, khi họ tìm kiếm sự viên mãn của sự sống, để họ có thể hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần”.[3]
Vậy có thể nói rằng, Kitô hữu chúng ta là người có sứ mệnh đem lửa đến trong thế giới mà mình đang sống. Đây là lửa yêu thương, lửa đồng cảm, lửa huynh đệ, lửa tha thứ, lửa chia sẻ, lửa ủi an, lửa hòa bình, lửa tin tưởng, lửa hi vọng, lửa hiệp thông…
Trong thế giới đầy bất an vì hận thù, chia rẽ và tội ác, người Kitô cần mạnh dạn sống và làm chứng Tin Mừng bằng cách biết nói không với vô cảm, biết đem đạo vào đời và hết lòng thực thi bác ái, vì bác ái là một thứ ngôn ngữ đặc thù của việc loan báo Tin Mừng.
1- KITÔ HỮU – NGƯỜI BIẾT NÓI KHÔNG VỚI VÔ CẢM
Ngày nay, khái niệm “Vô cảm” đã trở nên quá quen thuộc đối với mỗi người trong chúng ta. Thông tin báo chí, mạng xã hội đăng tải thường xuyên những câu chuyện về thái độ vô tâm và vô cảm của con người. Vô cảm đã trở thành căn bệnh nghiêm trọng, có sức lây lan mạnh mẽ trong gia đình, trong khu xóm và trong cộng đồng xã hội.
Một bài báo có tựa đề “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tác giả đã viết như sau: “Bệnh vô cảm là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.
Hầu như căn bệnh này ngày càng phát triển nhanh chóng hơn, bởi cuộc sống quá hiện đại, đồng tiền được đưa lên hàng dẫn đầu, lợi ích cá nhân chứ không còn lợi ích của tập thể nữa. Họ thờ ơ với cảm xúc của họ, với những cái đẹp-xấu, thiện-ác, với các hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ. Không đâu xa, thậm chí ngay cả trong gia đình họ hàng còn vô cảm với chính những người thân ruột thịt của họ. Thử hỏi những việc nhỏ nhặt như thế họ còn không để tâm đến thì lấy đâu mà bỏ thời gian công sức của bản thân đi lo lắng những việc tưởng chừng như cao cả nhưng lại rất đỗi giản đơn.”[4]
Người Kitô hữu chúng ta, nếu không khôn ngoan và tỉnh thức, thì cũng dễ rơi vào tình trạng nhiễm bệnh vô cảm một cách mãn tính, tức là khó chữa, khó sửa, khó nhận ra. Ở trong gia đình, con cái vô tâm với cha mẹ, vợ chồng lạnh nhạt với nhau, ông bà cha mẹ không quan tâm tới con cháu. Trong cộng đoàn, chúng ta coi nhau như người dưng nước lã, trong khi Lời Chúa và Hội thánh thì nhắc nhở chúng ta là chi thể trong cùng một Thân Thể thuộc về đầu là Đức Kitô. Trong xã hội, chúng ta dửng dưng trước mọi biến cố, mọi tai họa, mọi đổi thay, mọi đe dọa, mọi bất công, mọi bất hạnh… làm như thể chúng ta là “người ngoài hành tinh” rơi xuống vậy!
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 14-7-2019, dựa trên đoạn Tin Mừng về người Samari nhân hậu, Đức thánh cha Phanxicô đã đề cao tấm gương của lòng thương xót của người Samari này và mời gọi các tín hữu hãy trở nên môn đệ của Chúa qua việc yêu thương anh em, vì yêu tha nhân là yêu Chúa.
Đức thánh cha cũng đã nhắc các tín hữu đừng để mình bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Ngài nói: “Nếu bạn đứng trước một người hoạn nạn mà bạn không có lòng thương xót, nếu trái tim bạn không rung động, thì có nghĩa là có điều gì đó không ổn. Bạn hãy chú ý, chúng ta phải để ý. Đừng để chúng ta bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Khả năng thương xót trở thành hòn đá thử vàng của Kitô hữu, đó là giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha đối với chúng ta. Nếu bạn đi xuống phố và thấy một người đàn ông vô gia cư đang nằm đó, và bạn đi qua mà không hề nhìn anh ta, hoặc có lẽ bạn nghĩ: “Chà, tác dụng của rượu. Một người say rượu”. Đừng tự hỏi xem người đàn ông đó có say không; hãy tự hỏi xem trái tim bạn có bị chai cứng không, trái tim bạn có trở thành băng giá không.”[5]
Linh mục Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP, trong bài viết có tựa “Vô cảm!”, đã chia sẻ như sau:
“Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người ngày càng ít yêu thương nhau, ít quan tâm đến nhau và sâu xa hơn đó là hiện tượng đui mù và câm điếc trước nỗi đau của đồng loại.
