2023
Nhà thờ cổ tái xuất do hạn hán ở Mexico
Nhà thờ cổ tái xuất do hạn hán ở Mexico
Do đợt sốc nhiệt khủng khiếp kéo theo hạn hán lan rộng ở nhiều vùng thuộc Mexico, một tàn tích nhà thờ hơn 400 năm tuổi đã hoàn toàn lộ diện sau gần 60 năm bị ngập nước ở bang Chiapas.
Kiến trúc bằng đá này là nhà thờ Santiago, nằm trong lòng hồ thủy điện Nezahualcoyotl ở bang Chiapas. Vào thời điểm nhà thờ hoàn toàn lộ diện, lượng nước của hồ chỉ đạt 29% sức chứa bình thường do sốc nhiệt và hạn hán kéo dài ở Mexico, theo trang tin Aleteia.
Nhà thờ theo kiến trúc Baroque
Nhà thờ được xây dựng với kiến trúc theo kiểu Baroque. Đây là công trình do nhóm tu sĩ dòng Đa Minh, đứng đầu là cha Bartolome de la Casas, linh mục người Tây Ban Nha, thực hiện khi đến vùng đất này vào giữa thế kỷ 16. Cha Bartolome de las Casas là người vận động mạnh mẽ để xóa sổ chế độ nô lệ dưới thời Hoàng đế Charles V của triều đình Tây Ban Nha. Ngài cũmg nổi tiếng là người luôn bảo vệ quyền lợi cho dân bản địa.
Cấu trúc của nhà thờ vô cùng ấn tượng, với những bức tường cao khoảng 10m, chiều dài 61m và chiều rộng 14m. Trong khi đó, tháp chuông đạt đến chiều cao 15m so với mặt đất. Dù bị ngập gần 60 năm qua, nhà thờ cổ vẫn giữ được những vòm cung trải rộng bên trên cửa chính, những thiết kế trang trí và các viên gạch làm bằng thủ công. Nhà thờ tọa lạc trên cấu trúc gọi là “tuyến đường cao tốc của nhà vua” ở Chiapas, do những người Tây Ban Nha xây dựng và đến thế kỷ 20 vẫn còn được sử dụng.
Kiến trúc sư Carlos Navarete, chuyên gia phối hợp với giới hữu trách Mexico chuẩn bị báo cáo về công trình nhà thờ cổ, cho biết nơi đây không còn được sử dụng sau các trận dịch hạch từ năm 1773 đến năm 1776. Đây là nhà thờ phụ thuộc tu viện Tecpatan gần đó, với tu viện được thành lập năm 1564. Ông Navarrete cho rằng, dựa trên những nét tương đồng về kiến trúc, nhiều khả năng hai công trình xây dựng nhà thờ và tu viện đều xuất phát từ một nhà thầu duy nhất, và được khởi công gần như cùng lúc.
Nhà thờ đã bị ngập nước từ năm 1966 sau khi nhà máy thủy điện được đưa vào hoạt động trên sông Grijalva, theo trang Catholic News Agency. Thị trấn San Juan Quechula, nơi nhà thờ tọa lạc, cũng biến mất theo dòng nước.
Năm hạn hán nặng
Nhà thờ Santiago nằm trong số ít nhất 7 nhà thờ bị chôn vùi dưới nước hoặc dưới những tầng đất đá sau những đợt phun trào núi lửa ở Mexico. Trong những năm gần đây, phần trên cùng của tàn tích vẫn lộ ra khỏi mặt nước, và các du khách có thể đến tham quan bằng thuyền. Tuy nhiên, hạn hán khốc liệt năm nay khiến vùng hồ thủy điện gần như khô cạn, cho phép nhà thờ lộ diện hoàn toàn.
Theo website của Tòa thị chính Tecpatán, nhà thờ được xây dựng trong giai đoạn từ năm 1564 đến 1606. Đến năm 1776, nơi này không còn được sử dụng cho các cộng đồng xung quanh vì bị ảnh hưởng nặng nề từ các đợt dịch hạch. Ngày 9.6, chính quyền đô thị Tecpatán thông báo về sự tái xuất hiện của nhà thờ do khu vực không có mưa.
Ông Gilberto Hernandez, người đứng đầu Ủy ban Truyền thông thuộc Tổng Giáo phận Tuxtla Gutierrez, cũng thừa nhận mực nước rút do hạn hán cho phép cấu trúc toàn bộ của nhà thờ lộ diện. Ông Hernandez cho biết với tình hình hiện tại, du khách không cần đi thuyền vẫn đến được tàn tích và có thể thưởng lãm nét đẹp kiến trúc và “chạm vào lịch sử” từ nhiều thế kỷ trước.
