2020
Bang Queensland của Úc buộc linh mục tiết lộ bí mật tòa giải tội
Ngày 8 tháng 9, cơ quan lập pháp của bang Queensland của Úc đã thông qua dự luật yêu cầu các linh mục vi phạm ấn tín tòa giải tội, phải báo cáo về các vụ lạm dụng tình dục trẻ em mà các ngài đã biết hoặc nghi ngờ. Nếu không làm như vậy sẽ bị phạt ba năm tù.
Không giúp cho sự an toàn của người trẻ
Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge của Brisbane nói rằng việc đòi buộc báo cáo các vụ lạm dụng như vậy sẽ “không tạo ra sự khác biệt đối với sự an toàn của những người trẻ” và dự luật dựa trên “kiến thức nghèo nàn về cách thức bí tích thực sự có hiệu quả trong thực tế”. Ngài đưa ra những câu hỏi về vấn đề tự do tôn giáo.
Tòa Thánh khẳng định tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích giải tội
Tuần trước, các giám mục Úc đã trao cho chính phủ liên bang những nhận định của Tòa thánh về 12 khuyến nghị của báo cáo năm 2017 về lạm dụng tính dục trẻ em trong các cơ sở giáo dục của nước này. Đáp lại một khuyến nghị liên quan đến ấn tín tòa giải tội và việc ban ơn tha tội, Tòa thánh nhắc lại tính bất khả xâm phạm của ấn tín và nói rằng việc tha tội không thể bị điều kiện bởi các hành động trong tương lai ở bên ngoài tòa giải tội.
Dự luật gây nguy hiểm cho lòng tin của công chúng
Stephen Andrew, nghị sĩ Queensland duy nhất của tổ chức Pauline Hanson’s One Nation, nói rằng “dự luật thực sự gây nguy hiểm cho lòng tin của công chúng và sự gắn kết trong cộng đồng của chúng ta”. Ông đặt câu hỏi: “Người dân Queensland có thể tự tin đến mức nào khi họ đang sống trong một môi trường tự do và nền dân chủ mở được quản lý bởi nhà nước pháp quyền, nơi nhà nước giam giữ các giám mục của mình?”
Các bang Victoria, Tasmania, Nam Úc và Lãnh thổ Thủ đô Úc cũng đã thông qua luật buộc các linh mục vi phạm ấn tín tòa giải tội, trong khi các bang New South Wales và Tây Úc ủng hộ luật đó.
Vào tháng 11 năm 2019, các Tổng chưởng lý trong các chính phủ liên bang và tiểu bang của Úc đã đồng ý về các quy tắc báo cáo, theo đó, các linh mục được yêu cầu hoặc vi phạm ấn tín tòa giải tội, hoặc vi phạm các quy tắc bắt buộc báo cáo lạm dụng. Hơn nữa, các linh mục sẽ không thể sử dụng biện pháp bảo vệ thông tin liên lạc đặc quyền trong ấn tín tòa giải tội để tránh đưa ra bằng chứng chống lại bên thứ ba trong các thủ tục tố tụng hình sự hoặc dân sự. (CNA 08/09/2020) Hồng Thủy
2020
Kitô hữu – Người truyền lửa yêu thương của Chúa cho thế giới
Đức Giám mục GB. Bùi Tuần (Gp. Long Xuyên), trong bài viết có tựa đề “Trăn trở về cách giới thiệu Tin Mừng” đã chia sẻ như sau:
“Thực vậy, theo dõi thời sự những dấu chỉ về Nước Trời trong nhân loại nói chung và tại Việt Nam nói riêng, tôi nhận ra nhiều người tốt việc tốt trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chân thiện mỹ không bị nhốt trong ranh giới một dân tộc, một tôn giáo, một nền văn hóa. Khắp nơi vẫn lấp lánh những gương sáng về những giá trị thiêng liêng cao cả, như khiêm nhường, bao dung, tinh thần trách nhiệm, chân thành, trung thực, bác ái, công bình, chiêm niệm, dũng cảm.
