2021
Có hay không một Chủ nghĩa đế quốc Công giáo?
Tác giả: Jimmy Akin
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Từ: catholic.com
Bạn đã từng nghe về chủ nghĩa đế quốc Công giáo (Catholic imperialism) chưa? Đó là một huyền thoại phổ biến chống Công giáo đại loại như thế này: Các nhà truyền giáo Công giáo là những tay đế quốc đã nô lệ hóa và bần cùng hóa các dân tộc bản địa!
Nhưng như tất cả các huyền thoại chống Công giáo khác, đây là câu chuyện không đúng. Và đây mới là chuyện đúng và thật!
Vào Thời đại Khám phá (Age of Exploration), giữa thế kỷ XV và XVI, đã tạo nên một tình trạng chưa từng có cho Giáo Hội. Với việc khám phá những miền đất mới rộng lớn, người ta nhận ra rằng có biết bao nhiêu triệu người chưa từng biết đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô.
Chính Đức Giêsu đã nói khi ủy nhiệm sứ mệnh truyền giáo: “Hãy đi và làm cho các dân tộc trở thành môn đệ, giảng dạy cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều thầy đã truyền dạy cho các con” (Mt. 28,19-20).
Vì thế các nhà truyền giáo bắt đầu chấp nhận những khó khăn và nguy hiểm của những chuyến du hành khắp thế giới vào thời ấy. Họ đi khắp hoàn cầu, theo chân các nhà khám phá và mang sứ điệp Đức Kitô đến với mọi người ở khắp mọi nơi.
Nhưng có một vấn đề: các thế lực đế quốc khác nhau – chủ yếu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, và Hà Lan – họ đã khám ra những miền đất mới và bận rộn tranh giành với nhau để thiết lập nên những thuộc địa. Mỗi quốc gia tìm kiếm lợi ích của riêng mình và không muốn rơi lại phía sau những quốc gia khác.
Điều này có nghĩa là những thế lực này cũng tranh giành và trong nhiều trường hợp đã khai thác các dân tộc bản xứ của những miền đất này. Tệ hơn nữa, nhiều nhà khai thác còn nhân danh đức tin Kitô giáo của mình để biện minh cho sự chinh phục, bóc lột và nô lệ hóa những người dân bản xứ.
Các nhà truyền giáo đã làm gì? Những người Công giáo đã phàn nàn với Đức giáo hoàng về điều mà những kẻ xâm chiếm và những người khác đang làm, và năm 1537, Đức Phaolô III đã ban hành đoản sắc Pastorale Officium, trong đó ngài nhắc lại rằng hoàng đế Charles V, vị hoàng đế thánh thiện của Rôma, đã cấm các thần dân của mình nô dịch hóa hay cướp bóc dân bản xứ trong những miền đất truyền giáo. Rồi Đức thánh cha thêm vào đấy hình phạt cao nhất của Giáo Hội là dứt phép thông công (penalty of excommunication):
Vì thế, chúng tôi cảnh báo rằng những người dân bản xứ này, mặc dù ở ngoài Giáo Hội, họ vẫn không thiếu hay bị tước đoạt quyền tự do hay quyền sở hữu tài sản của mình, vì họ là những con người và do đó họ có khả năng đức tin và ơn cứu rỗi, nên họ không phải bị tiêu diệt bằng sự nô lệ hóa mà đúng ra phải được mời gọi đến sự sống qua sự rao giảng và gương mẫu. Thêm vào đó, chúng tôi muốn ngăn chặn những hành vi đáng kinh tởm của những kẻ vô đạo đức và bảo đảm rằng những người bản xứ không quá cứng lòng để đón nhận đức tin vào Đức Kitô … chúng tôi đòi buộc rằng … hãy hết sức cẩn trọng hầu tránh được sự nghiêm khắc … của hình phạt dứt phép thông công … bất cứ ai ở bất cứ cấp bậc nào biến những người bản xứ nói trên thành nô lệ dưới bất kỳ hình thức nào hoặc cướp bóc tài sản của họ dưới bất kỳ hình thức nào.
