2022
Đức Thánh Cha Phanxicô: Ước muốn là la bàn để phân định hướng đi của chúng ta
Đức Thánh Cha Phanxicô: Ước muốn là la bàn để phân định hướng đi của chúng ta
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 12/10/2022, Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về sự phân định, với yếu tố thứ ba không thể thiếu trong việc phân định; đó là ước muốn, niềm khao khát sâu xa về hạnh phúc và sự viên mãn hiện diện trong trái tim con người. Ngài cũng mời gọi các tín hữu xin Chúa giúp chúng ta biết ước muốn của Người dành cho cuộc đời chúng ta.
Đức Thánh Cha nói rằng theo truyền thống tu đức, ước muốn được xem là bằng chứng của nỗi khao khát bẩm sinh của chúng ta về Thiên Chúa, điều mà chỉ một mình Người có thể ban tặng. Ước muốn là một la bàn định hướng cuộc sống của chúng ta đến mục đích cuối cùng. Khi tìm kiếm Chúa và tin cậy vào những lời hứa của Người, chúng ta tìm thấy sức mạnh để kiên trì giữa những khó khăn, vui vẻ chấp nhận hy sinh, và cố gắng trong mọi sự để sống theo thánh ý Chúa.
Trong các Tin Mừng, Chúa Giêsu thường hỏi những ai xin phép lạ rằng họ xin Người điều gì, rằng họ có muốn được chữa lành không (ví dụ, Mc 10,51). Cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa trong cầu nguyện giúp chúng ta nói rõ những ước muốn sâu xa nhất của chúng ta và để Nguời thực hiện những phép lạ về ân sủng và chữa lành trong cuộc sống của chúng ta. Ước muốn lớn nhất của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được chia sẻ sự sống thần linh của Người và giúp chúng ta có thể tìm thấy nơi Người hạnh phúc vĩnh cửu và sự viên mãn của chúng ta.
Đức Thánh Cha cũng mời gọi các tín hữu xin Chúa giúp chúng ta biết ước muốn của Người dành cho cuộc đời chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong các bài giáo lý này về sự phân định, chúng ta đang xem xét các yếu tố của sự phân định. Sau việc cầu nguyện và hiểu biết chính mình, hôm nay tôi muốn nói về một “thành phần” khác không thể thiếu, đó là ước muốn. Thực tế, sự phân định là một hình thức tìm kiếm, và việc tìm kiếm luôn xuất phát từ những thứ chúng ta còn thiếu nhưng chúng ta lại biết chúng cách nào đó.
Ước muốn – dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng ta
Đây là loại hiểu biết nào? Các bậc thầy tu đức gọi nó bằng thuật ngữ “ước muốn”, là nỗi hoài mong về sự viên mãn không bao giờ có thể được lấp đầy trọn vẹn, và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng ta. Ước muốn không phải là mong muốn nhất thời. Từ ngữ tiếng Ý, desiderio, bắt nguồn từ một thuật ngữ Latinh rất hay: de-sidus, nghĩa đen là “thiếu ngôi sao”; ước muốn là việc thiếu ngôi sao, thiếu điểm tham chiếu định hướng hành trình cuộc sống; nó khơi dậy sự đau khổ, thiếu thốn, đồng thời là sự cố gắng để vươn tới những điều tốt đẹp còn thiếu. Vì vậy, ước muốn là la bàn để hiểu tôi đang ở đâu và tôi sẽ đi đâu. Đúng hơn nó là chiếc la bàn để hiểu xem tôi dừng lại hay đang đi. Một người không bao giờ ước muốn có nghĩa đó là một người đứng yên, có lẽ bị bệnh, gần như đã chết. Nhưng làm thế nào để có thể nhận ra nó?
Ước muốn chân thành không bị dập tắt khi đối mặt với khó khăn
Một ước muốn chân thành biết cách chạm sâu vào các hợp âm của con người chúng ta, do đó nó không bị dập tắt khi đối mặt với khó khăn hoặc thất bại. Nó giống như khi chúng ta khát: nếu chúng ta không tìm thấy thứ gì để uống, chúng ta không bỏ cuộc; trái lại, việc tìm kiếm càng lúc càng chiếm trọn suy nghĩ và hành động của chúng ta, cho đến khi chúng ta sẵn sàng hy sinh bất cứ điều gì để xoa dịu nó. Những trở ngại và thất bại không làm thui chột ước muốn; trái lại, chúng càng làm cho nó sống động hơn trong chúng ta.
