2022
Dư âm chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Kazakhstan
Dư âm chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Kazakhstan
Chuyến tông du thứ 38 của Đức Thánh Cha dài 3 ngày tại thủ đô Nur-Sultan của Kazakhstan đã tiến hành tốt đẹp. Về lại Vatican tối ngày 15/9, sáng sớm hôm sau, Đức Thánh Cha đã đến Đền thờ Đức Bà Cả để cảm tạ Mẹ Thiên Chúa vì ơn phù trợ trong chuyến viếng thăm, tuy ngắn ngủi, nhưng đã có những âm hưởng tích cực nơi nhiều người.
Ấn tượng của Đức Thánh Cha
Vị có cảm tưởng tích cực là chính Đức Thánh Cha, như ngài tỏ lộ trong câu trả lời cho nữ ký giả Zhanat Akhmetova của hãng thông tấn TV Khabar thuộc Kazakhstan trong cuộc họp báo trên máy bay chiều ngày 15/9 lúc trở về Roma. Ngài nói:
“Cuộc viếng thăm này đối với tôi cũng là một ngạc nhiên, vì về miền Trung Á, ngoài nhạc của Borodin, tôi không biết gì. Thật là một ngạc nhiên khi gặp gỡ các đại diện của quốc gia Kazakhstan. Và cả Kazakhstan cũng là một ngạc nhiên đối với tôi vì tôi không ngờ nước này như thế. Trước đó tôi chỉ biết đó là một nước, một thành phố phát triển tốt đẹp, khôn ngoan. Nhưng sau 30 năm độc lập, phát triển được như thế, thật là điều tôi không ngờ. Ngoài ra, một nước lớn như thế, mà chỉ có 19 triệu dân, thật là không tưởng tượng được, một nước rất kỷ luật, đẹp đẽ, bao nhiêu vẻ đẹp: kiến trúc của thành phố rất quân bình, bố trí kỹ lưỡng. Một thành phố tân tiến, và cả về mặt phát triển văn hóa. Thật là một ngạc nhiên mà tôi không ngờ. Rồi về Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo, một điều rất quan trọng, và đã tiến tới Hội nghị kỳ 7. Điều này cho thấy đó là một nước nhìn xa trông rộng, giúp đối thoại giữa những người thường bị gạt bỏ. Vì có một quan niệm cấp tiến của thế giới theo đó, điều đầu tiên mà người ta gạt bỏ là những giá trị tôn giáo. Kazakhstan là một nước xuất hiện trước mặt thế giới với một đề nghị về Hội nghị các tôn giáo và đã thực hiện được 7 lần rồi, thật là điều tuyệt vời! Bà có thể hãnh diện về đất nước của bà”.
Cảm tưởng của Đức ông Akashed
Đức Ông Khaled Boutros Akasheh, 68 tuổi (1954), người Giordani, Tổng thư ký Ủy ban Tòa Thánh liên lạc tôn giáo với người Hồi giáo, thuộc Bộ Đối thoại Liên tôn, nói với Radio Vatican rằng cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Kazakhstan và sự tham dự của ngài tại Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới tại Nur-Sultan là một đóng góp quan trọng cho công việc của Hội nghị này, và giúp duy trì hy vọng mặc dù chiến tranh tại Ucraina và tại nhiều nơi khác trên thế giới vẫn tiếp diễn.
Theo Đức Ông, đó là xác tín của những người tham dự Hội nghị và cả những người theo dõi sinh hoạt này qua truyền hình và các mạng xã hội. “Hy vọng và lời nguyện cầu của chúng tôi là những thành quả của Hội nghị này tiếp tục mưu ích cho đất nước Kazakhstan, cho miền này và cả thế giới”.
Đức Ông Akasheh cũng nhận xét rằng sự hiện diện của đại diện tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga tại Hội nghị, Đức Tổng Giám Mục Antonij, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ của Giáo Hội này, cũng là một dấu chỉ hy vọng. “Tôi đã có dịp trao đổi với Đức Tổng Giám Mục, và cảm thấy tin tưởng. Dĩ nhiên, nếu chiến tranh tiếp tục, thì điều này có những rắc rối, nhưng niềm hy vọng của chúng ta phải mạnh hơn nổi âu lo”.
Đức Ông Akasheh cũng tỏ ra có ấn tượng mạnh về những yếu tố được nói đến trong Tuyên ngôn chung kết của Hội nghị Liên tôn ở Nur-Sultan, và là những yếu tố được Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh, đó là hòa bình, tình huynh đệ, và cả tha thứ và cảm thông nhau, đây là những giá trị cần thiết, đặc biệt trong thời điểm đặc thù hiện nay, để vượt thắng những khó khăn và tái lập sự tín nhiệm và hòa bình, không những giữa Ucraina và Nga, nhưng cả trong những cuộc xung đột khác đang diễn ra trên thế giới.
Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan
Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Ba Lan, Stanislaw Gadecki, Tổng Giám Mục giáo phận Posznan, đã hướng dẫn phái đoàn Công Giáo Ba Lan, đến Nur-Sultan để dự Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo và cùng với các tín hữu tham dự Thánh lễ với Đức Thánh Cha chiều ngày 14/9.