Đây là một trong những văn kiện của các đức giáo hoàng vào thời kỳ ấy đã đứng về phía dân bản xứ chống lại những người tìm cách áp bức họ. Các ngài nói rằng họ là những con người (nghĩa là có nhân quyền) và họ có thể quay mặt với Tin Mừng vì bị đối xử tệ. Điều này đặc biệt quan trọng bởi vì Giáo Hội luôn luôn cấm cải đạo cưỡng bách. Như giải thích của sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 160, Tin Mừng phải được đón nhận cách tự nguyện: “Để là một hành vi của con người, “đức tin mà con người đáp lại Thiên Chúa phải là tự nguyện. Do đó, không ai bị cưỡng bức phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn. Thật vậy, tự bản chất đức tin là một hành vi tự ý“.
Như vậy Giáo Hội nhìn nhận dân bản xứ như là những con người, họ đáng được tôn trọng và có linh hồn cần được Đức Giêsu cứu rỗi. Giống như những người Âu châu, Đức Kitô đã chết cho họ, và họ phải được đối xử như mọi người khác. Như thế, Giáo Hội tìm cách giúp các dân tộc bản xứ và bảo vệ họ khỏi bị khai thác.
Mặc dù điều này cũng có hiệu quả, song rủi thay nó không có nghĩa là tất cả mọi sự khai thác đều dừng lại. Như đức giáo hoàng ngày nay không thể sai khiến các chính trị gia Công giáo đưa giáo huấn Giáo hội về các vấn đề như phá thai vào chính sách công, các giáo hoàng của thời đại ấy cũng đã có ảnh hưởng hạn chế trên các thế quyền.
Kết quả là một thời đại có cả ánh sáng lẫn bóng tối, có sự khai thác lẫn sự phát triển của Tin Mừng. Như trong mỗi thời đại, người trong thời đại ấy phải được nhìn cách đúng với thực tế. Không có gì hoàn toàn tốt, chẳng có gì xấu hoàn toàn. Giống như chúng ta, họ là những cá nhân phức tạp.
Các giáo hoàng gần đây đã nhìn nhận điều đó, gồm cả Đức Phanxicô, người đã khẳng định rằng: “Tôi nói điều này với sự tiếc nuối: chúng ta đã phạm phải nhiều trọng tội với các dân tộc bản xứ của châu Mỹ nhân danh Thiên Chúa … Giống như Đức Gioan Phaolô II, tôi xin Giáo Hội – tôi lập lại điều tôi đã từng nói – là hãy quỳ gối trước Thiên Chúa và xin tha thứ vì những tội lỗi của các con cái mình trong quá khứ và hiện tại”.
Rồi ngài tiếp tục, “Cùng với lời cầu xin tha thứ này, và để được công bằng, tôi cũng muốn chúng ta hãy tưởng nhớ đến hàng ngàn linh mục và giám mục với quyền năng của thập giá đã mạnh mẽ chống lại lý lẽ của lưỡi gươm”.
2021
Nữ tu bị bắt cóc tại Congo được trả tự do
Nữ tu bị bắt cóc tại Congo được trả tự do
Một tuần sau khi bị bắt cóc để đòi tiền chuộc mạng, một nữ tu ở Cộng hòa dân chủ Congo đã được trả tự do.
Các nữ tu dòng “Nữ tử Phục sinh”. Aid to the Church in Need.
Nữ tu Francine thuộc dòng “Nữ tử Phục sinh” bị bắt cóc tại thành phố Goma, hôm 8/7/2021 vừa qua, trong lúc chị đi chợ để mua thực phẩm cho cộng đoàn. Ít lâu sau đó những kẻ bắt cóc liên lạc với các đại diện Giáo hội địa phương để đòi tiền chuộc mạng.
Hôm 16/7/2021 vừa qua, Tổ chức bác ái quốc tế “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” ở thành phố Munich bên Đức, cho biết nữ tu Francine đã được trả tự do, an toàn thể lý, nhưng bị chấn thương về tinh thần.
Bà Regina Lynch, giám đốc các dự án thuộc tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” nói rằng rất tiếc là nạn bắt cóc các linh mục và nữ tu trở thành một phương thế đấu tranh tại nhiều nước Phi châu, từ Mali đến Nigeria, tới Congo. Nhiều khi người ta không có vết tích gì về các nạn nhân bị bắt cóc, như nữ tu Gloria Cecilia Narvaez, người Colombia bị bắt cóc ở Malia từ mấy năm nay. Một số giáo sĩ bị bắt cóc và bị giết. Những kẻ bắt cóc đã đạt tới mục đích của họ là gieo rắc kinh hoàng nơi dân chúng. Đó là một diễn biến rất đáng lo âu.
Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ tài trợ nhiều dự án tại miền đông nước Congo, như giúp xây trung tâm sinh hoạt giáo xứ, nhà thờ, hoặc hỗ trợ việc đào tạo linh mục. Riêng dòng Nữ tử Phục sinh, trong 10 năm qua đã chịu nhiều cuộc tấn công tại các tu viện, vài nữ tu đã bị thiệt mạng. Một số tu viện đã bị đóng cửa vì tình trạng thiếu an ninh. Dòng này cũng hoạt động tại Brazil, Camerun, Pháp và Ý. (KNA 15-7-2021)
Cũng tại Cộng hòa dân chủ Congo, hiện nay vẫn còn 5 linh mục bị mất tích ở miền đông nước này:
Cách đây 4 năm, 2 linh mục là cha Charles Kipasa và Jean-Pierre Akilimali bị bắt cóc trong đêm 16 rạng ngày 17/7 năm 2017, tại giáo phận Butembi-Beni. 5 năm trước đó, ngày 19/10/2012, 3 linh mục thuộc dòng Đức Mẹ Lên Trời (Assomptionnistes), là cha Jean-Pierre Ndulani, Edmond Kisughi và Anselme Wasukundi bị bắt cóc tại nhà xứ ở Mbay, thuộc miền Beni. Cho đến nay 9 năm đã trôi qua, người ta không có tin gì về 5 linh mục bị bắt cóc.
(Africa.la-croix 16-7-2021)
Giuse Trần Đức Anh, O.P
2021
Lần đầu tiên một tổng thống Pháp viếng thăm Lộ Đức
Lần đầu tiên một tổng thống Pháp viếng thăm Lộ Đức
Chiều thứ Sáu 16/7/2021 vừa qua, lần đầu tiên từ nền cộng hòa thứ năm ở Pháp, tức là từ năm 1958, một tổng thống Pháp đến viếng thăm Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức. Đó là Tổng thống Emmanuel Macron.
Trong lịch sử, lần trước đây, quốc trưởng Pháp, là thống chế Philippe Pétain đã đến Lộ Đức vào năm 1941.
Hồi năm 1983, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand đã đón Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại phi trường Tarbes, gần Lộ Đức và trong diễn văn chào mừng, ông không hề nhắc đến Lộ Đức và chỉ nói Đức Giáo hoàng thực hiện cuộc du hành dưới chân rặng núi Pyrénées. Các vị tổng thống Pháp cũng làm vậy, khi đón tiếp các vị Giáo hoàng đến viếng Lộ Đức.
Trong cuộc viếng thăm, Tổng thống Macron đã được các vị trách nhiệm tại đền thánh chào đón và ông chào thăm các tín hữu hành hương.
Nhưng cũng có một điều xảy ra ngoài ý muốn: trong lúc tổng thống nghe một số ca viên hát bài “Bernadette Lộ Đức” thì có một người hô lớn lăng mạ tổng thống: “thật là điều ô nhục, một xì căng đan! Ông là một người vô thần hàng đầu! Ông không có lý do gì để ở đây!”.
Báo “La Dépêche” cho biết người ấy đã bị bắt và trong cuộc giằng co với người ấy, một nhân viên trật tự tại Đền thánh bị thương ở tay.
(ADN Kronos 16-7-2021)
- Trần Đức Anh, O.P.
2021
Trung tâm hành hương Đức Mẹ Mễ Du – lịch sử 40 năm của đức tin
Trung tâm hành hương Đức Mẹ Mễ Du – lịch sử 40 năm của đức tin
Ngày 24/6/1981, các thiếu nữ tại làng Mễ Du đã nhìn thấy hiện tượng lạ: hình bóng một phụ nữ chiếu sáng trên đám mây, mà các em khẳng định là Đức Mẹ Maria và hiện tượng này vẫn tiếp tục nhiều lần cho đến nay. Giáo hội chưa đưa ra tuyên bố chính thức về hiện tượng được cho là Đức Mẹ hiện ra, nhưng một điều không thể chối bỏ đó là Mễ Du đã trở thành một trong những trung tâm hành hương Đức Mẹ với những câu chuyện về lòng đạo đức và ơn hoán cải. Đức Thánh Cha đã chính thức cho phép hành hương Mễ Du
Giáo xứ Mễ Du
Medjugorje – Mễ Du – nằm tại một đồng bằng màu mỡ “giữa những ngọn núi” (đây là nghĩa đen của thuật ngữ Medjugorje). Giáo xứ Mễ Du được ghi nhận từ năm 1599 nhưng sau đó đã biến mất dưới thời Thổ Nhĩ Kỳ thống trị nơi này. Nó được xây dựng lại vào thế kỷ XVIII và kể từ năm 1892, giáo xứ được chăm sóc mục vụ bởi các tu sĩ dòng Phanxicô.