Và điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả, đó là con người thời nay không còn dễ được thuyết phục bởi những lý thuyết hứa hẹn, những hội nghị long trọng, những cuộc lễ lớn, những nghi thức và biểu tượng đẹp. Trái lại, yếu tố chinh phục họ nhất chính là những con người sống quyết liệt với những giá trị cao. Họ đi tìm những người như thế. Cái phao đời họ là những người như vậy.
Theo tôi, những người có giá trị cao hơn hết đang được đa số khâm phục chính là những ai luôn phấn đấu tự đào tạo nên người có bản lãnh, biết phân định thực hư, dám từ bỏ mình vì ích chung, đầy lửa thương cảm đối với con người, nhất là đối với kẻ nghèo khổ. Đôi khi tôi có cảm tưởng thứ tình yêu được tô luyện bằng hy sinh có một vận tốc thiêng liêng tựa như ánh sáng, và có thể tạo ra một thứ năng lượng tâm lý khổng lồ.
Chính những người mang lửa đó sẽ góp phần lớn trong việc đổi mới đất nước và Hội Thánh.”[1]
Mỗi Kitô hữu chúng ta là một phần tử của Hội thánh Chúa nên đều được ơn gọi chia sẻ sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh vì bản chất của Hội thánh Chúa Kitô là truyền giáo (Vat II, AG 2).
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, truyền giáo là loan truyền tình thương của Thiên Chúa đến với con người.
Ngài nói: “Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cốt yếu là loan truyền tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được mạc khải cho nhân loại qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó chính là việc loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu chúng ta và muốn mọi dân tộc hiệp nhất trong lòng thương xót yêu thương của Người”[2]
Trong dịp khác, Đức thánh Giáo hoàng cũng nói rằng truyền giáo là chia sẻ quà tặng “Đức Giêsu Kitô” mà Giáo Hội nhận được.
Ngài nhấn mạnh, “Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu Kitô, và Giáo Hội không thể giấu ánh sáng quí báu đức tin dưới cái thùng (Mt 5,15), bởi Giáo Hội có sứ mạng chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. Giáo Hội muốn dâng tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Chúa Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu, khi họ tìm kiếm sự viên mãn của sự sống, để họ có thể hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần”.[3]
Vậy có thể nói rằng, Kitô hữu chúng ta là người có sứ mệnh đem lửa đến trong thế giới mà mình đang sống. Đây là lửa yêu thương, lửa đồng cảm, lửa huynh đệ, lửa tha thứ, lửa chia sẻ, lửa ủi an, lửa hòa bình, lửa tin tưởng, lửa hi vọng, lửa hiệp thông…
Trong thế giới đầy bất an vì hận thù, chia rẽ và tội ác, người Kitô cần mạnh dạn sống và làm chứng Tin Mừng bằng cách biết nói không với vô cảm, biết đem đạo vào đời và hết lòng thực thi bác ái, vì bác ái là một thứ ngôn ngữ đặc thù của việc loan báo Tin Mừng.
1- KITÔ HỮU – NGƯỜI BIẾT NÓI KHÔNG VỚI VÔ CẢM
Ngày nay, khái niệm “Vô cảm” đã trở nên quá quen thuộc đối với mỗi người trong chúng ta. Thông tin báo chí, mạng xã hội đăng tải thường xuyên những câu chuyện về thái độ vô tâm và vô cảm của con người. Vô cảm đã trở thành căn bệnh nghiêm trọng, có sức lây lan mạnh mẽ trong gia đình, trong khu xóm và trong cộng đồng xã hội.
Một bài báo có tựa đề “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tác giả đã viết như sau: “Bệnh vô cảm là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.