Ước muốn tồn tại theo thời gian
Không giống như ham muốn hay cảm xúc nhất thời, ước muốn tồn tại theo thời gian, thậm chí rất lâu và có xu hướng hiện thực hóa nó. Ví dụ, nếu một người trẻ muốn trở thành bác sĩ, họ sẽ phải bắt tay vào một quá trình học tập và làm việc, điều sẽ chiếm vài năm trong cuộc đời của họ, và do đó sẽ phải đặt ra các giới hạn, nói “không”, trước hết là với các môn học khác, nhưng cũng với sự phân tâm và mất tập trung có thể có, đặc biệt là trong những giai đoạn học tập căng thẳng nhất. Tuy nhiên, ước muốn đem lại cho cuộc sống một hướng đi và đạt được mục tiêu đó giúp họ vượt qua những khó khăn này. Ước muốn mang lại cho bạn sức mạnh, giúp bạn can đảm, luôn thúc đẩy bạn tiến bước bởi vì bạn muốn đạt được nó: “Tôi muốn điều đó.”
Trên thực tế, một giá trị trở nên đẹp và dễ đạt được hơn khi nó lôi cuốn. Như có người đã nói, “còn quan trọng hơn cả tốt là có ước muốn trở nên tốt”.
Học hiểu những gì chúng ta thực sự muốn
Điều đáng chú ý là, trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường hỏi người ta về ước muốn của họ: “Anh có muốn được chữa lành không?”. Và đôi khi câu hỏi này có vẻ lạc lõng. Ví dụ, khi gặp người bại liệt tại hồ Betsaida, người đã ở đó nhiều năm và không bao giờ có thể xuống nước được đúng thời điểm, Chúa Giêsu hỏi ông: “Anh có muốn được khỏe lại không?” (Ga 5,6). Bằng cách nào? Trên thực tế, câu trả lời của người bại liệt cho thấy một loạt các kháng cự khó hiểu đối với việc được chữa lành, những điều không chỉ liên quan đến ông. Câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi làm sáng tỏ lòng của ông, chào đón một bước nhảy vọt có thể xảy ra: không còn coi bản thân và cuộc sống của mình “như một kẻ bại liệt”, được người khác khiêng đến. Nhưng người đàn ông nằm trên chõng dường như không tin vào điều này cho lắm. Khi đối thoại với Chúa, chúng ta học cách hiểu những gì chúng ta thực sự muốn từ cuộc sống của chúng ta.
Cẩn thận với những lời phàn nàn
Người bại liệt này là ví dụ điển hình của những người: “Vâng, vâng, tôi muốn tôi muốn tôi muốn” nhưng tôi không muốn, tôi không muốn, tôi không làm gì cả. Việc muốn làm trở thành một ảo tưởng và bạn không làm gì để thực hiện nó. Những người muốn và không muốn. Điều này thật tệ. Và người bệnh này đã 38 năm ở đó, nhưng luôn luôn có những lời phàn nàn: “Không, Ngài biết, khi nước chuyển động – đó là khoảnh khắc của phép lạ – Ngài biết đó, có người khoẻ hơn tôi đến và bước xuống hồ, và tôi đến trễ,” và ông ta rên rỉ và than vãn. Nhưng hãy cẩn thận bởi vì những lời phàn nàn là một thứ thuốc độc, một chất độc đối với tâm hồn, một chất độc đối với cuộc sống bởi vì chúng không làm cho bạn có ý muốn tiếp tục tiến bước. Hãy cẩn thận với những lời phàn nàn. Khi chúng ta phàn nàn trong gia đình, vợ chồng phàn nàn, người này phàn nàn người kia, cha con phàn nàn nhau, hay linh mục phàn nàn giám mục hay các giám mục phàn nàn nhau … Không, nếu bạn thấy mình phàn nàn, hãy cẩn thận, đó gần như là tội lỗi, bởi vì không để cho ước muốn lớn lên.
Ước muốn thực sự
Thông thường, chính ước muốn thực sự tạo nên sự khác biệt giữa một dự án thành công, nhất quán và lâu dài, với hàng ngàn ước muốn và ý định tốt, như người ta nói, “lát đường dẫn đến hoả ngục”. (Nghĩa là người ta có ý làm việc tốt nhưng chẳng bao giờ làm”. “Có, tôi muốn, tôi muốn”… nhưng bạn không làm gì cả. Thời đại mà chúng ta đang sống dường như ưu tiên quyền tự do lựa chọn tối đa, nhưng đồng thời cũng làm ước muốn bị giảm đi; bị giảm thành ham muốn nhất thời. Chúng ta bị tấn công bởi hàng ngàn đề xuất, dự án, khả năng, có nguy cơ khiến chúng ta mất tập trung và không cho phép chúng ta bình tĩnh đánh giá những gì chúng ta thực sự muốn.
Nhiều khi, rất nhiều lần, chúng ta thấy những người, ví dụ chúng ta nghĩ đến những người trẻ, với chiếc điện thoại di động trong tay và tìm kiếm, họ xem … “Nhưng bạn có dừng lại để suy nghĩ không?” – “Không”. Luôn hướng ngoại, hướng tới điều khác. Ước muốn không thể phát triển như thế này, bạn sống trong khoảnh khắc đó, được thoả mãn trong khoảnh khắc đó và ước muốn không phát triển.