Đức tin Công giáo của dân làng luôn được coi là “không thể lay chuyển”: một cây Thánh giá bê tông cao 12 mét, được dựng lên vào năm 1933 trên đỉnh núi Krizevac và tồn tại trong Thế chiến thứ hai cũng như dưới thời cộng sản. Nhà thờ giáo xứ dâng kính thánh Gia-cô-bê được xây dựng từ năm 1934 đến năm 1969 và ngày nay vẫn là nhà thờ lớn duy nhất trong cả nước.
Khởi đầu của sự kiện Mễ Du
Đời sống Mễ Du đã thay đổi từ ngày 24 tháng 6 năm 1981, một buổi chiều đầu mùa hè và ở một nơi hẻo lánh, chính xác là trên ngọn đồi Podbrdo, nơi nhìn ra làng Bijakovici – ngày nay thuộc Bosnia và Herzegovina. Các thiếu nữ bắt đầu nhìn thấy một hình bóng phụ nữ sáng chói mà họ xác định là Đức Trinh Nữ Maria.
Đó là vào lúc 4 giờ chiều, hai cô gái tuổi 15 và 16, Ivanka Ivankovic và Mirjana Dragicevic, khi đang đi bộ dưới chân một ngọn đồi đá có tên là Podbrdo, đã nhìn thấy hình dáng một phụ nữ trên một đám mây nhỏ. Vì vậy, khi trở về họ đã kể lại cho dân làng. Vào khoảng 16 giờ rưỡi chiều, họ lại lên đồi và lần này có Vicka Ivankovic, chị họ của Ivanka, cùng đi. Ba cô gái cho biết lần này họ lại nhìn thấy hình bóng bí ẩn đó bế một em bé trên tay, và ngay lập tức họ xác định đó là Đức Mẹ. Và sau đó những thiếu niên khác cũng được nhìn thấy những lần mà theo họ là chính Đức Mẹ đã hiện ra.
Lời mời gọi hòa giải và sám hối
Bắt đầu từ những sự kiện đó và từ những câu chuyện đó, trong 40 năm này, lịch sử của Medjugorje – Mễ Du – đã mở ra, trong một vùng đất nghèo nàn, khi đó bị chế độ cộng sản thống trị. Sáu thiếu niên, khi đó còn rất trẻ, nói về những lần hiện ra của Đức Maria, người xưng là “Nữ vương Hòa bình”. Thông điệp của Mễ Du cơ bản là một lời mời hòa giải và sám hối.
Với thời gian trôi qua, địa điểm hẻo lánh ở vùng Balkans này ngày càng trở nên nổi tiếng trên thế giới, với hàng triệu người hành hương đến đó mỗi năm. Với hàng dài người đến xưng tội và chầu Thánh Thể đông đúc. Có rất nhiều câu chuyện hoán cải. Vì vậy, bốn mươi năm được đánh dấu bằng những cuộc hành hương, những sứ điệp, những cuộc hoán cải, sự gắn kết với các Bí tích, sự ngạc nhiên và thậm chí là những câu hỏi. Người ta đã nhìn thấy ở Mễ Du một lịch sử đức tin với những thành quả đã hiển hiện trong sự thay đổi cuộc sống, ngay cả từ rất xa.
Ủy ban điều tra dưới thời Đức Biển Đức XVI
Để xác định rõ về những lần được cho là Đức Mẹ hiện ra, vào năm 2010, Đức Biển Đức XVI muốn có một ủy ban điều tra quốc tế trong Bộ Giáo lý Đức tin, bao gồm 17 Hồng y, giám mục, thần học gia và chuyên gia, dưới sự chủ trì của Đức Hồng y Camillo Ruini. Công việc kéo dài bốn năm và cuối cùng, một báo cáo chung kết, chưa bao giờ được công bố chính thức, đã được chuyển cho Đức Thánh Cha Phanxicô.