Hầu như căn bệnh này ngày càng phát triển nhanh chóng hơn, bởi cuộc sống quá hiện đại, đồng tiền được đưa lên hàng dẫn đầu, lợi ích cá nhân chứ không còn lợi ích của tập thể nữa. Họ thờ ơ với cảm xúc của họ, với những cái đẹp-xấu, thiện-ác, với các hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ. Không đâu xa, thậm chí ngay cả trong gia đình họ hàng còn vô cảm với chính những người thân ruột thịt của họ. Thử hỏi những việc nhỏ nhặt như thế họ còn không để tâm đến thì lấy đâu mà bỏ thời gian công sức của bản thân đi lo lắng những việc tưởng chừng như cao cả nhưng lại rất đỗi giản đơn.”[4]
Người Kitô hữu chúng ta, nếu không khôn ngoan và tỉnh thức, thì cũng dễ rơi vào tình trạng nhiễm bệnh vô cảm một cách mãn tính, tức là khó chữa, khó sửa, khó nhận ra. Ở trong gia đình, con cái vô tâm với cha mẹ, vợ chồng lạnh nhạt với nhau, ông bà cha mẹ không quan tâm tới con cháu. Trong cộng đoàn, chúng ta coi nhau như người dưng nước lã, trong khi Lời Chúa và Hội thánh thì nhắc nhở chúng ta là chi thể trong cùng một Thân Thể thuộc về đầu là Đức Kitô. Trong xã hội, chúng ta dửng dưng trước mọi biến cố, mọi tai họa, mọi đổi thay, mọi đe dọa, mọi bất công, mọi bất hạnh… làm như thể chúng ta là “người ngoài hành tinh” rơi xuống vậy!
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 14-7-2019, dựa trên đoạn Tin Mừng về người Samari nhân hậu, Đức thánh cha Phanxicô đã đề cao tấm gương của lòng thương xót của người Samari này và mời gọi các tín hữu hãy trở nên môn đệ của Chúa qua việc yêu thương anh em, vì yêu tha nhân là yêu Chúa.
Đức thánh cha cũng đã nhắc các tín hữu đừng để mình bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Ngài nói: “Nếu bạn đứng trước một người hoạn nạn mà bạn không có lòng thương xót, nếu trái tim bạn không rung động, thì có nghĩa là có điều gì đó không ổn. Bạn hãy chú ý, chúng ta phải để ý. Đừng để chúng ta bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Khả năng thương xót trở thành hòn đá thử vàng của Kitô hữu, đó là giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha đối với chúng ta. Nếu bạn đi xuống phố và thấy một người đàn ông vô gia cư đang nằm đó, và bạn đi qua mà không hề nhìn anh ta, hoặc có lẽ bạn nghĩ: “Chà, tác dụng của rượu. Một người say rượu”. Đừng tự hỏi xem người đàn ông đó có say không; hãy tự hỏi xem trái tim bạn có bị chai cứng không, trái tim bạn có trở thành băng giá không.”[5]
Linh mục Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP, trong bài viết có tựa “Vô cảm!”, đã chia sẻ như sau:
“Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người ngày càng ít yêu thương nhau, ít quan tâm đến nhau và sâu xa hơn đó là hiện tượng đui mù và câm điếc trước nỗi đau của đồng loại.
Ngày nay, vô cảm dường như đã trở thành một căn bệnh âm ỉ và nhức nhối của xã hội, đồng thời có sức lây nhiễm cao vì nó đang len lỏi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, căn bệnh này không chỉ đơn thuần tồn tại trong một tầng lớp nào nhưng đã trở thành căn bệnh của quần chúng hay có thể nói đó là mặt trái của lối sống hiện đại.
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thái độ dửng dưng vô cảm, một trong những lý do của căn bệnh này xuất phát từ tâm lý “sợ”. Sợ cái ác, sợ kẻ gian, sợ trách nhiệm, sợ liên lụy đến bản thân, sợ bị lừa đảo vv… Vô cảm còn là hậu quả của lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân theo kiểu “không phải chuyện của tôi” ngày càng bám rễ sâu vào hệ tư tưởng của con người ngày nay.