Theo cơ quan theo dõi hạn hán Mexico, trong 2 tuần đầu tiên của tháng 6, tình trạng thiếu mưa được ghi nhận ở nhiều nơi thuộc Mexico. Ở vùng Chiapas, mức độ hạn hán đã được nâng cấp từ bình thường lên nghiêm trọng. Mùa nắng nóng năm nay, theo giới chức Mexico kéo dài từ ngày 19.3 đến tháng 10, gần 500 người đã ngã bệnh do tình trạng thời tiết khắc nghiệt. Ít nhất 8 trường hợp tử vong do sốc nhiệt đã được trình báo ở các bang Veracruz, Quintana Roo, Sonora và Oaxaca.
LING LANG
2023
5 Điều cần biết về đất nước Mông Cổ trước chuyến tông du của ĐTC Phanxicô
Mông Cổ là một trong những quốc gia không giáp biển lớn nhất thế giới, nằm giữa các nước láng giềng rộng lớn và hùng mạnh hơn nhiều là Trung Quốc và Nga. Nơi đây có một trong những cộng đoàn Kitô giáo nhỏ bé nhất trên thế giới – dù chỉ với một cộng đoàn như thế nhưng vẫn được khích lệ bởi chuyến tông du sắp tới của Đức Thánh Cha Phanxicô, dự kiến diễn ra từ ngày 31/8 đến ngày 04/9/2023.
Trước chuyến đi lịch sử của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là một số thông tin quan trọng cần biết về nước Mông Cổ.
1) Mông Cổ chỉ có vài nghìn Kitô hữu.
Về mặt chính thức, Mông Cổ chỉ có 1.300 người Công giáo, điều đáng nói là con số này chỉ chiếm không tới 1% trong tổng số 3,3 triệu dân của đất nước này. Con số này tuy nhỏ nhưng vào đầu những năm 1990, đất nước này hầu như không có người Công giáo bản địa nào. Điều này chủ yếu là do chế độ độc tài của quốc gia này tồn tại từ những năm 1920 cho đến năm 1990 đã đàn áp mọi hình thức tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Tây Tạng với sức ảnh hưởng to lớn.
Các nhà truyền giáo đã trở lại đất nước này để bắt đầu xây dựng lại cộng đoàn Công giáo ngay sau khi chế độ độc tài chấm dứt, và Tòa Thánh Vatican đã tái lập quan hệ ngoại giao với đất nước này vào năm 1992. Năm 2003, Nhà thờ Chánh tòa Thánh Phêrô và Phaolô được xây dựng; vào năm 2016, vị linh mục bản xứ đầu tiên của thời hiện đại đã được thụ phong.
Mặc dù có dân số nhỏ bé, nhưng Kitô giáo ở Mông Cổ đã hiện diện từ thế kỷ VII hoặc VIII khi những người theo phái Nestoriô (những người Kitô hữu gốc Ba Tư với lòng nhiệt thành truyền giáo) lần đầu tiên đến viếng thăm khu vực này. Các nhà truyền giáo Công giáo thuộc Dòng Phanxicô cũng đã rao giảng cho người Mông Cổ ngay từ thế kỷ XIII.
Theo CIA World Factbook, hơn một nửa dân số của đất nước này được xác định là Phật tử, cùng với người Hồi giáo chiếm 3,2%, người theo tín ngưỡng Shaman 2,5%, Kitô hữu 1,3% và khoảng 40% tuyên bố là không theo hệ phái tôn giáo – tín ngưỡng nào.
Hạt Phủ doãn Tông tòa Ulaanbaatar, một khu vực truyền giáo không có đủ người Công giáo để thành lập một giáo phận, có quyền hạn đối với toàn bộ nước Mông Cổ. Nơi này được dẫn dắt bởi Đức Hồng Y Giorgio Marengo, 49 tuổi, ngài là vị Phủ doãn Tông tòa và là vị hồng y trẻ nhất thế giới. Ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô vinh thăng hồng y vào tháng 8 năm 2022.
2) Nhìn chung, dân số của Mông Cổ không nhiều: Đây là quốc gia có mật độ dân số thấp nhất thế giới.