ĐTC Phanxicô khẳng định ý nghĩa mục vụ thiêng liêng của Mễ Du
Đó có phải là những lần Đức Mẹ thật sự hiện ra không? Đức Thánh Cha vẫn chưa đưa ra kết luân. Trên chuyến bay từ Fatima trở về Roma vào tháng 5 năm 2017, trả lời một câu hỏi liên quan đến Mễ Du, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “tất cả các lần hiện ra hoặc được cho là hiện ra thuộc phạm vi tư, chúng không phải là một phần của Huấn quyền chung bình thường của Giáo hội”. Ngài cũng nhắc lại công việc của Ủy ban Điều tra phân biệt ba khía cạnh. “Trong những lần hiện ra đầu tiên, khi những ‘thị nhân’ là những thiếu niên, báo cáo nói rằng phải tiếp tục điều tra. Về những lần hiện ra được cho là hiện tại, báo cáo có những nghi ngờ” và “khía cạnh thứ ba, cốt lõi thực sự của báo cáo của Đức Hồng y Ruini: chiều kích tâm linh, chiều kích mục vụ, người dân đến đó và hoán cải, những người gặp Chúa, những người thay đổi cuộc sống. … Người ta không thể phủ nhận thực tế mục vụ-thiêng liêng này”.
Bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục người Ba Lan Henryk Hoser
Đức Thánh Cha chú ý đến lòng đạo đức bình dân. Năm 2018, ngài đã bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục người Ba Lan Henryk Hoser, Thanh tra Tông toà và là đặc sứ cho giáo xứ Mễ Du: một nhiệm vụ hoàn toàn có chiều kích mục vụ, tiếp nối với sứ vụ của vị Đặc sứ của Tòa Thánh cho giáo xứ Mễ Du, đã được trao phó cho Đức cha Hoser năm trước và đã kết thúc. Phòng Báo chí Toà Thánh giải thích: “Sứ mạng của Thanh tra Tông toà có mục đích đảm bảo sự đồng hành ổn định và liên tục cho cộng đoàn giáo xứ Mễ Du và của các tín hữu đến đó hành hương, những người có nhu cầu cần được quan tâm đặc biệt”.
Chính thức cho phép hành hương Mễ Du
Như một dấu hiệu của sự chú ý, một lần nữa, vào năm sau đó, năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô quyết định cho phép các cuộc hành hương đến Mễ Du. Từ thời điểm đó trở đi các giáo phận và giáo xứ có thể chính thức tổ chức các cuộc hành hương và sẽ không còn chỉ diễn ra dưới hình thức “riêng tư”, như trước đây.
Mời gọi giới trẻ khám phá ý nghĩa của sống
Sự nhạy cảm đối với những người đến nơi này dường như cũng là thông điệp mà năm ngoái Đức Phanxicô đã gửi đến các tham dự viên Đại hội giới trẻ, sự kiện đã được tổ chức ở Mễ Du từ 30 năm nay, trong đó ngài kêu gọi họ “khám phá ra một cách sống khác, khác với những thứ mà văn hóa tạm thời cung cấp cho chúng ta”. Đức Thánh Cha nói với những người trẻ, ở với Chúa thực tế là mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Mễ Du trong “Marathon cầu nguyện” với kinh Mân Côi
Một sự kiện khác gần đây liên quan đến giáo xứ kính thánh Giacôbê, ở Mễ Du: nơi này được chọn làm một trạm trong chương trình “marathon cầu nguyện”, như mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô, cầu nguyện cho đại dịch kết thúc và nối lại các hoạt động. Đây là một “cuộc tiếp sức” cầu nguyện với sự tham gia của 30 trung tâm Thánh Mẫu. Ngày 15 tháng 5 là ngày đền thánh Đức Mẹ Mễ Du hướng dẫn giờ kinh Mân Côi, cầu nguyện đặc biệt cho những người di cư.
Mễ Du: nơi gặp gỡ, sùng kính Đức Mẹ và trở về với Chúa
Cần lưu ý rằng cả việc bổ nhiệm Đức cha Hoser và quyết định về các cuộc hành hương không liên quan đến các câu hỏi giáo lý liên quan đến tính xác thực về tường thuật của sáu “thị nhân” về những gì đã xảy ra bắt đầu từ tháng 6 năm 1981, những điều vẫn chưa được kết luận. Điều nổi lên là Mễ Du ngày càng trở thành một nơi quy tụ các Kitô hữu: một nơi gặp gỡ, một nơi sống lòng sùng kính Đức Mẹ và một nơi, trong nhiều năm qua, để trở về với Chúa.