Nhưng thật ra, mầm mống sâu xa của căn bệnh vô cảm chính là cách giáo dục từ trong gia đình. Không ít bậc cha mẹ dạy con theo kiểu triết lý “makeno” (mặc kệ nó) để tránh dính dáng đến người khác, tránh liên lụy bản thân. Triết lý sống này cũng được người lớn áp dụng trong cách cư xử với nhau để được an toàn, thậm chí còn tồn tại thứ “vô cảm thấp hèn” lợi dụng tai họa của người khác để trục lợi cho bản thân. Gần đây, tình trạng “hôi của” trong nhiều vụ tai nạn đã xảy ra cách công khai. Một số người chẳng những không giúp đỡ mà còn lợi dụng cảnh hỗn loạn sau tai nạn để xông vào nhặt ví tiền, tư trang, túi xách… của nạn nhân.
Ngoài ra, bệnh vô cảm còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tương tác lẫn nhau trong xã hội. Trong xã hội hiện đại con người sống quá lý trí, tương quan giữa người với người ngày càng được chuẩn hoá, mọi vấn đề phải được giải quyết rõ ràng, nhưng đôi khi cái lý có thể lấn át cả cái tình. Mặt khác, nếu con người sống trong một xã hội không có một trật tự đúng đắn, họ nhận thấy sự hiện diện cũng như công việc của mình có thể bị đe doạ, thì mỗi cá nhân sẽ hình thành bản lĩnh đối phó và bộc lộ khuynh hướng ích kỷ tiềm tàng. Từ đó tạo điều kiện dung dưỡng căn bệnh vô cảm.
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Từ Bi Thương Xót” đã nói rằng : “Có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương xót). Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”.”[6]
Đạo của Chúa là đạo yêu, do đó bất cứ trong hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải biết nói “Không” với thái độ và lối sống vô cảm. Đại thi hào Voltaire đã nói: “Thiên đàng được tạo ra cho những trái tim nhân hậu, địa ngục được tạo ra cho những trái tim vô cảm”.
2- KITÔ HỮU – CHỨNG NHÂN TIÊU BIỂU CỦA LÒNG MẾN KITÔ GIÁO
Cách đây ít lâu, trên trang Tuổi Trẻ Online (TTO) có đăng bài “Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương”. Bài báo cho biết TP.HCM có một ca đoàn rất thú vị: bỏ tiền túi, cùng nhau tổ chức hàng trăm chuyến đi tới những nơi hẻo lánh, khó khăn nhất, không chỉ mang quà tặng mà còn mang tiếng hát xoa dịu nỗi vất vả, nhọc nhằn của những mảnh đời bất hạnh.
Đó là ca đoàn có cái tên khá đặc biệt: “Thông Vi Vu”- là nghệ danh của Đức cố Giám mục Phan Thiết Giuse Vũ Duy Thống. Ca đoàn do anh NLL, chồng của ca sĩ MT – thành viên nhóm tam ca Áo Trắng – làm đoàn trưởng.
Một đại diện của ca đoàn nói rằng, họ muốn mang đến không khí vui vẻ cho người nghèo khó, muốn xoa dịu sự vất vả, nhọc nhằn của họ, muốn trao tận tay món quà để yên tâm nên mới chịu cực đến tận nơi. Làm thiện nguyện không phải đơn giản cứ móc tiền ra là được. Phải gửi tới được những người thực sự cần thì đồng tiền mình giúp mới ý nghĩa.
Được biết, cho đến nay, ca đoàn đã thực hiện hơn trăm chuyến đi đến những nơi thiệt thòi nhất.
Ca đoàn hiện có hơn trăm ca viên. Đặc biệt, trong số các thành viên có những người của tôn giáo bạn: Phật giáo, Cao Đài… Ca đoàn quy tụ nhiều thành phần gồm doanh nhân, công nhân, công chức, giáo viên, bác sĩ và những bạn sinh viên… Và hiện có hơn 20 thành viên đang sinh sống ở nước ngoài, không còn sinh hoạt nhưng vẫn theo dõi các hoạt động của ca đoàn, thường xuyên ủng hộ vật chất mỗi khi ca đoàn có chuyến đi thiện nguyện vùng sâu vùng xa.