Ngày nay, vô cảm dường như đã trở thành một căn bệnh âm ỉ và nhức nhối của xã hội, đồng thời có sức lây nhiễm cao vì nó đang len lỏi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, căn bệnh này không chỉ đơn thuần tồn tại trong một tầng lớp nào nhưng đã trở thành căn bệnh của quần chúng hay có thể nói đó là mặt trái của lối sống hiện đại.
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thái độ dửng dưng vô cảm, một trong những lý do của căn bệnh này xuất phát từ tâm lý “sợ”. Sợ cái ác, sợ kẻ gian, sợ trách nhiệm, sợ liên lụy đến bản thân, sợ bị lừa đảo vv… Vô cảm còn là hậu quả của lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân theo kiểu “không phải chuyện của tôi” ngày càng bám rễ sâu vào hệ tư tưởng của con người ngày nay.
Nhưng thật ra, mầm mống sâu xa của căn bệnh vô cảm chính là cách giáo dục từ trong gia đình. Không ít bậc cha mẹ dạy con theo kiểu triết lý “makeno” (mặc kệ nó) để tránh dính dáng đến người khác, tránh liên lụy bản thân. Triết lý sống này cũng được người lớn áp dụng trong cách cư xử với nhau để được an toàn, thậm chí còn tồn tại thứ “vô cảm thấp hèn” lợi dụng tai họa của người khác để trục lợi cho bản thân. Gần đây, tình trạng “hôi của” trong nhiều vụ tai nạn đã xảy ra cách công khai. Một số người chẳng những không giúp đỡ mà còn lợi dụng cảnh hỗn loạn sau tai nạn để xông vào nhặt ví tiền, tư trang, túi xách… của nạn nhân.
Ngoài ra, bệnh vô cảm còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tương tác lẫn nhau trong xã hội. Trong xã hội hiện đại con người sống quá lý trí, tương quan giữa người với người ngày càng được chuẩn hoá, mọi vấn đề phải được giải quyết rõ ràng, nhưng đôi khi cái lý có thể lấn át cả cái tình. Mặt khác, nếu con người sống trong một xã hội không có một trật tự đúng đắn, họ nhận thấy sự hiện diện cũng như công việc của mình có thể bị đe doạ, thì mỗi cá nhân sẽ hình thành bản lĩnh đối phó và bộc lộ khuynh hướng ích kỷ tiềm tàng. Từ đó tạo điều kiện dung dưỡng căn bệnh vô cảm.
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Từ Bi Thương Xót” đã nói rằng : “Có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương xót). Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”.”[6]
Đạo của Chúa là đạo yêu, do đó bất cứ trong hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải biết nói “Không” với thái độ và lối sống vô cảm. Đại thi hào Voltaire đã nói: “Thiên đàng được tạo ra cho những trái tim nhân hậu, địa ngục được tạo ra cho những trái tim vô cảm”.
2- KITÔ HỮU – CHỨNG NHÂN TIÊU BIỂU CỦA LÒNG MẾN KITÔ GIÁO
Cách đây ít lâu, trên trang Tuổi Trẻ Online (TTO) có đăng bài “Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương”. Bài báo cho biết TP.HCM có một ca đoàn rất thú vị: bỏ tiền túi, cùng nhau tổ chức hàng trăm chuyến đi tới những nơi hẻo lánh, khó khăn nhất, không chỉ mang quà tặng mà còn mang tiếng hát xoa dịu nỗi vất vả, nhọc nhằn của những mảnh đời bất hạnh.
Đó là ca đoàn có cái tên khá đặc biệt: “Thông Vi Vu”- là nghệ danh của Đức cố Giám mục Phan Thiết Giuse Vũ Duy Thống. Ca đoàn do anh NLL, chồng của ca sĩ MT – thành viên nhóm tam ca Áo Trắng – làm đoàn trưởng.