Đau khổ bởi vì không biết mình muốn gì từ cuộc sống của mình
Nhiều người đau khổ bởi vì họ không biết họ muốn gì từ cuộc sống của mình; có lẽ họ chưa bao giờ chạm tới được mong muốn sâu xa nhất của họ. Do đó, có nguy cơ là cuộc sống của họ là những lần thử làm và những cách thế mưu mẹo khác nhau, không bao giờ đi đến đâu và lãng phí những cơ hội quý giá. Và do đó, dù trên lý thuyết họ ước muốn có một số thay đổi, nhưng khi có cơ hội thì lại không bao giờ thực hiện, thiếu ước muốn mạnh mẽ để thực hiện một việc.
Để Chúa thực hiện phép lạ cho chúng ta
Nếu hôm nay Chúa hỏi chúng ta câu hỏi mà Người đã hỏi người mù ở Giêricô: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,51), chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Có lẽ cuối cùng chúng ta có thể yêu cầu Người giúp chúng ta biết ước muốn sâu xa nhất của Người, điều mà chính Thiên Chúa đã đặt trong lòng chúng ta: “Lạy Chúa, xin cho con biết những ước muốn của con, xin cho con là một người phụ nữ, một người đàn ông có nhiều ước muốn lớn lao”. Có lẽ Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để biến nó thành hiện thực. Đó là một ân sủng lớn lao, là nền tảng của tất cả những ân sủng khác: để cho Chúa, như trong Tin Mừng, thực hiện phép lạ cho chúng ta: “Lạy Chúa, xin cho chúng con ước muốn và xin làm cho nó lớn lên.”
Bởi vì Chúa cũng có một ước muốn lớn lao đối với chúng ta: làm cho chúng ta chia sẻ cuộc sống viên mãn của Người.
Hồng Thủy
2022
Đức Thánh Cha Phanxicô: Ước muốn là la bàn để phân định hướng đi của chúng ta
Đức Thánh Cha Phanxicô: Ước muốn là la bàn để phân định hướng đi của chúng ta
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 12/10/2022, Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về sự phân định, với yếu tố thứ ba không thể thiếu trong việc phân định; đó là ước muốn, niềm khao khát sâu xa về hạnh phúc và sự viên mãn hiện diện trong trái tim con người. Ngài cũng mời gọi các tín hữu xin Chúa giúp chúng ta biết ước muốn của Người dành cho cuộc đời chúng ta.
Đức Thánh Cha nói rằng theo truyền thống tu đức, ước muốn được xem là bằng chứng của nỗi khao khát bẩm sinh của chúng ta về Thiên Chúa, điều mà chỉ một mình Người có thể ban tặng. Ước muốn là một la bàn định hướng cuộc sống của chúng ta đến mục đích cuối cùng. Khi tìm kiếm Chúa và tin cậy vào những lời hứa của Người, chúng ta tìm thấy sức mạnh để kiên trì giữa những khó khăn, vui vẻ chấp nhận hy sinh, và cố gắng trong mọi sự để sống theo thánh ý Chúa.
Trong các Tin Mừng, Chúa Giêsu thường hỏi những ai xin phép lạ rằng họ xin Người điều gì, rằng họ có muốn được chữa lành không (ví dụ, Mc 10,51). Cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa trong cầu nguyện giúp chúng ta nói rõ những ước muốn sâu xa nhất của chúng ta và để Nguời thực hiện những phép lạ về ân sủng và chữa lành trong cuộc sống của chúng ta. Ước muốn lớn nhất của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được chia sẻ sự sống thần linh của Người và giúp chúng ta có thể tìm thấy nơi Người hạnh phúc vĩnh cửu và sự viên mãn của chúng ta.
Đức Thánh Cha cũng mời gọi các tín hữu xin Chúa giúp chúng ta biết ước muốn của Người dành cho cuộc đời chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong các bài giáo lý này về sự phân định, chúng ta đang xem xét các yếu tố của sự phân định. Sau việc cầu nguyện và hiểu biết chính mình, hôm nay tôi muốn nói về một “thành phần” khác không thể thiếu, đó là ước muốn. Thực tế, sự phân định là một hình thức tìm kiếm, và việc tìm kiếm luôn xuất phát từ những thứ chúng ta còn thiếu nhưng chúng ta lại biết chúng cách nào đó.