Mỗi tháng, các thành viên tự nguyện đóng vào quỹ sinh hoạt bác ái hai trăm nghìn đồng. Nhờ nguồn tiền ấy, đã có hơn trăm chuyến đi trong suốt nhiều năm qua tới những vùng hẻo lánh, khó khăn nhất của đất nước không chỉ để hát thánh ca mà còn kết hợp làm việc bác ái xã hội.
Có những nơi, từ nhà thờ lên các buôn làng, mọi người phải đi bộ tiếp hàng tiếng đồng hồ. Đường đồi núi lại sình lầy, trơn trượt. Mọi người phải chuyền tay nhau từng thùng quà suốt đoạn đường dài mấy kilomet. Ngoài ra, ca đoàn còn tổ chức các buổi phát thuốc, khám chữa bệnh miễn phí và hớt tóc cho các bé trong buôn làng.
Anh đoàn trưởng ca đoàn đã tâm sự: “Tôi xuất thân từ một đứa trẻ đường phố, thấu hiểu được nỗi xót xa đau khổ của sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, đã từng ước mơ và khao khát có ai đó quan tâm đến mình dù chỉ là một lời an ủi hay một mẩu bánh thừa, may mắn là bây giờ tôi đã tìm được những người anh em đồng cảm với mình để cùng tạo niềm vui cho nhau qua những việc làm sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh hơn mình”.[7]
Quả thực, các thành viên trong ca đoàn kể trên đã là những chứng nhân tiêu biểu của lòng mến Kitô giáo. Hát thánh ca cũng là phục vụ, nhưng làm việc thiện nguyện càng làm nỗi vượt sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nhiệm vụ truyền giáo của mỗi người chúng ta.
Chúng ta biết rằng một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái.
Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.
Ngạn ngữ La-tinh có câu “Amor vincit omnia”, nghĩa là lòng yêu mến/ tình yêu chiến thắng tất cả. Thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh về mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại: “Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Yêu đến hơi thở cuối cùng, yêu đến nỗi chấp nhận hủy mình ra không, yêu mà không còn giữ lại cái gì cho mình kể cả mạng sống, yêu tuyệt đối và tận cùng…không có tình yêu nào lớn hơn!
Khi dịch Covid-19 xảy ra (khoảng tháng 12-2019), rất nhiều người trong chúng ta hoảng sợ, chạy trốn vì nó quá kinh khủng, nó lây lan rất nhanh, từ người qua người và tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên không phải ai cũng lo sợ và chạy trốn nó.
Theo tin cho biết, tính đến ngày 15-4-2020, ước tính có 109 linh mục ở Ý đã chết vì Covid-19, nhiều vị trong số đó đã bị nhiễm virus từ những bệnh nhân mà các ngài phục vụ.
Trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm 2020, Đức thánh cha Phanxicô đã tôn vinh các linh mục này như “những vị thánh” bên cạnh chúng ta.
Theo tờ New York Times, các linh mục và tu sĩ, “đặc biệt là các vị ở những khu vực bị nhiễm virus corona nặng như Bergamo, đã mạo hiểm cuộc sống của họ, để đáp ứng nhu cầu tâm linh cho các tín hữu sùng đạo và lớn tuổi, vốn bị virus corona tấn công mạnh nhất”.
Chỉ riêng Giáo phận Bergamo đã mất 24 linh mục trong vòng 20 ngày. Khoảng một nửa trong số đó là các linh mục đã nghỉ hưu, nửa còn lại là các linh mục đang hoạt động. Số linh mục còn sống vẫn tiếp tục mục vụ chăm sóc cho các bệnh nhân. Theo tờ Times, các linh mục này “buồn lòng vì không thể đến gần các bệnh nhân, buồn vì thấy cảm giác cuối cùng mà người tín hữu cảm nhận được là một cái chạm với đôi găng tay, và buồn vì gương mặt cuối cùng mà các bệnh nhân nhìn được là gương mặt trong điện thoại”. Cũng theo báo Times, “Virus corona đã tách biệt vợ chồng, con cái trong một gia đình, rồi giết chết họ. Vì thế, các linh mục này rất đau đớn khi phải xa cách đàn chiên trong lúc các con chiên đang rất cần các ngài”.