Một đại diện của ca đoàn nói rằng, họ muốn mang đến không khí vui vẻ cho người nghèo khó, muốn xoa dịu sự vất vả, nhọc nhằn của họ, muốn trao tận tay món quà để yên tâm nên mới chịu cực đến tận nơi. Làm thiện nguyện không phải đơn giản cứ móc tiền ra là được. Phải gửi tới được những người thực sự cần thì đồng tiền mình giúp mới ý nghĩa.
Được biết, cho đến nay, ca đoàn đã thực hiện hơn trăm chuyến đi đến những nơi thiệt thòi nhất.
Ca đoàn hiện có hơn trăm ca viên. Đặc biệt, trong số các thành viên có những người của tôn giáo bạn: Phật giáo, Cao Đài… Ca đoàn quy tụ nhiều thành phần gồm doanh nhân, công nhân, công chức, giáo viên, bác sĩ và những bạn sinh viên… Và hiện có hơn 20 thành viên đang sinh sống ở nước ngoài, không còn sinh hoạt nhưng vẫn theo dõi các hoạt động của ca đoàn, thường xuyên ủng hộ vật chất mỗi khi ca đoàn có chuyến đi thiện nguyện vùng sâu vùng xa.
Mỗi tháng, các thành viên tự nguyện đóng vào quỹ sinh hoạt bác ái hai trăm nghìn đồng. Nhờ nguồn tiền ấy, đã có hơn trăm chuyến đi trong suốt nhiều năm qua tới những vùng hẻo lánh, khó khăn nhất của đất nước không chỉ để hát thánh ca mà còn kết hợp làm việc bác ái xã hội.
Có những nơi, từ nhà thờ lên các buôn làng, mọi người phải đi bộ tiếp hàng tiếng đồng hồ. Đường đồi núi lại sình lầy, trơn trượt. Mọi người phải chuyền tay nhau từng thùng quà suốt đoạn đường dài mấy kilomet. Ngoài ra, ca đoàn còn tổ chức các buổi phát thuốc, khám chữa bệnh miễn phí và hớt tóc cho các bé trong buôn làng.
Anh đoàn trưởng ca đoàn đã tâm sự: “Tôi xuất thân từ một đứa trẻ đường phố, thấu hiểu được nỗi xót xa đau khổ của sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, đã từng ước mơ và khao khát có ai đó quan tâm đến mình dù chỉ là một lời an ủi hay một mẩu bánh thừa, may mắn là bây giờ tôi đã tìm được những người anh em đồng cảm với mình để cùng tạo niềm vui cho nhau qua những việc làm sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh hơn mình”.[7]
Quả thực, các thành viên trong ca đoàn kể trên đã là những chứng nhân tiêu biểu của lòng mến Kitô giáo. Hát thánh ca cũng là phục vụ, nhưng làm việc thiện nguyện càng làm nỗi vượt sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nhiệm vụ truyền giáo của mỗi người chúng ta.
Chúng ta biết rằng một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái.
Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.
Ngạn ngữ La-tinh có câu “Amor vincit omnia”, nghĩa là lòng yêu mến/ tình yêu chiến thắng tất cả. Thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh về mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại: “Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Yêu đến hơi thở cuối cùng, yêu đến nỗi chấp nhận hủy mình ra không, yêu mà không còn giữ lại cái gì cho mình kể cả mạng sống, yêu tuyệt đối và tận cùng…không có tình yêu nào lớn hơn!
Khi dịch Covid-19 xảy ra (khoảng tháng 12-2019), rất nhiều người trong chúng ta hoảng sợ, chạy trốn vì nó quá kinh khủng, nó lây lan rất nhanh, từ người qua người và tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên không phải ai cũng lo sợ và chạy trốn nó.
Theo tin cho biết, tính đến ngày 15-4-2020, ước tính có 109 linh mục ở Ý đã chết vì Covid-19, nhiều vị trong số đó đã bị nhiễm virus từ những bệnh nhân mà các ngài phục vụ.
Trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm 2020, Đức thánh cha Phanxicô đã tôn vinh các linh mục này như “những vị thánh” bên cạnh chúng ta.