Tuyên bố với hãng tin Kai của Công Giáo Ba Lan, Đức Tổng Giám Mục Gadecki cho biết bầu không khí tại Hội nghị thật là thân mật và thân hữu. Ngài nói: “Thật là một điều tự nhiên khi Hội nghị này diễn ra ở Kazakhstan lần thứ 7 vì đây là một quốc gia rộng lớn, nơi có hàng trăm sắc tộc sinh sống và hầu như tất cả các tôn giáo đều hiện diện tại nước này. Tổng thống Tokayev cố gắng bảo tồn sự thống nhất quốc gia và để được vậy, ông phải dùng phương thế đối thoại, một điều không dễ dàng. Nhưng cho đến nay ông đã thành công. Nhân dân Kazakhstan rất bao dung và ý thức rằng quốc gia sẽ không có tương lai nếu không có an bình nội địa.”
Đức Tổng Giám Mục lưu ý về một đoạn trong diễn văn của tổng thống Tokayev chào mừng Đức Thánh Cha, trong đó ông có nhắc đến những người Ba Lan và sự hiện diện của sắc dân này tại Kazakhstan từ khi Staline lưu đày họ đến miền này trong thập niên 1030 và 1040.
Đức Tổng Giám Mục Gadecki cũng nhận xét về bài tham luận bi thảm của Đức Tổng Giám Mục Antonij, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ tòa Thượng Phụ Chính Thống Mátxcơva: Đức Tổng Giám Mục trình bày một bối cảnh bi thảm của thế giới và nói rằng sau đại dịch có những cuộc chiến tranh ở các nơi và thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng về kinh tế và luân lý.
Đức Tổng Giám Mục Gadecki tỏ ra ngạc nhiên vì sau phần chính thức của Hội nghị, có phần trao tặng huân chương của Hội nghị và Đức Tổng Giám Mục Antonij được trao tặng huân chương thứ 4 vì đã đóng góp vào cuộc đối thoại. “Mọi người vỗ tay như thể không có gì đã xảy ra… Rất tiếc là Đức Tổng Giám Mục Antonij và cũng như không có ai trong các diễn văn chính thức đề cập đến chiến tranh tại Ucraina. Chỉ có Đức Thánh Cha nói tới chiến tranh. Tôi ngạc nhiên vì mức độ của Hội nghị này và con số các tham dự viên”.
Sau cùng Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan kể lại Thánh lễ Đức Thánh Cha cử hành, thật là tốt đẹp với gần 10 ngàn tín hữu. “Thật là điều cảm động tại Kazakhstan, vì các cộng đoàn Công Giáo ở nước này rất rải rác, tại nhiều nơi chỉ có 10, hay 15 tín hữu tụ họp dự lễ. Có rất nhiều người rước lễ trong Thánh lễ với Đức Thánh Cha… Tôi cũng ngạc nhiên vì con số đông đảo các Linh Mục và chủng sinh Ba Lan, thật là điều giúp lên tinh thần, một biến cố đặc biệt đối với Kazakhstan. Tôi cũng rất vui mừng vì trưởng ban tổ chức là Đức Tổng Giám Mục Tomasz Peta của giáo phận Nur-Sultan, người mà tôi đã quen biết từ hồi còn ở chủng viện Gnieszno bên Ba Lan.” (Kai 16-9-2022)
Hy vọng của một Linh mục thừa sai
Sau cùng, 1 linh mục thừa sai người Áo, Cha Leo Kropfreiter, bày tỏ hy vọng cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Kazakhstan để lại nhiều hiệu quả tích cực cho Giáo Hội Công Giáo địa phương.
Cha Leo thuộc dòng “Tôi Tớ Chúa Giêsu và Mẹ Maria” (Servi Jesu et Mariae), thụ phong Linh Mục năm 2008 và ngay sau đó được Bề trên gửi đến Kazakhstan hoạt động từ 14 năm nay. Tại Korneewka miền bắc nước này, cha và các tu sĩ cùng dòng cộng tác với các nữ tu dòng Phan Sinh phụ trách trung tâm giáo dục thánh Lorenzo với khoảng 200 em học sinh và người trẻ, từ tiểu học đến trung học. Từ 4 năm nay, cha Leo là giám đốc hành chánh của trường này. Từ năm 2015, cha cũng là Giám đốc toàn quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo ở Kazakhstan.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Radio Vatican tiếng Đức, Cha Leo nói rằng: “Chúng tôi hy vọng có nhiều công hiệu tích cực từ cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha và cụ thể là chúng tôi sẽ có nhiều tiếp xúc hơn với dân Kazakhstan. Nguyên trong thời gian chuẩn bị cho cuộc viếng thăm, chúng tôi đã có những liên lạc chặt chẽ với các nhân viên của chính phủ Kazakhstan. Họ cố gắng hết sức để mọi sự tiến hành tốt đẹp. Qua sự cộng tác đó, nhiều người Kazakhstan, vốn chưa có ý niệm gì về Giáo Hội Công Giáo, nay họ được dịp am tường hơn về Giáo Hội. Chúng tôi tin rằng những tiếp xúc như thế sẽ mang lại hoa trái trong tương lai”.