Đức Giám mục của Bergamo, Francesco Beschi, cho biết: “Rất nhiều linh mục đã chấp nhận nguy hiểm để gần gũi với đàn chiên của mình. Con số lớn các linh mục bị nhiễm virus là một dấu chứng rõ ràng của sự gần gũi, của sự chia sẻ trong đau khổ với đàn chiên”.
Avvenire, tờ báo chính thức của các giám mục Ý, đã xác định một số đặc điểm chung của các linh mục đã chết như sau:
“Hầu hết các linh mục đã chết do nhiễm virus corona là vì các ngài vẫn ở giữa mọi người thay vì tự cứu chính mình. Các ngài cố gắng ở lại lâu dài với đàn chiên để phục vụ như những người gìn giữ các ký ức được chia sẻ, đó là một sự tham dự vào dòng chảy của chứng tá và các giá trị qua các thế hệ”.
Sự hiện diện của các mục tử “thật quý giá và không thể thiếu, các tín hữu khám phá ra điều đó đặc biệt trong hoàn cảnh bị cách ly, và khi cái chết đã cướp đi khỏi họ những vị mục tử luôn chân tình, gần gũi và sẵn sàng hiến thân vì họ”.[8]
Những gương sáng về sự hy sinh quên mình phục vụ bất chấp sự nguy hiểm tột cùng của virus corona thì rất nhiều không sao kể hết. Bên cạnh những người mà chúng ta biết được, còn có rất nhiều tấm gương khác, đó là những người sống âm thầm, phục vụ âm thầm và chết âm thầm.
Quả thực, lòng mến đã không bị “cách ly” bởi dịch bệnh, như lời thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35) ./.
[1] GM GB. Bùi Tuần – Làm chứng cho Đức Ki-tô tới tận cùng trái đất – Long Xuyên năm 2000 trang 39-40
[2] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2000, tại https://daminhtamhiep.net/2020/05/su-diep-cua-dtc-gioan-phaolo-ii-cho-ngay-the-gioi-truyen-giao-2000/, truy cập 31.8.2020
[3] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 10, tại https://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/achau1.htm, truy cập 31.8.2020
[4] “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tại https://wikicachlam.com/can-benh-vo-cam-trong-xa-hoi-hien-nay/, truy cập ngày 31.8.2020
[5] ĐTC Phanxicô, “Đừng để mình bị sự vô cảm, ích kỷ lôi kéo”, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-07/dtc-phanxico-kinh-truyen-tin-samari-nhan-hau.html, truy cập ngày 31.8.2020
[6] Linh mục Nguyễn Trọng Viễn O.P., “Vô cảm”, tại http://conggiao.info/vo-cam-d-45223, truy cập ngày 31.8.2020
[7] My Lăng, Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương, https://tuoitre.vn/ca-doan-vi-vu-khap-noi-de-lan-toa-yeu-thuong-20200824085033072.htm, truy cập ngày 31.8.2020
[8] John Burger, “109 linh mục Ý chết vì virus corona”, tại https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/109-linh-muc-y-chet-vi-virus-corona-39681, truy cập ngày 31.8.2020
Aug. Trần Cao Khải
2020
Trốn chạy khỏi thập giá là “cớ vấp phạm”
Trốn chạy khỏi thập giá là “cớ vấp phạm”
Trưa Chúa nhật 30/8, từ cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và khách hành hương. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha diễn giải ý nghĩa Tin Mừng Chúa nhật XXII thường niên năm A, về việc Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Ngài và khiển trách Thánh Phêrô vì đã ngăn cản Ngài thực hiện Thánh ý Chúa Cha.