Theo tờ New York Times, các linh mục và tu sĩ, “đặc biệt là các vị ở những khu vực bị nhiễm virus corona nặng như Bergamo, đã mạo hiểm cuộc sống của họ, để đáp ứng nhu cầu tâm linh cho các tín hữu sùng đạo và lớn tuổi, vốn bị virus corona tấn công mạnh nhất”.
Chỉ riêng Giáo phận Bergamo đã mất 24 linh mục trong vòng 20 ngày. Khoảng một nửa trong số đó là các linh mục đã nghỉ hưu, nửa còn lại là các linh mục đang hoạt động. Số linh mục còn sống vẫn tiếp tục mục vụ chăm sóc cho các bệnh nhân. Theo tờ Times, các linh mục này “buồn lòng vì không thể đến gần các bệnh nhân, buồn vì thấy cảm giác cuối cùng mà người tín hữu cảm nhận được là một cái chạm với đôi găng tay, và buồn vì gương mặt cuối cùng mà các bệnh nhân nhìn được là gương mặt trong điện thoại”. Cũng theo báo Times, “Virus corona đã tách biệt vợ chồng, con cái trong một gia đình, rồi giết chết họ. Vì thế, các linh mục này rất đau đớn khi phải xa cách đàn chiên trong lúc các con chiên đang rất cần các ngài”.
Đức Giám mục của Bergamo, Francesco Beschi, cho biết: “Rất nhiều linh mục đã chấp nhận nguy hiểm để gần gũi với đàn chiên của mình. Con số lớn các linh mục bị nhiễm virus là một dấu chứng rõ ràng của sự gần gũi, của sự chia sẻ trong đau khổ với đàn chiên”.
Avvenire, tờ báo chính thức của các giám mục Ý, đã xác định một số đặc điểm chung của các linh mục đã chết như sau:
“Hầu hết các linh mục đã chết do nhiễm virus corona là vì các ngài vẫn ở giữa mọi người thay vì tự cứu chính mình. Các ngài cố gắng ở lại lâu dài với đàn chiên để phục vụ như những người gìn giữ các ký ức được chia sẻ, đó là một sự tham dự vào dòng chảy của chứng tá và các giá trị qua các thế hệ”.
Sự hiện diện của các mục tử “thật quý giá và không thể thiếu, các tín hữu khám phá ra điều đó đặc biệt trong hoàn cảnh bị cách ly, và khi cái chết đã cướp đi khỏi họ những vị mục tử luôn chân tình, gần gũi và sẵn sàng hiến thân vì họ”.[8]
Những gương sáng về sự hy sinh quên mình phục vụ bất chấp sự nguy hiểm tột cùng của virus corona thì rất nhiều không sao kể hết. Bên cạnh những người mà chúng ta biết được, còn có rất nhiều tấm gương khác, đó là những người sống âm thầm, phục vụ âm thầm và chết âm thầm.
Quả thực, lòng mến đã không bị “cách ly” bởi dịch bệnh, như lời thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35) ./.
[1] GM GB. Bùi Tuần – Làm chứng cho Đức Ki-tô tới tận cùng trái đất – Long Xuyên năm 2000 trang 39-40
[2] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2000, tại https://daminhtamhiep.net/2020/05/su-diep-cua-dtc-gioan-phaolo-ii-cho-ngay-the-gioi-truyen-giao-2000/, truy cập 31.8.2020
[3] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 10, tại https://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/achau1.htm, truy cập 31.8.2020
[4] “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tại https://wikicachlam.com/can-benh-vo-cam-trong-xa-hoi-hien-nay/, truy cập ngày 31.8.2020
[5] ĐTC Phanxicô, “Đừng để mình bị sự vô cảm, ích kỷ lôi kéo”, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-07/dtc-phanxico-kinh-truyen-tin-samari-nhan-hau.html, truy cập ngày 31.8.2020
[6] Linh mục Nguyễn Trọng Viễn O.P., “Vô cảm”, tại http://conggiao.info/vo-cam-d-45223, truy cập ngày 31.8.2020
[7] My Lăng, Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương, https://tuoitre.vn/ca-doan-vi-vu-khap-noi-de-lan-toa-yeu-thuong-20200824085033072.htm, truy cập ngày 31.8.2020
[8] John Burger, “109 linh mục Ý chết vì virus corona”, tại https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/109-linh-muc-y-chet-vi-virus-corona-39681, truy cập ngày 31.8.2020
Aug. Trần Cao Khải