Cộng đoàn “Tôi tớ Chúa Giêsu và Mẹ Maria” của cha Leo đã cộng tác nhiều vào việc chuẩn bị chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại thủ đô Nur-Sultan.
Cha Leo cũng cho biết nhiều tín hữu gốc Đức và Ba Lan ở Kazakhstan đã xuất cư trong những năm qua, khiến cho cộng đoàn Công Giáo địa phương thưa người hơn, cơ cấu trở nên bé nhỏ hơn, nhưng đồng thời nhờ đó “chúng tôi cởi mở hơn đối với dân Kazakhstan bản địa. Những người dân này thường là những người Hồi giáo truyền thống. Thật là đẹp khi thấy dần dần có những cuộc xin rửa tội và trở lại Công Giáo từ những người thực sự trước kia rất xa Giáo Hội Công Giáo”.
Người Hồi giáo thường rất bảo thủ. Cách thức họ tiếp xúc với Giáo Hội Công Giáo và tìm ra ơn gọi của họ là điều mới mẻ. Chúng tôi nhận thấy rằng con đường tương lai đang được mở ra. Những người đến từ xa như thế, cảm nghiệm sự thu hút của Kitô giáo rất mạnh. Đó cũng là một bước quan trọng đối với chúng ta, thúc đẩy chính chúng tôi phải hoán cải, tái khám phá vẻ đẹp đức tin của mình và vẻ đẹp của Thiên Chúa”. (Kathpress 15-9-2022)
Giuse Trần Đức Anh, O.P.
2022
Đức Thánh Cha tại Kazakhstan: Đừng quen thuộc với chiến tranh
Đức Thánh Cha tại Kazakhstan: Đừng quen thuộc với chiến tranh
Vào cuối thánh lễ ở Nur-Sultan, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu nguyện cho tất cả các khu vực đang bị chiến tranh trên thế giới, bao gồm cả Ucraina, và kêu gọi đối thoại trên con đường hướng tới hòa bình, và mời gọi mọi người cùng hỗ trợ những người đang đau khổ.
📷
Sau khi cảm ơn Giáo hội địa phương đã chuẩn bị cho Thánh lễ và chuyến viếng thăm của ngài, cũng như bày tỏ lòng biết ơn chính quyền Kazakhstan và chào các lãnh đạo tôn giáo và mọi người hiện diện trong Thánh lễ, Đức Thánh Cha mời gọi kết hợp thiêng liêng với đền thánh địa cuốc gia Nữ vương Hòa bình ở Oziornoje trong Ngày lễ Suy tôn Thánh Giá được cử hành trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Lòng biết ơn trở thành lời cầu xin hoà bình
Ngài nhắc lại rằng các từ “Biết ơn người dân Kazakhstan” và “Hòa bình cho nhân loại” được khắc trên cây thánh giá lớn tại Thánh địa Quốc gia.
Được truyền cảm hứng từ những lời đó, Đức Thánh Cha nói rằng “lòng biết ơn Chúa về dân thánh của Chúa sống trong đất nước vĩ đại này, kết nối với lòng biết ơn vì cam sự dấn thân thúc đẩy đối thoại, trở thành lời cầu xin cho hòa bình, hòa bình mà thế giới của chúng ta vô cùng khao khát.”
Cầu nguyện cho các vùng bị xâu xé bởi chiến tranh
Đức Thánh Cha không quên nghĩ đến nhiều nơi đang bị chiến tranh tàn phá, đặc biệt là đất nước Ucraina thân yêu. Từ đó ngài nhắn nhủ: “Chúng ta đừng quen với chiến tranh, đừng cam chịu sự tất yếu của nó. Chúng ta hãy giúp đỡ những người đau khổ và cố gắng không mệt mỏi để mọi người thực sự cố gắng đạt được hòa bình.”
Khẳng định rằng “Lối thoát duy nhất là hòa bình và cách duy nhất để đạt được điều đó là đối thoại”, Đức Thánh Cha mời gọi tiếp tục cầu nguyện để thế giới sẽ học cách xây dựng hòa bình, cũng bằng cách hạn chế chạy đua vũ trang và bằng cách chuyển những chi phí chiến tranh khổng lồ thành hỗ trợ cụ thể cho người dân. Ngài kết thúc với lời “Cảm ơn tất cả những người tin tưởng vào điều này, cảm ơn anh chị em và tất cả những người là sứ giả của hòa bình và thống nhất!”
Hồng Thủy
2022
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá tại Nur-Sultan
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá tại Nur-Sultan
Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh giá tại Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO ở Nur-Sultan, Kazakhstan, và nói rằng từ Chúa Giêsu bị đóng đinh, các Kitô hữu học được “tình yêu chứ không phải hận thù; lòng trắc ẩn chứ không phải sự thờ ơ; sự tha thứ chứ không phải báo thù”.
Chiều thứ Ba ngày 14/9/2022, sau khi nghỉ trưa tại Toà Sứ Thần ở Nur-Sultan, lúc khoảng 4 giờ chiều Đức Thánh Cha đi xe đến Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO cách đó 7 cây số để dâng Thánh lễ.
Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO
Đây là nơi đã diễn ra Triển lãm Hội chợ Quốc tế năm 2017 về chủ đề “Năng lượng của tương lai”. Sự kiện tập trung về vấn đề sử dụng năng lượng hiệu quả, sự bền vững, năng lượng tái tạo và biến đổi khí hậu, có sự tham gia của 115 quốc gia và 22 tổ chức quốc tế và đã có 4 triệu người đến thăm quan, trong đó có 650 ngàn người từ nước ngoài.
Ngày nay khu phức hợp EXPO là tâm điểm của sự phát triển khoa học, công nghệ thông tin, kinh tế, cũng như của ngành công nghiệp giải trí. Tại đây có Bảo tàng Nur-Alem và Trung tâm Đại hội, nơi diễn ra các sự kiện quan trọng và có ý nghĩa trong những năm gần đây. Nur-Alem, Bảo tàng Năng lượng Tương lai, là toà nhà hình cầu lớn nhất thế giới, được xây dựng bằng kính và thép, được thiết kế bởi các kiến trúc sư người Mỹ Adrian Smith và Gordon Gill, với đường kính 80 mét, cao 100 mét và phần mở rộng bên trong là 26.000 mét vuông. Toà nhà là biểu tượng cho sự tiến bộ của Kazakhstan.
Quảng trường rộng lớn của khu triển lãm EXPO có thể chứa khoảng 10 ngàn tín hữu. Khi đến quảng trường EXPO, Đức Thánh Cha đi xe mui trần vòng quanh khu vực cử hành Thánh lễ để chào các tín hữu; sau đó, vào lúc gần 5 giờ chiều, ngài bắt đầu chủ sự Thánh lễ với sự tham dự của các Hồng y và giám mục tháp tùng ngài từ Vatican, các giám mục và các linh mục Kazakhstan cũng như các nước lân cận, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu Kazakhstan cũng như các tín hữu đến từ vùng Trung Á.
Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá
Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá được cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Nga. Trong bài giảng, từ sự đối lập giữa những con rắn lửa cắn chết và con rắn đồng cứu sống được nói đến trong bài trích sách Dân Số, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đinh, ơn cứu độ của chúng ta, để học tình yêu khiêm nhường phổ quát của Người. Để từ đó, chúng ta được giải khỏi nọc độc của sự ác, của thù hận, báo thù, để chúng ta không còn phàn nàn, cắn xé hay nghi ngờ mất tin tưởng lẫn nhau, và để chúng ta trở thành những Kitô hữu trọn vẹn, những chứng nhân vui tươi của sự sống mới, của tình yêu và hòa bình.
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng với lời giải thích lý do của Lễ Suy tôn Thánh giá: “Thập giá là giá xử tử, nhưng hôm nay chúng ta cử hành lễ Suy tôn Thánh giá của Chúa Kitô, bởi vì trên cây gỗ đó, Chúa Giêsu đã tự mình gánh lấy tội lỗi của chúng ta và sự dữ của thế gian, và đánh bại chúng bằng tình yêu của Người.” Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay nói về điều đó khi cho thấy sự tương phản giữa những con rắn cắn chết với con rắn cứu sống. Từ đó Đức Thánh Cha suy tư về hai hình ảnh.
Con rắn cắn chết và tội nghi ngờ mất tin tưởng vào Chúa
Trước hết là những con rắn cắn. Chúng tấn công người dân, những người một lần nữa lại rơi vào tội phàn nàn chống lại Chúa. Việc họ lầm bầm chống lại Thiên Chúa không chỉ đơn giản là cằn nhằn và phàn nàn về Người, nhưng cách sâu xa hơn, trong lòng người dân Israel đã mất niềm tin cậy vào Thiên Chúa, vào lời hứa của Người.
Sự việc này, theo Đức Thánh Cha, nhắc chúng ta nhớ đến con rắn đầu tiên được đề cập trong Kinh Thánh, trong sách Sáng Thế, kẻ cám dỗ, kẻ đã đầu độc trái tim của ông Ađam và bà Evà, và khiến họ nghi ngờ Thiên Chúa. Ma quỷ, dưới hình dạng một con rắn, đã lừa dối họ và khiến họ ngờ vực bằng cách thuyết phục họ rằng Thiên Chúa không tốt lành, nhưng ghen tị với tự do và hạnh phúc của họ. Tội nguyên tổ quay trở lại: dân Israel nghi ngờ Thiên Chúa, không tin cậy Người, họ phàn nàn và nổi loạn chống lại Đấng đã ban cho họ sự sống và vì vậy họ gặp phải sự chết.
Đoạn Kinh Thánh mời gọi chúng ta quan sát kỹ những khoảnh khắc trong lịch sử cá nhân và cộng đồng của chúng ta, những lúc mà sự tin tưởng vào Thiên Chúa và niềm tin giữa chúng ta bị mất đi. Đã bao lần, vì thất vọng và thiếu kiên nhẫn, chúng ta đã héo mòn trong sa mạc của chính mình, đánh mất mục tiêu của cuộc hành trình!