Ước muốn – dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng ta
Đây là loại hiểu biết nào? Các bậc thầy tu đức gọi nó bằng thuật ngữ “ước muốn”, là nỗi hoài mong về sự viên mãn không bao giờ có thể được lấp đầy trọn vẹn, và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng ta. Ước muốn không phải là mong muốn nhất thời. Từ ngữ tiếng Ý, desiderio, bắt nguồn từ một thuật ngữ Latinh rất hay: de-sidus, nghĩa đen là “thiếu ngôi sao”; ước muốn là việc thiếu ngôi sao, thiếu điểm tham chiếu định hướng hành trình cuộc sống; nó khơi dậy sự đau khổ, thiếu thốn, đồng thời là sự cố gắng để vươn tới những điều tốt đẹp còn thiếu. Vì vậy, ước muốn là la bàn để hiểu tôi đang ở đâu và tôi sẽ đi đâu. Đúng hơn nó là chiếc la bàn để hiểu xem tôi dừng lại hay đang đi. Một người không bao giờ ước muốn có nghĩa đó là một người đứng yên, có lẽ bị bệnh, gần như đã chết. Nhưng làm thế nào để có thể nhận ra nó?
Ước muốn chân thành không bị dập tắt khi đối mặt với khó khăn
Một ước muốn chân thành biết cách chạm sâu vào các hợp âm của con người chúng ta, do đó nó không bị dập tắt khi đối mặt với khó khăn hoặc thất bại. Nó giống như khi chúng ta khát: nếu chúng ta không tìm thấy thứ gì để uống, chúng ta không bỏ cuộc; trái lại, việc tìm kiếm càng lúc càng chiếm trọn suy nghĩ và hành động của chúng ta, cho đến khi chúng ta sẵn sàng hy sinh bất cứ điều gì để xoa dịu nó. Những trở ngại và thất bại không làm thui chột ước muốn; trái lại, chúng càng làm cho nó sống động hơn trong chúng ta.
Ước muốn tồn tại theo thời gian
Không giống như ham muốn hay cảm xúc nhất thời, ước muốn tồn tại theo thời gian, thậm chí rất lâu và có xu hướng hiện thực hóa nó. Ví dụ, nếu một người trẻ muốn trở thành bác sĩ, họ sẽ phải bắt tay vào một quá trình học tập và làm việc, điều sẽ chiếm vài năm trong cuộc đời của họ, và do đó sẽ phải đặt ra các giới hạn, nói “không”, trước hết là với các môn học khác, nhưng cũng với sự phân tâm và mất tập trung có thể có, đặc biệt là trong những giai đoạn học tập căng thẳng nhất. Tuy nhiên, ước muốn đem lại cho cuộc sống một hướng đi và đạt được mục tiêu đó giúp họ vượt qua những khó khăn này. Ước muốn mang lại cho bạn sức mạnh, giúp bạn can đảm, luôn thúc đẩy bạn tiến bước bởi vì bạn muốn đạt được nó: “Tôi muốn điều đó.”
Trên thực tế, một giá trị trở nên đẹp và dễ đạt được hơn khi nó lôi cuốn. Như có người đã nói, “còn quan trọng hơn cả tốt là có ước muốn trở nên tốt”.
Học hiểu những gì chúng ta thực sự muốn
Điều đáng chú ý là, trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường hỏi người ta về ước muốn của họ: “Anh có muốn được chữa lành không?”. Và đôi khi câu hỏi này có vẻ lạc lõng. Ví dụ, khi gặp người bại liệt tại hồ Betsaida, người đã ở đó nhiều năm và không bao giờ có thể xuống nước được đúng thời điểm, Chúa Giêsu hỏi ông: “Anh có muốn được khỏe lại không?” (Ga 5,6). Bằng cách nào? Trên thực tế, câu trả lời của người bại liệt cho thấy một loạt các kháng cự khó hiểu đối với việc được chữa lành, những điều không chỉ liên quan đến ông. Câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi làm sáng tỏ lòng của ông, chào đón một bước nhảy vọt có thể xảy ra: không còn coi bản thân và cuộc sống của mình “như một kẻ bại liệt”, được người khác khiêng đến. Nhưng người đàn ông nằm trên chõng dường như không tin vào điều này cho lắm. Khi đối thoại với Chúa, chúng ta học cách hiểu những gì chúng ta thực sự muốn từ cuộc sống của chúng ta.
Cẩn thận với những lời phàn nàn
Người bại liệt này là ví dụ điển hình của những người: “Vâng, vâng, tôi muốn tôi muốn tôi muốn” nhưng tôi không muốn, tôi không muốn, tôi không làm gì cả. Việc muốn làm trở thành một ảo tưởng và bạn không làm gì để thực hiện nó. Những người muốn và không muốn. Điều này thật tệ. Và người bệnh này đã 38 năm ở đó, nhưng luôn luôn có những lời phàn nàn: “Không, Ngài biết, khi nước chuyển động – đó là khoảnh khắc của phép lạ – Ngài biết đó, có người khoẻ hơn tôi đến và bước xuống hồ, và tôi đến trễ,” và ông ta rên rỉ và than vãn. Nhưng hãy cẩn thận bởi vì những lời phàn nàn là một thứ thuốc độc, một chất độc đối với tâm hồn, một chất độc đối với cuộc sống bởi vì chúng không làm cho bạn có ý muốn tiếp tục tiến bước. Hãy cẩn thận với những lời phàn nàn. Khi chúng ta phàn nàn trong gia đình, vợ chồng phàn nàn, người này phàn nàn người kia, cha con phàn nàn nhau, hay linh mục phàn nàn giám mục hay các giám mục phàn nàn nhau … Không, nếu bạn thấy mình phàn nàn, hãy cẩn thận, đó gần như là tội lỗi, bởi vì không để cho ước muốn lớn lên.