Không hiểu Chúa vì tư tưởng còn theo thế gian
Trước hết, Đức Thánh Cha nói đến sự nối kết Tin Mừng Chúa nhật XXII với Chúa nhật tuần trước: “Sau khi Thánh Phêrô đại diện các môn đệ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa, thì chính Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các ông biết cuộc khổ nạn của Ngài. Suốt hành trình tiến về Giêrusalem, Chúa giải thích cách công khai cho các bạn hữu những gì đang đợi Chúa ở thành thánh. Chúa loan báo trước mầu nhiệm chết và phục sinh, sỉ nhục và vinh quang của Ngài. Chúa nói Ngài sẽ ‘phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại’ (Mt 16,21). Nhưng các môn đệ không hiểu những lời Chúa nói với các ông, bởi vì đức tin của các ông chưa được trưởng thành và tâm trí của các ông còn theo thế gian. Các ông nghĩ về một chiến thắng quá trần tục, và vì thế các ông không hiểu ngôn ngữ của thập giá”.
Trốn chạy khỏi thập giá là ‘cớ vấp phạm’
Tiếp đến, Đức Thánh Cha nói về phản ứng của Thánh Phêrô trước những lời loan báo của Chúa Giêsu: “Trước viễn cảnh có thể xảy ra đối với Chúa về sự thất bại và cái chết trên thập giá, Thánh Phêrô tỏ thái độ phản đối: ‘Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!’” (Mt 16, 22). Đức Thánh Cha giải thích thái độ này của Thánh Phêrô: “Ông tin vào Chúa Giêsu, muốn theo Chúa, nhưng không chấp nhận vinh quang của Ngài qua cuộc khổ nạn. Đối với Thánh Phêrô và các môn đệ khác – nhưng cả chúng ta – thập giá là ‘cớ vấp phạm’, trong khi Chúa coi việc trốn chạy khỏi thập giá là ‘cớ vấp phạm’, nghĩa là trốn chạy khỏi ý Chúa Cha, khỏi sứ vụ mà Cha đã giao phó cho Ngài vì ơn cứu độ chúng ta. Vì điều này, Chúa trả lời Phêrô: ‘Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’ (Mt 16,23)”.
Đức Thánh Cha nhận xét: “Mười phút trước đó, Chúa Giêsu khen ngợi và hứa làm cho Thánh Phêrô trở thành nền tảng của Giáo hội Ngài; mười phút sau Ngài gọi ông là Xatan. Làm sao chúng ta hiểu được điều này? Đây cũng là điều xảy đến cho tất cả chúng ta. Trong lúc sốt sắng, nhiệt thành chúng ta nhìn theo Chúa Giêsu và tiến bước; nhưng trong lúc chúng ta gặp thập giá, chúng ta chạy trốn. Chúa Giêsu nói Xatan cám dỗ chúng ta. Chính thần dữ, ma quỷ làm chúng ta rời xa thập giá.
Theo Chúa là từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo Ngài
Tới đây, hướng về tất cả, Chúa nói thêm: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Theo cách này, Chúa chỉ ra con đường dành cho các môn đệ, thể hiện qua hai thái độ. Trước tiên là ‘từ bỏ chính mình’. Điều này không có nghĩa là một sự thay đổi bên ngoài, nhưng là một sự hoán cải, một sự thay đổi hoàn toàn các giá trị. Và thái độ thứ hai là ‘vác thập giá mình mà theo’.
Đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, đức tin và trách nhiệm
Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu chú ý rằng điều này không chỉ là việc chịu những đau khổ hàng ngày cách kiên nhẫn, nhưng mang nó với đức tin và trách nhiệm. Như thế, ‘vác thập giá’ trở thành việc tham dự với Đức Kitô cho ơn cứu độ thế giới. Hãy nghĩ về điều này, Thánh giá mà chúng ta treo trên tường, hoặc Thánh giá nhỏ mà chúng ta đeo nơi cổ, là dấu chỉ cho thấy chúng ta muốn kết hợp với Chúa Kitô trong sự phục vụ phục vụ anh chị em với tình thương, đặc biệt là những người nhỏ bé và mong manh nhất. Thánh giá là một dấu hiệu thánh của Tình yêu Thiên Chúa và của Hy sinh của Chúa Giêsu, và không được giảm xuống biến thành một đối tượng mê tín hoặc một đồ trang sức. Mỗi khi chăm chú nhìn vào hình ảnh Chúa Kitô bị đóng đinh, chúng ta nghĩ rằng Người, là Tôi tớ đích thực của Thiên Chúa, đã hoàn thành sứ mạng của mình bằng cách trao ban sự sống, đổ máu để tha thứ tội. Do đó, nếu chúng ta muốn trở thành môn đệ của Người, chúng ta được mời gọi noi gương Người, hiến dâng cuộc sống vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng kết hợp với Con của Mẹ trên đồi Canvê, giúp chúng ta không lùi bước trước những thử thách và đau khổ mà chứng tá Tin Mừng phải đối diện.