Những vết cắn của bạo lực
Đức Thánh Cha nhận định rằng tại đất nước Kazakhstan rộng lớn này cũng có sa mạc, có sự mệt mỏi, sự khô khan mà đôi khi chúng ta mang trong lòng, là những giây phút mệt mỏi và thử thách, khi mà chúng ta không còn đủ sức để nhìn lên cao, hướng về Thiên Chúa. Đó là những tình huống trong đời sống cá nhân, Giáo hội và xã hội, trong đó chúng ta bị con rắn của sự ngờ vực cắn, bị nhiễm độc bởi sự thất vọng và tuyệt vọng, của sự bi quan và cam chịu, và bị đóng kín trong cái tôi của mình, thiếu đi tất cả sự nhiệt thành. Và Đức Thánh Cha nghĩ đến những vết cắn đau đớn khác của những con rắn hung hãn của bạo lực, cuộc đàn áp của chủ nghĩa vô thần, sự đàn áp tôn giáo, và về một hành trình khó khăn khi quyền tự do của con người bị đe dọa và nhân phẩm của họ bị xúc phạm.
Ngài nhắc nhở mọi người gìn giữ ký ức về những đau khổ đó và không quên những khoảnh khắc nghiệt ngã. Hòa bình không bao giờ đạt được một lần cho mãi mãi; và để Kazakhstan có thể phát triển hơn nữa “trong tình huynh đệ, đối thoại và hiểu biết […] cần có sự dấn thân của mọi người. Nhưng trước đó, chúng ta cần phải canh tân niềm tin vào Chúa: ngước nhìn lên, nhìn vào Người và học hỏi từ tình yêu phổ quát và bị đóng đinh của Người.
Con rắn cứu sống
Đức Thánh Cha tiếp tục bài giảng bằng việc suy tư hình ảnh thứ hai: con rắn cứu sống. Khi dân chúng đang chết vì rắn lửa, Thiên Chúa nghe thấy lời cầu bầu của Môsê và nói với ông: “Ngươi hãy đúc một con rắn và treo nó trên một cây cột. Nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Và quả thật, “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống” (câu 9).
Lưu ý đến việc Thiên Chúa không tiêu diệt những con rắn độc đó nhưng đưa ra những chỉ dẫn chi tiết này cho ông Môsê, Đức Thánh Cha nhận định rằng cách hành động của Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy cách Người đối phó với sự ác, tội lỗi và sự ngờ vực của nhân loại. Khi đó cũng như bây giờ, trong cuộc chiến thiêng liêng mạnh mẽ kéo dài suốt lịch sử, Thiên Chúa không hủy diệt những thứ thấp hèn và vô giá trị mà con người chọn theo đuổi. Rắn độc không biến mất; chúng luôn ở đó, nằm chờ, sẵn sàng cắn.
Chúa Giêsu đã được giương cao trên Thánh giá
Thiên Chúa làm gì? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Đây là sự thay đổi mang tính quyết định: con rắn cứu sống đã đến giữa chúng ta. Chúa Giêsu, đã được giương cao trên Thánh giá, không cho phép những con rắn độc tấn công chúng ta để gây ra cái chết của chúng ta.
Đứng trước sự khốn cùng của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta một chân trời mới: nếu chúng ta luôn nhìn vào Chúa Giêsu, thì nọc độc của sự dữ không còn có thể chiến thắng chúng ta nữa, vì trên Thánh giá Người đã mang lấy trên mình nọc độc của tội lỗi và sự chết, và đè bẹp sức mạnh hủy diệt của chúng. Đó là cách Chúa Cha đáp lại sự dữ lây lan trên thế giới: Người đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Đấng đến gần chúng ta theo cách mà chúng ta không bao giờ có thể tưởng tượng được.
Từ Thánh giá, chúng ta nhìn theo cách nhìn yêu thương của Chúa
Đức Thánh Cha nói tiếp: Thưa anh chị em, đây là con đường, con đường dẫn đến ơn cứu độ của chúng ta, sự tái sinh và sự phục sinh của chúng ta: chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Từ trên cao đó, chúng ta có thể nhìn cuộc sống của chúng ta và lịch sử của các dân tộc chúng ta theo một cách nhìn mới. Vì từ Thánh giá của Chúa Kitô, chúng ta học được tình yêu thương, chứ không phải sự thù hận; lòng trắc ẩn, chứ không phải sự thờ ơ; lòng tha thứ chứ không phải sự báo thù. Vòng tay dang rộng của Chúa Giêsu là vòng tay của tình yêu dịu dàng mà Thiên Chúa muốn ôm chúng ta. Chúng cho chúng ta thấy tình yêu huynh đệ mà chúng ta được kêu gọi để dành cho nhau và cho mọi người. Chúng chỉ cho chúng ta con đường, con đường của Kitô giáo. Đó không phải là con đường của áp đặt và cưỡng bức, của quyền lực và địa vị; nó không bao giờ giơ Thánh giá của Chúa Kitô lên để chống lại anh chị em của chúng ta, những người mà Chúa đã dâng hiến mạng sống cho họ! Con đường của Chúa Giêsu, con đường cứu độ thì khác: đó là con đường của một tình yêu nhưng không khiêm nhường và phổ quát, không có những từ như “nếu”, “và” hay “nhưng”.