Cha Salvatore Perrella, giáo sư tín lý và Thánh mẫu học tại Phân khoa Thần học của Học viện Giáo hoàng Marianum và là cựu thành viên của “Ủy ban Ruini” đã giải thích với báo Avvenire của Hội đồng giám mục Ý: “Chúng ta có thể nói như Đức Tổng Giám mục Hoser rằng, liên quan đến Tòa thánh và cũng như ý tưởng của Đức Thánh Cha, Mễ Du không còn là một ‘nơi đáng nghi ngờ’ mà là nơi hàng ngàn hàng vạn tín hữu đi đến với Chúa Kitô qua Đức Trinh Nữ Maria”.
Ý kiến của Đức Hồng y Christoph Schönborn
Nhận định về quan điểm của Đức Thánh Cha, ngày 18/6 vừa qua, trả lời phỏng vấn của tạp chí “Ốc đảo hoà bình” của phong trào Mễ Du ở Áo, Đức Hồng y Christoph Schönborn, Tổng giám mục giáo phận thủ đô Vienne của Áo, nói rằng Đức Phanxicô đã: thực hiện những bước quyết định đối với Mễ Du” và vì điều này “không thể không cảm ơn ngài”. Đức Thánh Cha đã nhiều lần công khai ca ngợi báo cáo của Đức Hồng y Ruini là “rất tích cực” và nhấn mạnh “sự tin tưởng của ngài vào những gì Trời cao ban cho chúng ta ở Mễ Du”. Đức Hồng y cho biết ngài cũng coi việc Đức Thánh Cha cử Đức tổng giám mục Henryk Hoser làm đặc sứ của Đức Thánh Cha đến Mễ Du là một “bước đi quyết định”. Nơi này hiện đã được “đặt dưới sự bảo vệ của giáo hoàng”.
Trước sự dè dặt của một số người về những thông điệp được các “thị nhân” truyền lại không có “bất cứ điều gì mới”, Đức Hồng y Schönborn trả lời rằng bản thân ngài sẽ “lo lắng” nếu có điều mới. Nó cũng giống như những bà mẹ luôn khuyên con cùng điều tương tự với những cách thế hơi khác nhau; ví dụ: “Con đã đánh răng chưa?”, “Con đã rửa tay chưa?”, “Con đã làm bài tập chưa?” -. Điều này cũng đúng với Mễ Du. Đối với Đức Hồng y, “điều quan trọng không phải là luôn mong đợi điều gì đó mới mẻ, mà là mỗi lần chúng ta được nhắc nhở về những gì liên quan đến đời sống Kitô hữu”. Việc hàng triệu người trên thế giới đọc hàng tháng những thông điệp như “Hãy cầu nguyện!”, “Hãy ăn năn”, “Hãy hoán cải”, “Hãy làm việc đền tội”, “Hãy lắng nghe Con của Mẹ!”, “Cảm ơn vì Mẹ đã lắng nghe con!”, Không nghi ngờ gì nữa, là “điều gì đó làm chúng ta vui mừng”.
Dòng người hành hương đông đảo đến Mễ Du, theo Đức Hồng y, là “cảm giác mà mọi người có đối với sự hiện diện của siêu nhiên”. Niềm tin yêu của các tín hữu, được cảm nhận mạnh mẽ ở Mễ Du là “thước đo chắc chắn cho hành trình của Giáo hội”; nó cũng tạo nên sức sống của Giáo hội và nhắc nhở chúng ta rằng đức tin Công giáo trước hết là một biến cố của các mối quan hệ.
Đức Hồng y chia sẻ rằng trong chuyến viếng thăm Mễ Du, ngài cũng cảm nghiệm rằng Mẹ Maria thật sự hiện diện. Ngài cho biết thêm rằng ngài đặc biệt bị ấn tượng bởi “tính bình thường” tuyệt vời, mà theo ngài đó là “một trong những dấu hiệu rất mạnh mẽ cho thấy Mễ Du đúng đắn”. “Không có gì cường điệu, không đề cao cảm xúc hay tình cảm thái quá”; “Cũng là giây phút thinh lặng trong lần chuỗi Mân Côi, trong đó một trong những ‘thị nhân’ đã trải nghiệm sự hiện diện đặc biệt của Đức Mẹ – mọi thứ diễn ra bình thường như tôi tưởng tượng ở Nazareth, trong Thánh Gia”.
Hồng Thủy