—
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nhắc đến Ngày Thế giới Chăm sóc Thụ tạo 01/9/2020: Từ ngày 01/9 đến ngày 4/10, chúng ta sẽ cử hành “Năm Thánh của Trái đất”, để nhớ lại việc thành lập ngày này cách đây 50 năm của các anh chị em Kitô thuộc các Giáo hội và truyền thống khác nhau. Tôi chào mừng các sáng kiến được thúc đẩy trên khắp thế giới về chủ đề này, và một trong số đó là buổi Hòa nhạc diễn ra hôm nay tại nhà thờ chính tòa Port-Louis, thủ đô Mauritius, nơi không may mới xảy ra một thảm họa môi trường.
Sau cùng, Đức Thánh Cha chúc mọi người một ngày Chúa nhật an bình và xin mọi người cầu nguyện cho ngài.
Ngọc Yến
2020
Vatican xác nhận Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020 sẽ vẫn được cử hành vào ngày 18/10
Ngày 28 tháng 8, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc đã xóa bỏ những nghi ngờ cho rằng Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020 này sẽ được hoãn lại. Bộ xác nhận rằng Ngày này vẫn sẽ được cử hành như thường lệ vào ngày 18 tháng 10.
Trong thông cáo báo chí, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc cho biết: “Đáp lại một số yêu cầu về việc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc xác nhận rằng năm nay Ngày Thế giới Truyền giáo sẽ được cử hành ở cấp độ hoàn vũ vào Chúa Nhật, ngày 18 tháng 10, không có thay đổi về lịch.”
Như thế, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc hiện đã xác nhận Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay, sẽ được tổ chức như thường lệ vào Chúa Nhật áp chót của tháng Mười. Hầu hết các quốc gia cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo vào ngày đó.
Thánh bộ lưu ý: “Trong nhiều giáo phận, việc chuẩn bị cho Ngày Thế giới Truyền giáo đã được tiến hành trong một thời gian và sự năng động truyền giáo của Dân Chúa vẫn là ưu tiên hàng đầu”. “Thực ra, về bản chất, đức tin là truyền giáo và việc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo đóng vai trò giữ cho chiều kích thiết yếu này của đức tin Ki-tô giáo sống động trong tất cả các tín hữu.”
Lạc quyên giúp các miền truyền giáo
Thánh Bộ cho biết Bộ cũng “dựa vào ý thức hiệp thông và đồng trách nhiệm của các giám mục về việc lạc quyên trong Ngày này giúp cho các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, những tổ chức hoạt động trong một bối cảnh phổ quát hỗ trợ công bằng cho các Giáo hội trong các lãnh thổ truyền giáo.”
Sứ điệp của Đức Thánh Cha
Vào Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày 31 tháng 5, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố sứ điệp cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay. Dựa trên chủ đề lấy từ sách ngôn sứ Isaiah, “Này con đây, xin hãy sai con đi”, sứ điệp của Đức Thánh Cha nói rằng đại dịch Covid-19 là một cơ hội để truyền giáo và phục vụ người khác.
Ngày Thế giới Truyền giáo, hay Chúa Nhật Truyền giáo, được Đức Giáo hoàng Piô XI thiết lập vào năm 1926, để nhắc nhở các tín hữu Công giáo về sự dấn thân và hỗ trợ của họ đối với công việc truyền giáo của Giáo hội thông qua cầu nguyện và hy sinh. (CSR_6222_2020) Hồng Thủy