Ba triệu người nghe có vẻ là một con số lớn, nhưng đối với một đất nước rộng lớn như Mông Cổ thì không phải vậy. Mật độ dân số chỉ với hai người trên mỗi km2 đã khiến nơi đây trở thành nơi vắng vẻ nhất trên thế giới. Phần lớn đất nước Mông Cổ bao gồm môi trường thảo nguyên khô cằn và trống trải, nơi chăn thả gia súc và dân cư chủ yếu là số ít những người du mục. Mặc dù vậy, thủ đô Ulaanbaatar lại là nơi sinh sống của khoảng một nửa dân số cả nước và là một thành phố tương đối lớn và đông đúc với 1,6 triệu người.
3) Thời tiết tháng 9 ở Ulaanbaatar nhìn chung dễ chịu, nhưng Mông Cổ lại nổi tiếng với khí hậu khắc nghiệt.
Tọa lạc trên vùng cao nguyên, nhiệt độ ở mức cao trung bình ở Ulaanbaatar vào tháng 9 là 66oF (19oC), trong khi nhiệt độ thấp nhất là 36oF (2oC). Tuy nhiên, nhìn chung, Ulaanbaatar là thủ đô lạnh lẽo nhất trên trái đất. Cả nước nhìn chung có khí hậu nhiều gió, lạnh, khô và dễ thay đổi, một nơi ngày càng trở nên khắc nghiệt và khó dự đoán hơn với hiện tượng thay đổi khí hậu toàn cầu; đây là nguyên nhân khiến nhiều người buộc phải di cư đến khu vực thủ đô với mật độ dân số ngày càng đông để tìm kiếm sinh kế sinh nhai.
4) Hầu hết các biện pháp xã hội ở Mông Cổ không được vận hành tốt.
Phần lớn cư dân của đất nước sống bằng nghề chăn nuôi du mục, một nghề mà như đã đề cập trước đây, ngày càng trở nên khó khăn. Một phần điều này là do khí hậu thay đổi nhưng cũng do sự tàn phá các vùng đất chăn thả để gia tăng việc chăn nuôi dê lấy len (cashmere) ở những khu vực trước đây dành riêng cho chăn nuôi gia súc.
Tình trạng quá đông đúc ở thủ đô, cũng như những khó khăn khác như mức độ ô nhiễm cao, đã dẫn đến sự gia tăng nghèo đói, nghiện rượu và tình trạng ngược đãi trong gia đình nơi nhiều nhóm người từng theo nghề chăn nuôi súc vật trước đây. Những người Kitô hữu đôi khi bị nhìn dưới ánh mắt ngờ vực, và Mông Cổ còn phải đối mặt với sự gia tăng các hệ tư tưởng bài ngoại nơi công dân của mình đối với những người đến từ nước láng giềng lớn hơn của họ là Trung Quốc.
5) Lịch trình chuyến thăm đầy đủ của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được công bố.
Trong số các hoạt động khác, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ có chuyến thăm xã giao với Tổng thống Ukhnaagiin Khürelsükh, gặp gỡ ngắn gọn với Chủ tịch Quốc hội Khural, tức Quốc hội Mông Cổ, và thăm Thủ tướng Oyun-Erdene Luvsannamsrai. Ngài cũng sẽ gặp gỡ các giám mục, linh mục, nhà truyền giáo, tu sĩ và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Thánh Phêrô và Phaolô của Hạt Phũ doãn Tông tòa Ulaanbaatar.
Sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tham dự một cuộc gặp gỡ đại kết và liên tôn tại Nhà hát Hun ở Ulaanbaatar và ngài cũng sẽ cử hành Thánh lễ tại sân vận động Steppe Arena cũng ở Ulaanbaatar.
Jonah McKeown
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Nguồn: Catholic News Agency (28/8/2023)
2023
Giáo lý loan báo Tin Mừng 20 – Nên thánh bằng những công việc bình thường
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 30/8/2023, Đức Thánh Cha khuyến khích các tín hữu noi gương vị thánh trẻ Kateri Tekakwitha để biết cách sống cuộc sống bình thường một cách phi thường và trở thành những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Tiếp tục loạt bài giáo lý về chủ đề lòng nhiệt thành tông đồ và niềm đam mê loan báo Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã trình bày với các tín hữu về mẫu gương của Thánh nữ Kateri Tekakwitha, người phụ nữ bản địa Bắc Mỹ đầu tiên được phong thánh. Khi Kateri mới bốn tuổi, cha mẹ và em trai cô qua đời vì bệnh đậu mùa. Cô sống sót nhưng trên mặt mang nhiều vết sẹo và đôi mắt hầu như bị mù. Ở tuổi hai mươi, cô đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Quyết định này đã gây ra những hiểu lầm và đe dọa, khiến cô phải ẩn náu trong vùng của người Mohawk, trong cơ sở truyền giáo của các Cha Dòng Tên.
Tất cả những biến cố này đã khơi dậy nơi Thánh Kateri một tình yêu lớn lao đối với thập giá, thập giá là dấu chỉ dứt khoát về tình yêu của Chúa Kitô dành cho tất cả chúng ta. Trong cộng đoàn, cô nổi bật nhờ đời sống cầu nguyện và sự phục vụ khiêm tốn và liên tục. Cô dạy trẻ em cầu nguyện, chăm sóc người bệnh và người già. Tóm lại, cô biết làm chứng cho Tin Mừng bằng cách sống cuộc sống hằng ngày một cách trung thành và đơn giản.
Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu rằng mỗi Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh, nên thánh mỗi ngày trong đời sống hàng ngày của Kitô hữu, được mời gọi dấn thân hoàn toàn cho ơn gọi và sứ vụ được Thiên Chúa giao phó, phục vụ Chúa và tha nhân với lòng yêu thương bác ái. Ngài khuyến khích các tín hữu noi gương vị thánh trẻ Kateri để biết cách sống cuộc sống bình thường một cách phi thường và trở thành những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Việc loan báo Tin Mừng được bắt đầu bằng những cử chỉ đơn giản, nhỏ bé
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Giờ đây, tiếp tục bài giáo lý về chủ đề lòng nhiệt thành tông đồ và niềm đam mê loan báo Tin Mừng, hôm nay chúng ta nhìn ngắm Thánh nữ Kateri Tekakwitha, người nữ bản địa Bắc Mỹ đầu tiên được phong thánh. Ngài sinh vào khoảng năm 1656 tại một ngôi làng ở Bang New York, là con gái của một tù trưởng Mohawk chưa được rửa tội và một bà mẹ Kitô hữu sắc tộc Algonquino, người đã dạy Kateri cầu nguyện và hát thánh ca ngợi khen Thiên Chúa. Nhiều người trong chúng ta cũng được giới thiệu với Thiên Chúa trước hết trong môi trường gia đình, đặc biệt là bởi những người mẹ, người bà của chúng ta.
Việc loan báo Tin Mừng thường bắt đầu như thế này và chúng ta đừng quên điều này: đức tin được chuyển trao bằng ngôn ngữ bình dân bởi những người bà, người mẹ, và chúng ta đón nhận đức tin bằng ngôn ngữ này từ các bà mẹ, từ những người bà. Việc loan báo Tin Mừng được bắt đầu bằng những cử chỉ đơn giản, nhỏ bé, chẳng hạn như cha mẹ giúp con cái học cách nói chuyện với Thiên Chúa trong cầu nguyện và nói với chúng về tình yêu cao cả và nhân hậu của Người. Nền tảng đức tin đối với Kateri, và thường cũng đối với chúng ta, đã được đặt nền theo cách này.
Chúng ta có thể vượt qua mọi thử thách nếu mở lòng mình ra với Chúa Giêsu
Khi Kateri được bốn tuổi, một trận dịch đậu mùa nghiêm trọng ập đến với người dân của cô. Cả cha mẹ và em trai cô đều qua đời, còn bản thân Kateri thì bị những vết sẹo trên mặt và các vấn đề về thị lực. Từ lúc đó trở đi Kateri phải đối mặt với nhiều khó khăn: chắc chắn là những khó khăn về thể chất do ảnh hưởng của bệnh đậu mùa, nhưng cũng có những hiểu lầm, bắt bớ và thậm chí cả những lời dọa giết mà cô nhận được sau khi lãnh nhận Phép rửa vào Chúa Nhật Phục sinh năm 1676. Tất cả những điều này đã mang lại cho Kateri một tình yêu lớn lao đối với thập giá, dấu chỉ chắc chắn về tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã hiến thân vì chúng ta cho đến cùng.
Thực ra, chứng tá của Tin Mừng không chỉ nói về những điều dễ chịu; chúng ta cũng phải biết cách vác thánh giá hàng ngày của mình với lòng kiên nhẫn, tin tưởng và hy vọng. Nhẫn nại, trước những khó khăn, là một nhân đức Kitô giáo quan trọng. Người nào không có lòng kiên nhẫn thì không phải là một Kitô hữu tốt. Nhẫn nại để bao dung: bao dung với khó khăn và cũng bao dung với người khác, những người đôi khi nhàm chán hoặc gây khó khăn cho bạn… Cuộc đời của Kateri Tekakwitha cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể vượt qua mọi thử thách nếu mở lòng mình ra với Chúa Giêsu, Đấng ban cho chúng ta ân sủng mà chúng ta cần, đó là sự nhẫn nại và trái tim rộng mở, những điều để sống tốt.
Đức tin luôn thể hiện trong sự phục vụ
Sau khi được rửa tội, Kateri phải ẩn náu giữa những người Mohawk tại cơ sở truyền giáo Dòng Tên gần thành phố Montreal. Ở đó, cô tham dự Thánh lễ mỗi sáng, dành thời gian để chầu Thánh Thể, lần hạt Mân côi và sống một cuộc đời sám hối. Những việc thực hành tâm linh này của cô đã gây ấn tượng với mọi người ở cứ điểm truyền giáo; họ nhận ra nơi Kateri một sự thánh thiện rất thu hút bởi vì nó xuất phát từ tình yêu sâu đậm của cô dành cho Thiên Chúa. Chính sự thánh thiện thu hút. Đồng thời cô dạy trẻ em của cơ sở truyền giáo cầu nguyện và, qua việc thường xuyên chu toàn các trách nhiệm của mình, bao gồm cả việc chăm sóc người bệnh và người lớn tuổi, cô nêu gương khiêm nhường và yêu thương phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Đức tin luôn thể hiện trong sự phục vụ. Đức tin không phải để trang điểm cho chính mình, nhưng là để phục vụ.
Mỗi Kitô hữu được kêu gọi mỗi ngày hoàn toàn dấn thân cho ơn gọi và sứ vụ
Mặc dù được khuyến khích kết hôn nhưng Kateri lại muốn dâng hiến cuộc đời mình hoàn toàn cho Chúa Kitô. Không thể bước vào đời sống thánh hiến, cô đã khấn trọn đời đồng trinh vào ngày 25 tháng 3 năm 1679. Sự lựa chọn này của cô cho thấy một khía cạnh khác của lòng nhiệt thành tông đồ của cô: sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa. Tất nhiên, không phải ai cũng được kêu gọi thực hiện lời thề hứa giống như Kateri; tuy nhiên, mỗi Kitô hữu được kêu gọi mỗi ngày dấn thân với tấm lòng không chia sẻ cho ơn gọi và sứ vụ được Thiên Chúa giao phó bằng cách phục vụ Chúa và tha nhân trong tinh thần bác ái.
Kết hợp với Chúa Giêsu và truyền bá vẻ đẹp của sứ điệp Kitô giáo
Anh chị em thân mến, cuộc đời của Kateri là một bằng chứng nữa cho sự thật rằng lòng nhiệt thành tông đồ bao hàm cả sự kết hợp với Chúa Giêsu, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện và các bí tích, lẫn ước muốn truyền bá vẻ đẹp của sứ điệp Kitô giáo qua lòng trung thành với ơn gọi đặc biệt của mình. Những lời cuối cùng của Kateri thật đẹp. Trước khi qua đời ngài đã nói: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”.
Thực hiện những hành động bình thường một cách phi thường
Do đó, chúng ta cũng vậy, kín múc sức mạnh từ Chúa, như Thánh Kateri Tekakwitha đã làm, hãy học cách thực hiện những hành động bình thường một cách phi thường và nhờ đó được ngày càng tăng trưởng trong đức tin, bác ái và lòng nhiệt thành làm chứng cho Chúa Kitô.
Được mời gọi nên thánh mỗi ngày
Chúng ta đừng quên: mỗi người chúng ta được mời gọi nên thánh, nên thánh mỗi ngày, nên thánh trong đời sống thường ngày của Kitô hữu. Mỗi người chúng ta đều có lời kêu gọi này: chúng ta hãy tiếp tục tiến bước trên con đường này. Chúa sẽ không làm chúng ta thất vọng. Cảm ơn anh chị em.
Theo Vatican News (30/8/2023)
2023
Dòng sự kiện Đức Thánh Cha Phanxicô tông du nước Mông Cổ
Dòng sự kiện Đức Thánh Cha Phanxicô tông du nước Mông Cổ:
(Còn cập nhật)