Là một Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc
Đúng, bởi vì trên cây gỗ của Thánh giá, Đức Kitô đã loại bỏ nọc độc khỏi con rắn sự dữ. Là một Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc: không cắn xé lẫn nhau, không phàn nàn, đổ lỗi và nhiều chuyện, không gieo rắc điều ác, không làm ô nhiễm trái đất bằng tội lỗi và sự không tin tưởng, những điều nảy sinh từ ma quỷ. Thưa anh chị em, chúng ta đã được tái sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh giá. Xin cho chúng ta được giải thoát khỏi nọc độc của sự chết (xem Kn 1,14), và hãy cầu nguyện để nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở nên những Kitô hữu trọn vẹn hơn bao giờ hết: những chứng nhân vui tươi của sự sống mới, của tình yêu và hòa bình.
Hồng Thủy
2022
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng
Trong diễn văn tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng của Đại hội lần thứ 7 các lãnh đạo thế giới và tôn giáo truyền thống, Đức Thánh Cha tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo; mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt; tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể; đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình; con người là đường của mọi tôn giáo.
Chúng ta đã cùng nhau đi trên con đường này. Cám ơn anh chị em đã đến từ những nơi khác nhau trên thế giới, mang đến đây sự phong phú về tín ngưỡng và văn hóa của anh chị em. Cám ơn anh chị em đã tham gia tích cực những ngày làm việc này, dấn thân và chia sẻ để phục vụ cho công cuộc đối thoại. Điều này càng có giá trị hơn bao giờ hết trong những thời điểm đầy thử thách, khi các vấn đề của đại dịch còn được cộng thêm bởi sự điên cuồng vô nghĩa của chiến tranh. Có quá nhiều hận thù và chia rẽ, nhưng thiếu sự đối thoại và hiểu nhau. Điều này còn nguy hiểm và tai tiếng hơn trong thế giới toàn cầu hóa. Chúng ta không thể tiến bước nếu đồng thời vừa có sự hiệp nhất và chia rẽ, liên kết và chia cắt bởi quá nhiều bất bình đẳng. Do đó, cám ơn anh chị em vì những nỗ lực hướng tới hòa bình và thống nhất. Cám ơn chính quyền địa phương, những người đã đón tiếp chúng tôi, chuẩn bị và tổ chức Đại hội một cách chu đáo. Cám ơn người dân Kazakhstan thân thiện và can đảm, có khả năng tiếp nhận các nền văn hóa khác trong khi vẫn bảo tồn lịch sử cao quý và truyền thống quý báu của mình. Kiop raqmet! Bolshoe spaibo! Cám ơn rất nhiều!
Khẩu hiệu cuộc thăm của tôi “Những sứ giả của Hòa bình và Hiệp nhất”, được viết ở số nhiều, vì đây là con đường chung. Và Đại hội lần thứ bảy này, trong đó chúng ta được tham gia nhờ ân ban của Đấng Tối Cao đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Kể từ khi bắt đầu vào năm 2003, sự kiện này đã được lấy làm mẫu là Ngày Cầu nguyện cho Hòa bình Thế giới do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triệu tập năm 2002 tại Assisi, nhằm tái khẳng định sự đóng góp tích cực của các truyền thống tôn giáo đối với đối thoại và hòa hợp giữa các dân tộc. Sau những gì xảy ra vào ngày 11/9/2001, cần phải phản ứng cùng nhau, trước bầu khí nóng rực mà bạo lực khủng bố muốn kích động và có nguy cơ khiến tôn giáo trở thành một yếu tố xung đột. Nhưng chủ nghĩa khủng bố tôn giáo giả, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa quốc gia được che đậy trong sự thánh thiêng vẫn làm dấy lên nỗi sợ hãi và lo ngại về tôn giáo. Như vậy, trong những ngày này, Thiên Chúa quan phòng đã cho chúng ta gặp nhau, để tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo.
Về vấn đề này, Tuyên bố của Đại hội chúng ta khẳng định rằng chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa khủng bố và tất cả các động cơ khác gây hận thù, thù địch, bạo lực và chiến tranh, bất kể động cơ hay mục tiêu của chúng, không liên quan gì đến tinh thần tôn giáo đích thực, phải bị từ chối theo những thuật ngữ quyết định nhất có thể (xem số 5): bị lên án, không có “nếu” và không có “nhưng”. Hơn nữa, dựa trên thực tế là Đấng Toàn Năng đã tạo dựng mọi người bình đẳng, bất kể họ thuộc tôn giáo, dân tộc hay xã hội nào, chúng ta đồng ý rằng sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau phải được coi là điều cần thiết và không thể thiếu trong việc giảng dạy tôn giáo (xem số 13).