Ước muốn thực sự
Thông thường, chính ước muốn thực sự tạo nên sự khác biệt giữa một dự án thành công, nhất quán và lâu dài, với hàng ngàn ước muốn và ý định tốt, như người ta nói, “lát đường dẫn đến hoả ngục”. (Nghĩa là người ta có ý làm việc tốt nhưng chẳng bao giờ làm”. “Có, tôi muốn, tôi muốn”… nhưng bạn không làm gì cả. Thời đại mà chúng ta đang sống dường như ưu tiên quyền tự do lựa chọn tối đa, nhưng đồng thời cũng làm ước muốn bị giảm đi; bị giảm thành ham muốn nhất thời. Chúng ta bị tấn công bởi hàng ngàn đề xuất, dự án, khả năng, có nguy cơ khiến chúng ta mất tập trung và không cho phép chúng ta bình tĩnh đánh giá những gì chúng ta thực sự muốn.
Nhiều khi, rất nhiều lần, chúng ta thấy những người, ví dụ chúng ta nghĩ đến những người trẻ, với chiếc điện thoại di động trong tay và tìm kiếm, họ xem … “Nhưng bạn có dừng lại để suy nghĩ không?” – “Không”. Luôn hướng ngoại, hướng tới điều khác. Ước muốn không thể phát triển như thế này, bạn sống trong khoảnh khắc đó, được thoả mãn trong khoảnh khắc đó và ước muốn không phát triển.
Đau khổ bởi vì không biết mình muốn gì từ cuộc sống của mình
Nhiều người đau khổ bởi vì họ không biết họ muốn gì từ cuộc sống của mình; có lẽ họ chưa bao giờ chạm tới được mong muốn sâu xa nhất của họ. Do đó, có nguy cơ là cuộc sống của họ là những lần thử làm và những cách thế mưu mẹo khác nhau, không bao giờ đi đến đâu và lãng phí những cơ hội quý giá. Và do đó, dù trên lý thuyết họ ước muốn có một số thay đổi, nhưng khi có cơ hội thì lại không bao giờ thực hiện, thiếu ước muốn mạnh mẽ để thực hiện một việc.
Để Chúa thực hiện phép lạ cho chúng ta
Nếu hôm nay Chúa hỏi chúng ta câu hỏi mà Người đã hỏi người mù ở Giêricô: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,51), chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Có lẽ cuối cùng chúng ta có thể yêu cầu Người giúp chúng ta biết ước muốn sâu xa nhất của Người, điều mà chính Thiên Chúa đã đặt trong lòng chúng ta: “Lạy Chúa, xin cho con biết những ước muốn của con, xin cho con là một người phụ nữ, một người đàn ông có nhiều ước muốn lớn lao”. Có lẽ Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để biến nó thành hiện thực. Đó là một ân sủng lớn lao, là nền tảng của tất cả những ân sủng khác: để cho Chúa, như trong Tin Mừng, thực hiện phép lạ cho chúng ta: “Lạy Chúa, xin cho chúng con ước muốn và xin làm cho nó lớn lên.”
Bởi vì Chúa cũng có một ước muốn lớn lao đối với chúng ta: làm cho chúng ta chia sẻ cuộc sống viên mãn của Người.
Hồng Thủy
2022
Đức Thánh Cha Phanxicô: Trái tim tôi luôn hướng về dân tộc Ucraina
Đức Thánh Cha Phanxicô: Trái tim tôi luôn hướng về dân tộc Ucraina
Vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng ngày 12/10, một lần nữa Đức Thánh Cha đưa ra lời kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Ucraina và ngài xin Chúa biến đổi con tim của các nhà lãnh đạo đang nắm giữ số phận của chiến tranh để chiến tranh được chấm dứt.
Trong bối cảnh những cuộc pháo kíchmới đây của Nga tại các thành phố của Ucraina, vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 12/10, một lần nữa Đức Thánh Cha đưa ra lời kêu gọi cho đất nước Ucraina đang bị tàn phá bởi chiến tranh. Ngài nói: “Trong những ngày này, trái tim tôi luôn hướng về dân tộc Ucraina, đặc biệt là với những người dân ở những nơi đã xảy ra các vụ đánh bom.”
Đầu tuần này, Ucraina đã hứng chịu trận pháo kích nặng nề nhất kể từ những ngày đầu của cuộc chiến. Các cuộc tấn công bằng tên lửa của Nga không chỉ tấn công nhiều địa điểm ở trung tâm thủ đô Kyiv mà còn cả Lviv, Dnipro, Kharkiv và các thành phố khác, cướp đi sinh mạng của một số người và gây ra nhiều thương vong.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi mang trong lòng mình nỗi đau của họ và nhờ sự chuyển cầu của Thánh Mẫu Thiên Chúa, tôi dâng nó lên Chúa trong lời cầu nguyện.” Ngài xác tín rằng Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe tiếng kêu của những ai cầu khẩn Người.
Và Đức Thánh Cha cầu xin Chúa Thánh Thần “biến đổi trái tim của những người nắm giữ số phận của cuộc chiến trong tay của họ, để cơn bão bạo lực có thể chấm dứt và sự chung sống hòa bình trong công lý có thể được xây dựng lại.”
Hồng Thủy
2022
Lễ Phong Thánh cho hai chân phước Scalabrini và Artemide Zatti
Lễ Phong Thánh cho hai chân phước Scalabrini và Artemide Zatti
Tại quảng trường thánh Phêrô, vào lúc 10 giờ 15 sáng Chúa Nhật 09/10/2022, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ phong thánh cho 2 chân phước Giovanni Battista Scalabrini và Artemide Zatti, với sự hiện diện của khoảng 50 ngàn tín hữu.
PopeFrancis_09Oct2022.jpeg
Sau khi hát ca nhập lễ, Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với các cáo thỉnh viên án phong thánh, đến trước Đức Thánh Cha và xin ĐTC phong thánh cho 2 chân phước.
Tiếp theo Đức Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh trình bày tóm tắt tiểu sử của hai vị Chân phước được phong thánh hôm nay.
Sau khi Đức Thánh Cha và cộng đoàn hát kinh Thương Xót và kinh Cầu Các Thánh, ĐTC đã đọc công thức phong thánh:
Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi, đề cao đức tin Công giáo và gia tăng đời sống Kitô hữu, bằng quyền của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và của chính chúng tôi, sau khi đã suy tư và cầu xin sự trợ giúp của Chúa và nghe ý kiến của các anh em Giám mục của chúng tôi, chúng tôi tuyên bố và xác định các chân phước Giovanni Battista Scalabrini và Artemide Zatti là hiển thánh và ghi tên các ngài vào sổ bộ các thánh, truyền rằng các ngài được tôn kính bởi toàn thể Giáo hội. Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật XXVIII thường niên.
Trong bài giảng sau bài Phúc Âm, ĐTC nhấn mạnh 2 điều trong bài Tin Mừng: cùng nhau bước đi và tạ ơn.
Bài giảng Thánh Lễ
Đang khi Chúa Giêsu đi trên đường thì có mười người phong cùi đến gặp Người và kêu lớn: “Xin thương xót chúng tôi” (Lc 17,13). Tất cả mười người đều được chữa lành, nhưng chỉ có một người trong số họ quay lại cảm ơn Chúa Giê-su: anh ta là người Samari, một người lạc giáo đối với người Do Thái. Khởi đầu họ đi cùng nhau, nhưng sau đó sự khác biệt xảy ra khi người Samari đó quay lại “lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa” (câu 15). Chúng ta hãy dừng lại ở hai khía cạnh mà chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay: cùng nhau bước đi và tạ ơn.
Cùng nhau bước đi
Trước hết là cùng nhau bước đi. Khởi đầu câu chuyện không có sự phân biệt giữa người Samari và chín người khác. Câu chuyện chỉ đơn giản nói về mười người phong cùi, những người này tạo thành một nhóm cùng nhau và không có sự tách biệt, đi gặp Chúa Giê-su. Bệnh phong cùi, như chúng ta biết, không chỉ là vết thương thể lý – mà ngay cả ngày nay chúng ta phải dấn thân để loại bỏ -, mà còn là một “căn bệnh xã hội”, bởi vì thời đó, vì nỗi sợ ô uế, người phong cùi phải ở ngoài cộng đồng (x. Lv 13,46). Vì vậy, họ không thể vào các trung tâm dân cư, họ bị giới hạn ở một khoảng cách xa, bị đẩy ra rìa của đời sống xã hội và thậm chí cả tôn giáo, họ bị cô lập. Cùng nhau bước đi, những người phong cùi này biểu lộ tiếng kêu của họ đối với một xã hội loại trừ họ. Chúng ta cũng lưu ý rằng: người Samari, ngay cả khi bị coi là một kẻ lạc giáo, một “người ngoại quốc”, cũng ở trong cùng một nhóm với những người khác. Anh chị em, bệnh tật và yếu đuối thường phá vỡ các rào cản và vượt qua mọi loại trừ.
Đây cũng là một hình ảnh đẹp đối với chúng ta: khi thành thật với chính mình, chúng ta nhớ rằng chúng ta đều đau bệnh nơi lòng mình, rằng chúng ta đều là tội nhân, tất cả đều cần đến lòng thương xót của Chúa Cha. Và do đó, chúng ta không còn phân chia dựa trên công trạng, vai trò mà chúng ta đảm nhận hoặc những yếu tố bên ngoài khác của cuộc sống, và do đó, phá vỡ bức tường bên trong, phá vỡ những định kiến. Vì vậy, cuối cùng, chúng ta lại nhận ra mình là anh em. Ngay cả Naaman người Syri – mà chúng ta nghe ở bài đọc I -, dù giàu có và quyền thế, cũng phải làm một việc đơn giản để được chữa lành: dìm mình trong dòng sông nơi tắm của tất cả những người khác. Trước hết, ông phải cởi bỏ áo giáp, y phục của mình (x. 2V 5): thật tốt khi chúng ta cởi bỏ áo giáp bên ngoài, các hàng rào phòng thủ và tắm một cách khiêm nhường; hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều mong manh bên trong, tất cả chúng ta cần được chữa lành, tất cả là anh chị em. Chúng ta hãy nhớ điều này: đức tin Kitô giáo luôn đòi hỏi chúng ta phải cùng nhau bước đi với những người khác, đừng bao giờ trở thành những người bước đi đơn độc; nó luôn luôn mời gọi chúng ta ra khỏi chính mình để đến với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta, đừng bao giờ khép lại trong chính mình; Thiên Chúa luôn luôn đòi chúng ta nhận ra bản thân cần được chữa lành và được tha thứ, và chia sẻ sự yếu đuối của những người bên cạnh chúng ta, mà không thấy mình là người vượt trội.
Anh chị em thân mến, hãy kiểm điểm xem trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình của chúng ta, nơi chúng ta làm việc và lui tới hàng ngày, chúng ta có thể cùng nhau bước đi với những người khác không? Chúng ta có thể lắng nghe, vượt qua cám dỗ dựng rào chắn bằng cách tự quy chiếu về mình và chỉ nghĩ đến nhu cầu của mình không? Nhưng cùng nhau bước đi – là “hiệp hành” – cũng là ơn gọi của Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem chúng ta thực sự hướng tới những cộng đoàn mở và hoà nhập đến mức nào; xem chúng ta có thể làm việc cùng nhau, linh mục và giáo dân, để phục vụ Tin Mừng; xem chúng ta có thái độ chào đón – không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những cử chỉ cụ thể – đối với những người ở xa và đối với tất cả những người đến gần chúng ta, những người cảm thấy hụt hẫng vì cuộc sống gập ghềnh của họ. Chúng ta có làm cho họ cảm thấy là thành phần của cộng đoàn hay chúng ta loại trừ họ? Tôi rất sợ khi thấy các cộng đoàn Kitô hữu phân chia thế giới thành tốt và xấu, người thánh và kẻ tội lỗi: theo lối này, chúng ta đi đến chỗ cảm thấy mình tốt hơn những người khác và tránh xa nhiều người mà Thiên Chúa ôm vào lòng. Xin hãy vui lòng luôn đón nhận trong Giáo hội, cũng như trong xã hội, nơi vẫn còn bị đánh dấu bởi rất nhiều bất bình đẳng và nhiều người bị gạt ra bên lề xã hội.
Hãy luôn đón nhận. Hôm nay, trong ngày Scalabrini trở thành một vị thánh, tôi muốn nghĩ đến những người di cư. Thật là tệ hại khi loại trừ người di cư! Thật vậy, loại trừ những người di cư là tội phạm, nó khiến họ chết trước mặt chúng ta. Ngày nay chúng ta có Địa Trung Hải là nghĩa trang lớn nhất trên thế giới. Việc loại trừ những người di cư là kinh tởm, là tội lỗi, là tội phạm. Chúng ta có thể nói: “Không, chúng tôi không loại trừ họ, chúng tôi gửi họ đi”: đến các trại tập trung, nơi họ bị bóc lột và bị bán làm nô lệ. Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta nghĩ đến những người di cư của chúng ta, những người đã chết. Và đối với những người được vào, chúng ta có nhận họ như anh chị em hay chúng ta bóc lột họ? Tôi chỉ đặt ra câu hỏi.
Tạ ơn
Khía cạnh thứ hai là tạ ơn. Trong nhóm mười người phong cùi chỉ có một người, khi thấy mình được chữa lành, đã quay lại ngợi khen Thiên Chúa và diễn tả lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu. Chín người còn lại được chữa lành, nhưng rồi họ đi luôn, quên mất Đấng đã chữa lành cho họ. Quên mất những ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Ngược lại, người Samari làm cho món quà nhận được trở thành khởi đầu của một cuộc hành trình mới: anh ta quay trở lại với Đấng đã chữa lành cho anh, tìm hiểu kỹ hơn về Chúa Giêsu, bắt đầu một tương quan với Người. Do đó, thái độ biết ơn của anh không đơn thuần là một cử chỉ lịch sự, nhưng là khởi đầu của một hành trình biết ơn: Người sấp mình dưới chân Đức Kitô (x. Lc 17,16), nghĩa là, anh làm một cử chỉ thờ lạy: nhận rằng Đức Giêsu là Chúa, và điều đó còn quan trọng hơn sự chữa lành đã nhận được.
Anh chị em thân mến, đây là một bài học lớn cho chúng ta, những người được hưởng nhờ ơn huệ mỗi ngày từ Thiên Chúa, nhưng lại thường bỏ đi theo con đường riêng của mình mà quên trau dồi mối tương quan sống động và thực sự với Người. Đây là một căn bệnh tinh thần rất xấu: chẳng để tâm gì, ngay cả với đức tin, thậm chí mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đến mức trở thành những Kitô hữu không còn biết ngạc nhiên, không còn biết nói lời “cảm ơn”, không diễn tả lòng biết ơn, không biết nhìn thấy điều kỳ diệu của Chúa. Và, do đó, chúng ta đi đến chỗ nghĩ rằng mọi thứ chúng ta nhận được hàng ngày là hiển nhiên và phải có. Ngược lại, lòng biết ơn, biết cách nói “cảm ơn”, dẫn chúng ta đến việc nhận biết sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa. Và cũng nhận ra tầm quan trọng của những người khác, chiến thắng sự cay đắng và thờ ơ khiến tâm hồn chúng ta trở nên xấu xí. Điều cần thiết là phải biết cảm ơn. Mỗi ngày nói lời tạ ơn Chúa, mỗi ngày biết cảm ơn nhau: trong gia đình, vì những điều nhỏ chúng ta nhận được mà đôi khi chẳng buồn hỏi chúng đến từ đâu; ở những nơi chúng ta thường lui tới hàng ngày, vì nhiều sự phục vụ mà chúng ta nhận được và những người hỗ trợ chúng ta; trong các cộng đoàn Kitô của chúng ta, vì tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta cảm nghiệm qua sự gần gũi của anh chị em, những người thường cầu nguyện trong thinh lặng, dâng hiến, chịu đau khổ, bước đi cùng với chúng ta. Xin đừng quên từ khóa này: “cảm ơn”! Đừng quên nghe và nói “cảm ơn”!
Noi gương hai vị tân hiển thánh
Hai vị được phong thánh hôm nay nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc bước đi cùng nhau và biết tạ ơn. Giám mục Scalabrini, người đã thành lập hai Hội Dòng, một nam và một nữ, chăm sóc người di cư, khẳng định rằng khi bước đi chung với những người di cư, đừng chỉ nhìn thấy các vấn đề, mà còn nhận ra một kế hoạch của Chúa quan phòng. Ngài nói: “Chính nhờ sự di cư ép buộc do bị bách hại mà Giáo hội đã vượt ra khỏi biên giới của Giêrusalem và Israel, và trở thành “Công giáo”; nhờ những cuộc di cư ngày nay, Giáo hội sẽ là khí cụ của hòa bình và hiệp thông giữa các dân tộc ”(L’emigrazione degli operai italiani, Ferrara 1899). Ngay lúc này, có một cuộc di cư ở Châu Âu khiến chúng ta đau khổ rất nhiều và khiến chúng ta phải mở lòng: cuộc di cư của những người Ucraina chạy trốn khỏi chiến tranh. Chúng ta đừng quên Ucraina khốn khổ hôm nay! Thánh Scalabrini đã có tầm nhìn xa, hướng tới một thế giới và một Giáo hội không có rào chắn, không có người xa lạ. Về phần mình, Artemide Zatti, tu huynh Salêdiêng, với chiếc xe đạp của mình, là một tấm gương sống động về lòng biết ơn: được chữa lành khỏi bệnh lao, thầy đã dành cả cuộc đời mình để cho người khác, để chữa lành người bệnh bằng tình yêu thương và sự dịu dàng. Người ta kể đã nhìn thấy thầy mang trên vai xác của một trong những người bệnh. Với lòng biết ơn về những gì mình đã nhận được, thầy muốn nói lời “cảm ơn” của mình bằng cách gánh lấy vết thương của người khác. Hai tấm gương cho chúng ta!
Chúng ta hãy cầu nguyện xin những người anh em thánh thiện này của chúng ta giúp chúng ta bước đi cùng nhau, không có bức tường ngăn cách; và để nuôi dưỡng tâm hồn cao thượng này trở nên đẹp lòng Thiên Chúa, đó là lòng biết ơn.
Văn Yên, SJ