2022
Tiếp kiến chung (18/5): Thử thách của đức tin và phúc của sự chờ đợi
Tiếp kiến chung (18/5): Thử thách của đức tin và phúc của sự chờ đợi
Sáng thứ Tư 18/05, tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần với bài giáo lý tiếp theo trong loạt bài về tuổi già. Đức Thánh Cha nói về hình ảnh của ông Gióp. Trong đau khổ, ông đã phản kháng với Thiên Chúa, đã thốt ra tất cả những lời cay đắng của ông với Chúa và đây là một cách cầu nguyện.
Đoạn Sách Thánh được đọc bài giáo lý được trích từ đoạn cuối của sách Gióp.
Ông Gióp thưa với ĐỨC CHÚA: Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. […] Con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con. Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn. ĐỨC CHÚA giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia. Sau đó, ông Gióp còn sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, ông được thấy con cái cháu chắt đến bốn đời. (G 42,1-6.12.16)
CNS photo/Paul Haring
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe khép lại Sách Gióp, một đỉnh cao của nền văn chương nhân loại. Chúng ta gặp ông Gióp trên hành trình những bài giáo lý về tuổi già: chúng ta gặp ông như một nhân chứng cho đức tin không chấp nhận một “hình ảnh biếm họa” về Thiên Chúa, nhưng gào lên sự phản kháng của ông khi đối mặt với sự dữ, cho đến khi Thiên Chúa đáp lại và mạc khải khuôn mặt của Người. Và cuối cùng, Thiên Chúa đáp lời, một cách đáng ngạc nhiên như thường lệ: Người cho Gióp thấy vinh quang của Người nhưng không đè bẹp ông, ngược lại, với sự dịu dàng trổi vượt. Cần phải đọc kỹ các trang của cuốn sách này, không định kiến và sáo rỗng, để nắm bắt được sức mạnh của tiếng kêu của Gióp. Sẽ rất tốt nếu chúng ta đặt mình nơi trường học của Gióp, để vượt qua cám dỗ của chủ nghĩa duy đạo đức khi đối diện với sự bực tức và chán nản vì nỗi đau mất tất cả.
Trong đoạn kết của cuốn sách – khi cuối cùng Thiên Chúa đáp lời – Gióp được ca ngợi vì hiểu được mầu nhiệm sự dịu dàng của Thiên Chúa ẩn sau sự im lặng của Người. Thiên Chúa quở trách những người bạn của Gióp, những người cho rằng họ biết mọi sự, về Thiên Chúa và về đau khổ, và khi đến để an ủi Gióp, rốt cuộc họ lại phán xét ông bằng những khuôn mẫu sẵn có của họ. Xin Chúa gìn giữ chúng ta khỏi thói đạo đức giả hình và trịch thượng này!
Antoine Mekary | ALETEIA
Đây là cách Chúa bày tỏ chính mình ra cho họ. Chúa nói thế này: “Ta bừng bừng nổi giận với [các ngươi] […] bởi vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta […]”, Chúa nói với các bạn của Gióp như thế. “Gióp, tôi tớ của Ta, sẽ chuyển cầu cho các ngươi. Ta sẽ đoái nhìn nó và sẽ không xử với các ngươi xứng với sự ngu xuẩn của các ngươi, vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8). Lời tuyên bố của Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta đã đọc những trang phản kháng gay gắt của Gióp, khiến chúng ta khiếp đảm. Tuy nhiên – Chúa nói – Gióp đã nói đúng, thậm chí khi ông tức giận và ngay cả tức giận với Chúa, nhưng ông nói đúng, bởi vì ông từ chối chấp nhận rằng Thiên Chúa là một “Kẻ bách hại”. Thiên Chúa phải khác. Người là ai? Và ông Gióp đã đi tìm kiếm. Và như một phần thưởng, Thiên Chúa trả lại gấp đôi tất cả tài sản cho Gióp, sau khi yêu cầu ông cầu nguyện cho những người bạn xấu của ông.
Bước ngoặt của việc hoán cải đức tin diễn ra chính vào thời điểm đỉnh cao những lời của Gióp, khi ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ”(19,25-27). Đoạn này thật đẹp. Tôi nhớ phần cuối bản nhạc Mêsia hùng hồn của Handel, sau cao trào Allelujah, bè cao từ từ hát đoạn này: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi đang sống”, với sự bình an. Và như thế, sau tất cả mọi đau khổ và niềm vui của Gióp, thì tiếng nói của Chúa là một điều khác. “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi đang sống”: đó là một điều tuyệt đẹp. Chúng ta có thể chú giải câu ở trên thế này: “Lạy Chúa, con biết rằng Ngài không phải là Kẻ bách hại. Thiên Chúa của con sẽ đến và thực thi công lý cho con”.
Antoine Mekary | ALETEIA
Dụ ngôn trong sách Gióp trình bày một cách kịch tính và là ví dụ cho những gì thực sự xảy ra trong cuộc sống. Nói cách khác, những thử thách quá nặng nề đối với một người, một gia đình hay một dân tộc, vượt quá sự nhỏ bé và yếu đuối của con người. Trong cuộc sống thường xảy ra, như người ta nói, “đã nghèo lại gặp cái eo”. Và một số người bị choáng ngợp bởi những sự dữ xuất hiện thực sự quá sức và bất công.
Tất cả chúng ta đều biết đến những người như thế. Chúng ta xúc động bởi tiếng khóc của họ, nhưng chúng ta cũng thường ngạc nhiên về sự kiên vững của đức tin và tình yêu của họ trong sự thinh lặng của họ. Tôi nghĩ đến cha mẹ của những đứa trẻ bị khuyết tật nặng, những người đang sống với bệnh tật vĩnh viễn hoặc người thân bên cạnh họ… Những hoàn cảnh thường trầm trọng hơn do sự khó khăn về kinh tế. Trong một số điểm nối của lịch sử, những gánh nặng quá mức này dường như dồn lại vào một điểm. Đây là những gì đã xảy ra trong những năm gần đây với đại dịch Covid-19 và những gì đang xảy ra hiện nay với cuộc chiến ở Ucraina.
Liệu chúng ta có thể biện minh cho những “điều quá sức” này như một sự hợp lý cao siêu của tự nhiên và lịch sử không? Liệu chúng ta có thể chúc lành tôn giáo cho những điều đó như thể chúng là quả báo do tội lỗi của các nạn nhân, như thể họ đáng phải chịu không? Chúng ta không thể. Các nạn nhân có một loại quyền phản kháng khi đối diện với sự dữ, đó là quyền Thiên Chúa ban cho bất cứ ai, thậm chí tự thẳm sâu do chính Thiên Chúa khơi lên.
Antoine Mekary | ALETEIA
Đôi khi tôi gặp những người đến với tôi và nói: “Thưa cha, con đã phản kháng với Chúa vì con có vấn đề này, vấn đề kia …”. Nhưng bạn thân mến, bạn biết đấy, sự phản kháng đó cũng là một cách cầu nguyện, khi nó được thực hiện như thế. Khi đứa con phản kháng cha mẹ chúng, đó là một cách để thu hút sự chú ý và xin cha mẹ chăm sóc chúng. Nếu bạn có những vết thương trong lòng, những nỗi đau và bạn cảm thấy muốn phản kháng, ngay cả phản kháng đối với Chúa, Chúa sẽ lắng nghe bạn, Chúa là Cha, Chúa không sợ lời cầu nguyện phản kháng của chúng ta. Chúa hiểu điều đó. Hãy tự do, hãy tự do trong lời cầu nguyện của bạn, đừng giam hãm lời cầu nguyện của bạn trong những khuôn mẫu định sẵn! Đừng! Lời cầu nguyện phải thật tự phát, giống như của một người con với cha mình, nói ra tất cả mọi sự bởi vì nó biết cha sẽ hiểu điều đó. “Sự im lặng” của Thiên Chúa, trong thời điểm đầu tiên của thảm kịch, có nghĩa là điều này. Thiên Chúa sẽ không né tránh đối diện, nhưng ngay từ đầu, Người đã để cho Gióp thốt ra sự phản kháng của mình và Chúa lắng nghe. Có lẽ, đôi khi, chúng ta cần phải học Thiên Chúa về sự tôn trọng và sự dịu dàng này. Thiên Chúa không thích bách khoa từ điển, như người ta thường nói, để biện giải và suy tư như các bạn của Gióp đã làm. Cách múa lưỡi đó không thích hợp. Đó là một thứ tôn giáo giải thích tất cả, nhưng trái tim vẫn giá lạnh. Thiên Chúa không thích điều đó. Nhưng Chúa thích sự phản kháng của Gióp hay sự thinh lặng của ông.
Lời tuyên xưng đức tin của Gióp – nổi lên từ chính lời khẩn cầu không ngừng của ông lên Thiên Chúa, công lý tối cao – cuối cùng được kiện toàn với một kinh nghiệm gần như thần bí, khiến ông phải thốt lên: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến.” (42,5). Bao nhiêu người trong chúng ta sau một kinh nghiệm đau đớn, có phần mờ tối, nó đã cho chúng ta tiến thêm một bước và biết về Chúa hơn! Và chúng ta có thể nói rằng, như Gióp, “con đã nghe người ta nói một chút về Chúa, nhưng bây giờ con đã thấy Chúa, vì con đã gặp Ngài”. Lời chứng này đặc biệt đáng tin khi mang lấy tuổi già, trong sự mong manh và mất mát ngày càng tăng. Người già đã thấy nhiều trong cuộc sống! Và họ cũng thấy sự bất nhất trong lời hứa của con người. Những người theo luật, theo khoa học, và thậm chí theo tôn giáo, nhầm lẫn kẻ bách hại với nạn nhân, khi quy cho nạn nhân toàn bộ trách nhiệm về nỗi đau của họ. Những người này đã sai!
Những người già tìm ra con đường chứng tá này, hoán chuyển sự oán trách vì mất mát thành sự kiên trì chờ đợi lời hứa của Thiên Chúa. Họ là thành luỹ vững chắc cho cộng đoàn trong việc đối diện với cái quá mức của sự dữ. Cái nhìn của tín hữu hướng về Thánh giá học được điều này. Chúng ta có thể học được điều đó từ các ông bà, từ nhiều người cao tuổi, như Đức Maria, kết hiệp những lời cầu nguyện của họ, đôi khi xé lòng, với lời cầu nguyện của Con Thiên Chúa, Đấng đã phó mình cho Cha trên thập giá.
Chúng ta hãy nhìn người già, nhìn bằng tình yêu, nhìn vào kinh nghiệm của họ, những người đã phải chịu đau khổ rất nhiều trong cuộc sống, những người đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống. Họ đã trải qua rất nhiều và cuối cùng có được bình an này, một điều gần như thần bí, nghĩa là sự bình an của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và nói rằng: “Con đã biết Chúa qua những lời người ta nói, nhưng bây giờ chính mắt con đã nhìn thấy Chúa”. Những người già này có được sự bình an giống như sự bình an của Con Thiên Chúa trên Thánh giá, Đấng phó mình cho Cha.
(Vatican News 18.05.2022)
2022
Giáo Hội dạy gì về vu khống?
Giáo Hội dạy gì về vu khống?
Vu khống là tội trọng, đi ngược với các giới răn của Chúa.
Giáo hội Công giáo bảo vệ những giáo huấn của Chúa Giêsu, khi nhấn mạnh đến phẩm giá của con người. Giáo lý Hội thánh Công giáo coi việc vu khống như tội nghịch với giới răn thứ 8:
“Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta đã “mặc lấy con người mới, là con người sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4, 24). Một khi đã cởi bỏ sự gian dối (Ep 4, 25) chúng ta phải “từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói gièm pha” (1 Pr 2,1)”.
“Chứng dối và thề gian. Công khai nói nghịch với sự thật là một lỗi nặng. Trước tòa án, lời nói như thế là chứng dối ( x. Pr 19,9 ). Khi nói dối mà còn thề, thì đó là thề gian. Chứng dối và thề gian sẽ dẫn đến một người vô tội bị kết án hoặc can phạm được gỡ tội hoặc gia tăng hình phạt cho bị cáo (x. Pr 18, 5), làm cho các thẩm phán đi đến những phán quyết lệch lạc”.
(GLCG số 2475-2476)
Xúc phạm con người
Sách Giáo lý còn liệt kê những thái độ xúc phạm của một người gây ra cho người khác và làm tổn thương thanh danh của họ:
“Vì phải tôn trọng thanh danh của người khác, chúng ta không được có thái độ và lời nói có thể gây hại cho họ ( x. CIC can. 220). Chúng ta có lỗi khi :
– Phán đoán hồ đồ, nghĩa là khi không có đủ cơ sở mà minh nhiên hoặc mặc nhiên cho rằng một người có lỗi về luân lý;
– Nói xấu nghĩa là khi không có lý do khách quan chính đáng mà lại tiết lộ những tật xấu và những lỗi lầm của kẻ khác cho những người chưa biết ( x. Kn 21,28 );
– Vu khống tức là khi dùng những lời ngược với sự thật mà làm hại thanh danh kẻ khác và tạo cớ cho người ta phán đoán sai lầm về người ấy”.
(GLCG số 2477)
Như sách Giáo lý đã nhận xét: “Dù không buộc phải giữ kín, cũng không được tiết lộ những chuyện riêng tư có thể gây tổn hại cho tha nhân, trừ khi có lý do hệ trọng và tương xứng” (GLCG số 2491).
Do đó, không cần thiết phải công khai chỉ ra những khuyết điểm của người khác. Chính Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng ta nên giải quyết một số vấn đề cách riêng tư trước khi đưa sự việc ra tòa:
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18, 15-17)
Vì thế, vu khống là một tội trọng đi ngược với các điều răn của Chúa, nhưng cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này đó là luôn luôn kín đáo và tránh xa mọi sự.
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2022
Đông Timor thông qua văn kiện của ĐTC về tình huynh đệ
Đông Timor thông qua văn kiện của ĐTC về tình huynh đệ
Đông Timor. Với đa số theo Công giáo, Đông Timor sẽ là quốc gia đầu tiên trên thế giới thông qua một văn kiện của ĐTC của nhằm thúc đẩy hòa bình và hòa hợp giữa những người Công giáo và người Hồi giáo.
Tất cả 60 nghị sĩ, tại phiên họp toàn thể trong những ngày vừa qua, đã đồng ý thông qua Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại vì hòa bình thế giới và chung sống mà Tổng thống đắc cử Jose Ramos-Horta hy vọng sẽ thực hiện trong chương trình giảng dạy tại trường học để duy trì sự hài hoà và hòa bình liên tôn.
Văn kiện nhằm thúc đẩy “văn hóa tôn trọng lẫn nhau” giữa các Kitô hữu và Hồi giáo đã được ký vào ngày 4 tháng 2 năm 2019, bởi Đức Thánh Cha và đại Imam Ahmed el-Tayyeb tại Abu Dhabi trong chuyến thăm của ĐTC tới Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Do đó, tài liệu này còn được gọi là Tuyên bố Abu Dhabi.
Tổng thống Ramos-Horta đã tích cực vận động các nhà lập pháp thông qua văn kiện này. Ông cũng đã thảo luận về vấn đề này với cựu thủ tướng Mari Alkatiri, một người theo đạo Hồi, trong cuộc gặp gỡ vào ngày 28 tháng 4.
Ông nói: “Đông Timor sẽ là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng tài liệu này vào chương trình giảng dạy tại trường học. Tài liệu sẽ dạy cho học sinh về tôn giáo, dân tộc, tầng lớp xã hội và sự khoan dung chính trị trong xã hội.”
Chủ tịch Quốc hội Aniceto Guterres cho biết ông sẽ gặp Đức ông Marco Sprizzi, Đại biện Sứ thần Tòa thánh để đệ trình sắc lệnh liên quan đến việc thông qua.
Tổng thống nói thêm rằng thông báo chính thức của nhà nước về việc thông qua văn kiện sẽ được đưa ra vào ngày 20 tháng 5 trong khuôn khổ lễ nhậm chức của tổng thống đắc cử.
Tổng thống Ramos-Horta cũng cho biết điều quan trọng đối với Đông Timor với tư cách một quốc gia có đa số người Công giáo ở châu Á là phải duy trì danh tiếng về “một quốc gia không có bạo lực do tôn giáo.”
Ông Ramos-Horta, nhận Giải Nobel hoà bình năm 1996, là thành viên ủy ban của Giải thưởng Zayed 2022 về Tình huynh đệ nhân loại, một giải thưởng quốc tế được thành lập để đánh dấu cuộc gặp gỡ lịch sử của ĐTC và đại Imam Al-Azhar.
Vào tháng 10 năm ngoái, ông đã có cuộc gặp với ĐTC tại Vatican và được chính ĐTC tặng một bản của tài liệu.
Anh Roberto Fernandez, giáo viên tại Trường Thánh Phanxicô Assisi ở Fatuberliu, quận Manufahi, cách Dili khoảng 190 km về phía nam, cho biết việc thông qua tài liệu này “là bước đi đúng để khẳng định vị thế của Đông Timor như một quốc gia yêu chuộng hòa bình.”
Anh nói: “Chúng tôi sẵn sàng thực hiện nó ở đây… Nguyên tắc là Đông Timor cần phải là một ngôi nhà an toàn cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho tất cả các tôn giáo.”
Trong số 1,3 triệu dân số Đông Timor, người Công giáo chiếm 97% trong khi người Hồi giáo chiếm dưới 1%. (Ucanews.com)
(Vatican News 16.05.2022)
2022
Nhóm Kinh thánh Giới trẻ Công giáo kỷ niệm 50 năm hoạt động tại Hàn Quốc
Nhóm Kinh thánh Giới trẻ Công giáo kỷ niệm 50 năm hoạt động tại Hàn Quốc
Seoul. Khoảng 700 bạn trẻ Công giáo Hàn Quốc đã tham dự thánh lễ, triển lãm và chương trình văn hóa đặc biệt tại thủ đô Seoul để kỷ niệm 50 năm thành lập Nhóm Kinh thánh Giới trẻ Công giáo.
Trong sự kiện tại Nhà thờ Myeongdong, ban tổ chức và tham dự viên tạ ơn Chúa về những ơn lành trong 5 thập kỷ kể từ khi nhóm được thành lập vào năm 1972 trong thời kỳ quân đội cai trị ở Hàn Quốc.
Chủ đề của ngày lễ kỷ niệm là “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105).
Đức Tổng Giám mục Peter Chung Soon-taick của Tổng Giáo phận Seoul đã kêu gọi các bạn trẻ Công giáo hãy chia sẻ tình yêu thương với những người xung quanh mình.
Đức Tổng Giám mục Chung nói: “Cha nghĩ rằng Thiên Chúa đã kêu gọi các con đến với Nhóm Kinh Thánh Giới trẻ Công giáo để làm chứng và chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa mà các con đã cảm nghiệm được cho những người lân cận. Cha cũng hy vọng các con sẽ cố gắng can đảm đưa tình yêu đó vào thực tế trong cuộc sống của các con.”
Các tham dự viên chia sẻ: việc học Kinh Thánh đã giúp cuộc sống của họ trở nên hạnh phúc như thế nào, trong khi ban tổ chức cảm ơn tất cả những người đã ủng hộ nhóm trong suốt 50 năm qua.
Sơ Cho Hwa-seon, Dòng Nữ Tử Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, được xem là người tiên phong trong việc thành lập nhóm. Nữ tu lớn tuổi, khi đó là một sinh viên đại học, đã quy tụ cuộc họp đầu tiên của nhóm tại một tu viện ở Jeongneung, Seoul vào năm 1972. Sơ cho biết sơ rất vui khi thấy một số thành viên ban đầu tham dự lễ kỷ niệm 50 năm cùng với con cái của họ.
Đức Tổng Giám mục Andreas Choi Chang-mu, nguyên Tổng Giám mục Gwangju, nhớ lại cách thức Giáo hội tiếp tục phát triển với nhóm học hỏi Kinh Thánh bất chấp những bách hại của chế độ quân sự vào những năm 1970: “Mất khoảng ba năm để thành lập nhóm Kinh Thánh đầu tiên tại các giáo xứ, và sau đó trong vòng 10 năm, các nhóm Kinh thánh dành cho giới trẻ đã được thành lập.”
Helen Jin Hyo-na, một thành viên trong nhóm và là tình nguyện viên của chương trình kỷ niệm 50 năm, cho biết: “Tôi rất xúc động bởi theo bước chân của các bậc đàn anh đi trước, chúng tôi đã có cùng suy nghĩ và cùng nuôi dưỡng một đức tin, đồng thời khẳng định rằng mối quan tâm của giới trẻ không khác nhiều từ xưa cho tới nay. Tôi cảm thấy rằng Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta.” cô nói. (Ucanews.com)
(Vatican News 16.05.2022)