Kazakhstan, trung tâm của lục địa lớn và quan trọng của châu Á, là nơi tự nhiên để chúng ta gặp gỡ. Lá cờ của quốc gia này nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết duy trì mối quan hệ lành mạnh giữa chính trị và tôn giáo. Thực tế, nếu đại bàng vàng được hiển thị trên lá cờ, gợi nhớ quyền lực trần thế và các đế chế cổ xưa, thì nền màu xanh lam gợi lên màu sắc của bầu trời, và sự siêu việt. Do đó, có một mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt, một hình thức chung sống lành mạnh giữ cho các lĩnh vực phân biệt. Phân biệt, nhưng không lẫn lộn hoặc tách biệt. Chúng ta hãy nói “Không” với sự lẫn lộn, vì lợi ích của con người. Con người giống như đại bàng, cần một bầu trời tự do để bay, một không gian tự do và rộng mở đến vô cùng không bị giới hạn bởi sức mạnh trần thế. Mặt khác, siêu việt không được nhượng bộ trước cám dỗ của việc biến mình thành quyền lực, nếu không, trời sẽ sập xuống, bên kia vĩnh cửu sẽ bị giam cầm trong trần thế hiện tại, tình yêu dành cho người lân cận trở thành mồi cho những quyết định đảng phái. Nói “Không” với sự lẫn lộn nhưng cũng nói “không” với sự tách biệt giữa chính trị và siêu việt, vì những khát vọng cao nhất của con người không thể bị loại trừ khỏi đời sống công cộng và chỉ được xếp vào lãnh vực cá nhân. Vì vậy, những người muốn bày tỏ niềm tin của họ một cách hợp pháp phải được bảo vệ ở mọi nơi và mọi lúc. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều người vẫn còn bị bắt bớ và phân biệt đối xử vì đức tin của họ! Chúng ta đã mạnh mẽ kêu gọi các chính phủ và các tổ chức quốc tế có liên quan hỗ trợ các nhóm tôn giáo và cộng đồng dân tộc bị vi phạm nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, cũng như bị bạo lực bởi những kẻ cực đoan và khủng bố, kể cả do hậu quả của chiến tranh và xung đột quân sự (số 6). Trên hết, cần phải dấn thân để tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể. Chúng ta hãy bảo vệ quyền tôn giáo, hy vọng, và vẻ đẹp cho tất cả mọi người. Bởi vì không chỉ Kazakhstan, như quốc thiều của họ tuyên bố, là “bầu trời của mặt trời vàng”, và điều này cũng đúng đối với mỗi người. Trong tính độc nhất tuyệt đối, mỗi người khi tiếp xúc với thần linh, có thể tỏa sáng đặc biệt trong thế giới chúng ta.
Do đó, Giáo hội Công giáo, vốn không bao giờ mệt mỏi trong việc loan báo phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,26), cũng tin vào sự hiệp nhất của gia đình nhân loại. Giáo hội Công giáo tin rằng “tất cả các dân tộc tạo thành một cộng đồng duy nhất, có một nguồn gốc duy nhất, vì Thiên Chúa đã tạo ra toàn thể loài người sống trên mặt đất” (Conc. Ecum. Vat. II, Dich. Nostra aetate, 1). Vì lý do này, kể từ khi bắt đầu Đại hội này, Tòa Thánh, đặc biệt qua Bộ Đối thoại Liên tôn, đã tích cực tham gia. Và Toà Thánh muốn tiếp tục như vậy: con đường đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình, và như vậy nó là cần thiết và không thể đảo ngược. Đối thoại liên tôn không chỉ là một cơ hội, nhưng là một sự phục vụ khẩn cấp và không thể thay thế đối với nhân loại, đối với sự ngợi khen và vinh quang của Đấng Tạo Hóa của tất cả mọi người.
Anh chị em thân mến, khi nghĩ về hành trình chung này, tôi tự hỏi: điểm hội tụ của chúng ta là gì? Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – người đã đến thăm Kazakhstan 21 năm trước – khẳng định rằng “mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến con người” và con người là “con đường của Giáo hội”. (Lett. enc. Redemptor hominis, 14) Hôm nay tôi muốn nói rằng con người cũng là con đường của mọi tôn giáo. Vâng, con người cụ thể, yếu nhược vì đại dịch, gục ngã bởi chiến tranh, bị tổn thương bởi sự thờ ơ! Con người, một thụ tạo mong manh và tuyệt vời, “biến mất nếu không có Đấng Tạo hóa” (Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. Gaudium et spes, 36) và không có người khác, không tồn tại! Chúng ta hãy nghĩ đến lợi ích của con người hơn là các mục tiêu chiến lược và kinh tế, lợi ích quốc gia, năng lượng và quân sự, trước khi đưa ra các quyết định quan trọng. Để đưa ra những lựa chọn thực sự lớn, hãy nghĩ đến trẻ em, thanh niên và tương lai của họ, người già và sự khôn ngoan của họ, những dân thường và nhu cầu thực sự của họ. Và chúng ta lên tiếng kêu lên rằng con người không bị thu hẹp vào những gì con người sản xuất và kiếm được; nhưng phải được chấp nhận và không bao giờ bị từ chối; gia đình, trong tiếng Kazakhstan là “tổ ấm của tâm hồn và tình yêu”, là thực tế tự nhiên và không thể thay thế, cần được bảo vệ và thúc đẩy để những các thế hệ mai sau lớn lên và trưởng thành.
Đối với toàn thể nhân loại, các nhà khôn ngoan và các truyền thống tôn giáo vĩ đại được kêu gọi để làm chứng cho sự tồn tại của một di sản tinh thần và đạo đức chung, vốn được xây dựng trên hai nền tảng: sự siêu việt và tình huynh đệ. Siêu việt, trổi vượt, tôn thờ. Thật đẹp khi mỗi ngày có hàng triệu triệu người, thuộc nhiều lứa tuổi, nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội, tụ họp cầu nguyện ở các nơi thờ phượng. Đó là sức mạnh âm thầm giữ cho thế giới tiếp tục. Và sau đó là tình huynh đệ, người khác, sự gần gũi. Vì người ta không thể tuyên xưng trung thành với Đấng Tạo Hóa mà không bày tỏ tình yêu đối với các thụ tạo của Người. Đây là tinh thần xuyên suốt Tuyên bố của Đại hội chúng ta, mà trong phần kết luận, tôi xin nhấn mạnh ba điều.
Đầu tiên là sự tổng hợp của tất cả, là sự thể hiện của một lời cầu xin chân thành, ước mơ và mục tiêu hành trình của chúng ta: hòa bình! Beybitşilik, mir, hoà bình! Hòa bình là cấp thiết bởi vì bất kỳ xung đột quân sự hoặc điểm nóng của căng thẳng và đối đầu ngày nay chỉ có thể gây ra “hiệu ứng domino” xấu làm tổn hại nghiêm trọng đến hệ thống quan hệ quốc tế (số 4). Nhưng “hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Gaudium et spes, 78). Do đó, hoà bình bắt nguồn từ tình huynh đệ, tiến triển qua cuộc chiến chống bất công và bất bình đẳng, nó được xây dựng bằng cách tiếp cận với những người khác. Chúng ta, những người tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa của tất cả, phải đi đầu trong việc truyền bá sự chung sống hòa bình. Chúng ta phải làm chứng, rao giảng, cầu xin cho hoà bình. Do đó, Tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới ngừng xung đột và đổ máu ở khắp mọi nơi, và từ bỏ những luận điệu hung hăng và phá hoại (số 7). Chúng tôi xin quý vị, nhân danh Thiên Chúa và vì lợi ích của nhân loại: hãy cam kết vì hòa bình, không vì vũ khí! Chỉ bằng cách phục vụ hòa bình, tên tuổi của quý vị sẽ còn vĩ đại trong lịch sử.
Nếu thiếu hòa bình, đó là vì thiếu sự quan tâm, dịu dàng và khả năng trao ban sự sống. Và do đó điều này phải được tìm kiếm bằng cách liên can nhiều hơn đến – điều thứ hai – phụ nữ. Bởi vì phụ nữ trao ban sự quan tâm và sự sống cho thế giới: họ là con đường dẫn đến hòa bình. Do đó, chúng tôi đã ủng hộ sự cần thiết bảo vệ phẩm giá của phụ nữ, và nâng cao địa vị xã hội của họ với tư cách là một thành viên bình đẳng trong gia đình và xã hội (số 24). Phụ nữ cũng phải được giao phó những vai trò và trách nhiệm lớn hơn. Có thể tránh được nhiều quyết định tai hại dẫn đến chết chóc nếu phụ nữ là trung tâm của các quyết định! Chúng ta hãy cam kết để phụ nữ được tôn trọng, công nhận và tham gia nhiều hơn.
Cuối cùng, điều thứ ba: các bạn trẻ. Họ là những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất của ngày hôm nay và mai sau. Hơn những người khác, chính những người trẻ là những người kêu gọi hòa bình và tôn trọng ngôi nhà chung của thụ tạo. Thay vào đó, lý luận của sự thống trị và bóc lột, tích trữ tài nguyên, chủ nghĩa quốc gia, chiến tranh và các khu vực ảnh hưởng phác hoạ một thế giới cũ, một thế giới bị những người trẻ từ chối, một thế giới khép kín với ước mơ và hy vọng của họ. Theo cách tương tự, tôn giáo cứng nhắc và ngột ngạt không thuộc về tương lai, nhưng thuộc về quá khứ. Nghĩ đến các thế hệ mới, tầm quan trọng của giáo dục đã được khẳng định ở đây, điều này tăng cường sự chấp nhận lẫn nhau và sự chung sống tôn trọng giữa các tôn giáo và nền văn hóa (số 11). Hãy cho những người trẻ cơ hội giáo dục chứ không phải vũ khí hủy diệt! Và chúng ta hãy lắng nghe họ, không sợ để mình bị họ chất vấn. Trên tất cả, chúng ta hãy xây dựng một thế giới nghĩ về họ!
Anh chị em thân mến, người dân Kazakhstan, hãy mở lòng đón nhận ngày mai và lưu tâm đến những đau khổ trong quá khứ, với sự phong phú về tôn giáo và văn hóa ngoại thường họ đã cung cấp cho chúng ta một tấm gương về tương lai. Họ mời gọi chúng ta xây dựng nhưng không quên tính siêu việt và tình huynh đệ, tôn thờ Đấng Tối Cao và sự chào đón của người khác. Chúng ta hãy tiếp tục như thế, cùng nhau bước đi trên trái đất với tư cách là những đứa con của Trời cao, những người dệt hy vọng và những nghệ nhân của sự hòa hợp, những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất!