2023
Báo cáo của Fides: số người Công giáo đang gia tăng ở tất cả các Châu lục, ngoại trừ Châu âu
Trước Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 97 vào Chúa nhật 22 /10/2023, cơ quan Fides công bố tuyển tập thống kê truyền thống của mình nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về Giáo hội trên thế giới. Châu Phi và Châu Mỹ ghi nhận mức tăng lớn nhất về số người Công giáo, tiếp theo là Châu Á và Châu Đại Dương. Fides tính toán, Lục địa già mất đi các tín hữu của mình, ít hơn 244.000 người. Tuy nhiên, mạng lưới giáo dục, xã hội và y tế luôn ổn định.
Các số liệu từ cơ quan thông tin của Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo (OPM), được lấy từ niên bạn mới nhất của Giáo hội (31/12/2021), xem xét các phạm trù khác nhau của cơ cấu Giáo hội: các cơ cấu mục vụ, các hoạt động trong lĩnh vực y tế và giáo dục.
Chúng khởi đi từ dân số thế giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, ở mức 7,785 tỷ người. Fides thống kê có 1.375.852.000 tỷ người Công giáo, tăng tổng cộng hơn 16 triệu so với năm trước. Sự gia tăng liên quan đến tất cả các châu lục, ngoại trừ Châu Âu (-244.000). Như trước đây, mức tăng lớn hơn ở Châu Phi (+8.312.000 triệu) và Châu Mỹ (+6.629.000 triệu), tiếp theo là Châu Á (+1.488.000 triệu) và Châu Đại Dương (+55 000).
5.340 giám mục trên thế giới
Giáo hội hoàn vũ có ít hơn 23 giám mục so với năm trước với tổng số 5.340 trên toàn thế giới. Xu hướng tương tự cũng được thấy ở các linh mục giảm một chút ở hầu hết mọi nơi. Có 407.000 linh mục trên khắp thế giới. Châu Âu mất hơn 3.500, châu Mỹ gần một nghìn. Trái lại, ơn gọi linh mục đang gia tăng ở Châu Phi, tăng hơn 1.500 linh mục và ở Châu Á tăng thêm 700 linh mục.
Cụ thể, số Giám mục giáo phận tăng ở Châu Phi (+9) và Châu Âu (+1), mặc dù giảm ở Châu Mỹ (-6), Châu Á (-2) và Châu Đại Dương (-3). Các Giám mục dòng đang chứng kiến số lượng của họ giảm ở tất cả các châu lục: Châu Phi (-2), Châu Mỹ (-16), Châu Á (-2), Châu Âu (-3), ngoại trừ Châu Đại Dương, nơi tăng thêm một vị.
Châu Âu mất 3.632 linh mục
Tổng số linh mục trên thế giới giảm xuống, đạt 407.872 (-2.347). Một lần nữa, chúng ta thấy sự sụt giảm đáng kể ở Châu Âu (-3.632), cộng với Châu Mỹ (-963). Mức tăng được ghi nhận ở Châu Phi (+1.518), Châu Á (+719) và Châu Đại Dương (+11).
Số lượng linh mục giáo phận giảm tổng cộng 911 đơn vị, đạt con số 279.610, và lại giảm trong năm nay ở Châu Âu (-2.237) và ở Châu Mỹ (-230). Sự gia tăng được ghi nhận ở Châu Đại Dương (+21), Châu Á (+561) và Châu Phi (+974).
Số tu sĩ cũng giảm đáng kể ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương, nhưng lại gia tăng ở Châu Phi và Châu Á. Với mức độ năng động đặc biệt suy giảm trong số các nữ tu, -10.500 trên tổng số 600.000.
Điều tích cực là số lượng phó tế vĩnh viễn trên thế giới tiếp tục tăng trong năm nay + 541, tăng trên tất cả các châu lục.
Gần 50.000 tu sĩ trên thế giới
Số tu sĩ không phải linh mục giảm 795, đạt tổng số 49.774, mức giảm được ghi nhận ở Châu Mỹ (-311), Châu Âu (-599) và Châu Đại Dương (-115). Nó tăng ở Châu Phi (+205) và Châu Á (+25). Xu hướng giảm tổng thể về số lượng nữ tu đã được xác nhận, có ít hơn 10.588 nhưng tổng cộng có 608.958. Một lần nữa, mức tăng lại ở Châu Phi (+2.275) và Châu Á (+366), mức giảm ở Châu Âu (-7.804), Châu Mỹ (-5.185) và Châu Đại Dương (-240).
Một mạng lưới giáo dục, xã hội và y tế Công giáo dày đặc
Mạng lưới giáo dục và y tế Công giáo có vẻ ổn định và tăng nhẹ ở cấp độ tổng thể. 7 triệu học sinh được học tại các trường mẫu giáo Công giáo, 34 triệu học sinh tiểu học, 2 triệu học sinh trung học và gần 4 triệu sinh viên. Trung thành với mục vụ y tế và hoạt động bác ái của mình, Giáo hội có 5.400 bệnh viện và 14.000 trạm y tế, chủ yếu ở Châu Phi và Châu Mỹ; nhưng còn có 9.703 trại trẻ mồ côi, phần lớn ở châu Á (3.230); 10.567 trường mầm non; 10.604 trung tâm tư vấn hôn nhân, chủ yếu ở Châu Âu (5.390) và Châu Mỹ (2.609).
Tý Linh (theo Delphine Allaire, Vatican News)
2023
“Đối với người Do Thái chúng tôi, Thiên Chúa đã “Nhập Thể” trong Kinh Thánh”
Vài ngày trước vụ thảm sát xảy ra ở Israel, giáo sĩ Rivon Krygier đã dành cho nhật báo La Croix cuộc phỏng vấn này. Giáo sĩ nói với chúng ta, những dòng sau đây, không có mối liên hệ trực tiếp đến các sự kiện hiện tại, tuy nhiên vẫn giữ được ý nghĩa tâm linh của chúng, ngay cả vì những sự kiện bi thảm.
La Croix : Ngài đọc Thánh Kinh như thế nào ?
Rivon Krygier : Chúng ta hãy làm rõ ngay từ đầu rằng Thánh Kinh Do Thái không giống với Thánh Kinh Kitô giáo. Ngay cả một số sách của Cựu Ước cũng không được đưa vào quy điển Do Thái, chẳng hạn như hai cuốn sách Maccabê. Tuy nhiên, chúng vẫn là đối tượng của lễ hội Hanukkah kỷ niệm lễ cung hiến Đền thờ. Thánh Kinh Do Thái chứa Kinh Torah – mà người Kitô hữu gọi là Ngũ Kinh -, các sách Ngôn sứ và các Tác phẩm thánh. Và, như bạn biết, không có Tân Ước.
Cách đọc Thánh Kinh của chúng tôi không bao giờ là cách đọc đơn giản, theo nghĩa đen, mà chủ yếu là vấn đề giải thích, đặt vào viễn cảnh. Nó hệ tại tìm kiếm trong văn bản bất cứ điều gì không minh nhiên nhưng ngụ ý, hoặc bất cứ điều gì được kết nối với các phần hoặc yếu tố khác của toàn bộ Thánh Kinh, trong một mạng lưới, để tạo nên một nhận xét có tính cộng hưởng.
La Croix : Ngài đọc một mình hay trong cộng đoàn ?
Rivon Krygier : Theo truyền thống Do Thái, chúng tôi không bao giờ đọc Thánh Kinh một mình. Ngay cả khi tôi nghiên cứu văn bản một mình, tôi cũng nghiên cứu thông qua những nhà chú giải tập trung xung quanh nó. Đó là một cuộc đối thoại tuyệt vời giữa bản văn đang nói và tất cả những ai, từ Mạc Khải, đã đọc những câu này và giải thích chúng.
Việc đọc công khai là rất phổ biến. Nó cũng được tìm thấy trong các sách Tin Mừng. Chúa Giêsu đến Hội đường vào sáng thứ Bảy, đưa ra lời chú giải. Khi chúng ta đưa Kinh Torah ra khỏi tủ thánh, đó là một kiểu lặp lại Mạc Khải. Kinh Torah ẩn dật đột nhiên trở nên hữu hình, dễ tiếp cận. Chúng tôi chuyền nó trong đám rước, chúng tôi đặt nó lên bàn, chúng tôi mở Sefer, cuộn sách. Toàn thể cộng đồng nghe thấy tiếng nói, lời Chúa nói với mình. Sau đó, một người có trình độ học vấn không nhất thiết là giáo sĩ được mời đến để đưa ra lời giải thích từ truyền thống. Đó là một bài tập tâm linh và trí tuệ.
La Croix : Đâu là tính đặc thù của kinh nghiệm này ?
Rivon Krygier : Nó gây bối rối vì những chú giải khác nhau không giải thích được văn bản. Chúng làm cho nó phức tạp hơn. Chúng tạo thành một kho lưu trữ khổng lồ có sẵn cho phép có nhiều góc nhìn về văn bản, với các quan điểm khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Một yếu tố quan trọng của Do Thái giáo là chúng tôi không nhất thiết phải giải quyết mâu thuẫn. Ngược lại, chúng tôi muốn tiếp cận văn bản với nhiều quan điểm như vậy để không giảm thiểu nó vào một chiều kích duy nhất.
Do đó, nhà chú giải sẽ kín múc từ bản văn và từ những chú giải những yếu tố sẽ soi sáng cho mình về cuộc sống ngày nay, về những vấn đề luân lý, tâm linh, vốn có thể vượt xa vấn đề về ý nghĩa nguyên thủy của bản văn. Việc tìm kiếm sự mạch lạc và cộng hưởng, tính liên tục giữa văn bản và thời đại đương đại của chúng ta, là một thách thức thường xuyên.
La Croix : Chẳng hạn, ngài lập nên mối liên hệ nào giữa văn bản Thánh Kinh và cuộc sống đương đại?
Rivon Krygier : Chúng tôi vừa bắt đầu chu kỳ đọc sách Sáng Thế Ký. Trong những chương đầu tiên có tranh chấp giữa Cain và Abel, mà chúng ta không biết lý do của nó. Chắc chắn, chúng ta có thể nghĩ rằng Cain ghen tị với Abel vì Chúa chấp nhận lễ vật của em trai ông chứ không phải lễ vật của ông. Nhưng không có gì được nói rõ ràng. Tại một thời điểm, văn bản nói: “Cain đã nói với Abel…” và như có khoảng trống. Ngay sau đó, văn bản nói thêm rằng Cain đã giết Abel. Khoảng trống này trong văn bản mở ra một lĩnh vực giải thích tuyệt vời. Do đó, nhà chú giải giáo sĩ cổ đại, Midrash, đã cố gắng nhét lời vào miệng Cain.
Ông đã nói gì với Abel? Điều gì gây ra vụ giết người mang tính biểu tượng đầu tiên trong lịch sử? Một số giáo sĩ Do Thái nói rằng họ tranh giành cùng một người phụ nữ, những người khác nói rằng họ tranh giành đất đai. Một trong những vấn đề là họ đang tranh cãi về việc xây dựng ngôi đền thờ ở đâu – trên đất của Cain hay trên đất của Abel? Khoảng trống để lại gợi ý rằng những lời trao đổi là cuộc đối thoại của những người điếc.
La Croix : Người Do Thái xem Kinh Torah như thế nào: đó có phải là tiếng nói, lời của Thiên Chúa không?
Rivon Krygier : Theo quan điểm truyền thống, văn bản được mạc khải. Một câu rất hay trong Thánh Kinh (được đọc bằng tiếng Do Thái) nói rằng tại Sinai “dân chúng đã nhìn thấy những tiếng nói”. Đó là một hình thái văn phong ám chỉ kinh nghiệm siêu nhiên về Mạc Khải: Lời Chúa được diễn tả và cô đọng bằng những chữ có hình dạng. Ngày nay, chúng tôi vẫn nhìn thấy những tiếng nói vì khi nhìn vào những từ ngữ trong văn bản, chúng vang vọng trong trái tim và tâm hồn chúng tôi.
Tuy nhiên, một bản văn Thánh Kinh không bao giờ nói một mình. Ngay cả khi tôi cho rằng chính Thiên Chúa đã nói, đã đọc cho viết từng chữ, thì sẽ luôn có một người, một nhóm đọc và hiểu nó từ lăng kính của họ. Chính văn bản không nói lên tất cả mọi thứ. Cách phát âm (bằng tiếng Do Thái) sẽ quyết định ngữ pháp, cấu trúc, từ ngữ. Tuy nhiên, chúng tôi luôn có thể đọc lại văn bản bằng cách phát âm các từ một cách khác. Văn bản vẫn năng động. Vì thế, chính Lời Thiên Chúa, được trung gian bởi sự tiếp nhận của Môisê, các ngôn sứ và tín hữu, sẽ kéo dài đến vô tận.
La Croix : Việc tiếp tục cuộc đối thoại này với văn bản có phải là cách làm cho Kinh Torah tồn tại không?
Rivon Krygier : Tất nhiên rồi. Tồn tại, theo quan điểm từ nguyên, đó là “ra khỏi chính mình”. Từ lúc bản văn vang vọng trong cuộc sống của chúng tôi, tù lúc nó chất vấn chúng tôi, thì lúc đó Thiên Chúa sẽ lên tiếng. Người không còn là một sự trừu tượng nữa. Một cách nào đó, chúng tôi có thể nói rằng “Thiên Chúa đã trở thành Kinh Torah”, đã “nhập thể” trong lời của nó. Đó là sự trung gian mà qua đó chúng ta tiếp cận được Thiên Chúa.
Một nguyên tắc cổ xưa từ thời Mishnah (cơ sở cho luật truyền khẩu của Kinh Torah) nói rằng “Kinh Torah đến từ trời”. Hơi thở của Chúa xuyên qua nó. Nhưng trong Talmud, bộ sưu tập chính các bài chú giải tiếp theo, người ta tìm thấy một câu chuyện tuyệt vời kể về cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ về một chi tiết của lề luật.
Một người trong số họ tức giận nói: “Nếu tôi đúng, thì một kỳ công như thế hãy xảy ra,” và như thế ông tiếp tục tạo ra những kỳ công để chứng minh rằng mình đúng. Một giáo sĩ khác can thiệp: “Đủ rồi. Tất cả màn “pháo hoa” này đều không có giá trị”, và trích dẫn một câu trong sách Đệ Nhị Luật nói rằng “Kinh Torah không ở trên trời”. Nó đến từ trời, nhưng nó không còn ở trên trời nữa. Nó đã được giao phó cho chúng ta. Kinh Torah được mạc khải cũng vô ích, nhưng ý nghĩa của lời Thiên Chúa trở thành trách nhiệm của con người. Nó đang được tranh luận và phần lớn các giáo sĩ quyết định ý nghĩa của nó.
Chúng tôi không chỉ đơn giản là người tiếp nhận mà còn là diễn viên, đối tác của lời này. Điều này hàm ý không ở lại trong sự vâng phục thụ động hay chủ nghĩa bảo thủ kiên quyết, nhưng hàm ý không ngừng tự đặt câu hỏi về sự thích đáng, về sự tương hợp với thực tại.
La Croix : Chúng ta có thể đọc Thánh Kinh theo cách tương tự sau Shoah (nạn diệt chủng người Do Thái) không?
Rivon Krygier : Bất kỳ nhà thần học nghiêm túc nào cũng không thể bỏ qua Shoah. Dân tộc Do Thái vẫn còn bị tổn thương nặng nề đến nỗi, đến thế hệ thứ tư, chúng tôi vẫn còn bị ghi dấu lâu dài. Nhưng khi chúng tôi là người Do Thái và là người thừa kế Thánh Kinh, chúng tôi không có quyền để mình bị nhốt kín trong chấn thương. Nếu có một giới răn, thì đó là “Ngươi hãy thoát khỏi chấn thương”. Điều này phải làm tăng thêm ý chí kiên cường và chiến đấu của chúng tôi, không ảo tưởng nhưng với quyết tâm, để nhân loại trở nên huynh đệ hơn. “Chúng ta đọc Thánh Kinh để giải phương trình tình huynh đệ” theo công thức đanh thép của một trong những người thầy của tôi, Léon Ashkénazi.
Nguyên tắc lớn của Do Thái giáo, đó là chúng tôi ở trong thế giới để phục vụ Thiên Chúa. Điều quan trọng, đó không phải là những ân huệ mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng tôi, mà là những gì chúng tôi sẽ làm với lời của Người bằng cách cố gắng nâng cao bản thân về mặt đạo đức và tâm linh hướng về Người. Trong Sáng Thế Ký, một trong những câu hỏi đầu tiên Thiên Chúa hỏi con người là: “Ngươi đang ở đâu?” ” Bạn đang ở đâu? Đây là câu hỏi lớn không ngừng thách thức chúng tôi, mời gọi chúng tôi mở Thánh Kinh ra và “nhìn thấy những tiếng nói”.
——————————————————————-
Một giáo sĩ Do Thái thuộc cộng đồng Massorti, dấn thân vào cuộc đối thoại Do Thái-Kitô giáo
Người Pháp gốc Bỉ, Rivon Krygier, từ ba mươi năm qua, là giáo sĩ Do Thái của cộng đồng Massorti Adath Shalom, vốn có “ơn gọi là dung hòa giữa truyền thống và hiện đại” trong đạo Do Thái.
Ông nghiên cứu Do Thái giáo tại Viện Mayanot, rồi tại Đại học Do Thái ở Jerusalem, và chọn chủng viện giáo sĩ.
Đã kết hôn và là cha của hai đứa con, ông cũng dấn thân vào cuộc đối thoại Do Thái-Kitô giáo. Sự nhạy cảm mà ông có được từ lịch sử của cha mẹ mình, cả hai đứa trẻ đều được che giấu trong Thế chiến thứ hai. Ông làm chứng : “Cha tôi đã được cứu bởi một linh mục, người đã che giấu và chuyển ông ấy đi hết nơi này đến nơi khác. Khi còn nhỏ, tôi rất cảm động khi biết rằng vị linh mục này đã liều mạng sống mình. Sau đó, khi tôi đến Yad Vashem, Bảo tàng Shoah ở Giêrusalem, cái cây đầu tiên mà tôi sụp mình xuống ở lối đi Những Người Công Chính Giữa các Quốc gia mang tên ngài”. Đồng thời nói thêm rằng, khi còn nhỏ, ông cũng nghe bạn bè nói rằng ông đã giết Chúa Giêsu.
Những trải nghiệm khác nhau này khiến ông tò mò muốn tìm hiểu chủ nghĩa bài Do Thái này và muốn gặp gỡ các Kitô hữu. Trong mắt ông, Vatican II là “một sự kiện quan trọng”. “Việc một tôn giáo ở cấp độ cao nhất trong các tổ chức của mình có khả năng đặt vấn đề về những mặt quan trọng trong thần học của mình là một niềm hy vọng đáng kinh ngạc. Việc Giáo hội Công giáo đã làm điều này khiến tôi cảm động đến tận sâu thẳm nhất. ”
—————————————–
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : nhật báo La Croix
2023
Sứ điệp của ĐGH Phanxicô cho Ngày Thế giới Truyền giáo 2023
Với ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo năm nay, tôi đã chọn một chủ đề được gợi hứng từ câu chuyện các môn đệ trên đường Emmaus, trong Tin Mừng theo thánh Luca (x. 24:13-35): “Lòng bừng cháy, chân bước nhanh”. Hai môn đệ đã hoang mang và mất tinh thần, nhưng cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô trong lời nói và trong việc bẻ bánh đã khơi dậy trong họ niềm khao khát nhiệt thành lên đường trở lại Giêrusalem và loan báo rằng Chúa đã sống lại thật rồi. Trong trình thuật Tin Mừng, chúng ta nhận thấy sự thay đổi này nơi các môn đệ qua một vài hình ảnh bộc lộ nhiều điều: lòng các ông bừng cháy khi nghe Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh, mắt các ông mở ra khi nhận ra Người và cuối cùng, chân các ông rảo bước lên đường. Bằng cách suy niệm về ba hình ảnh phản ánh hành trình của tất cả các môn đệ truyền giáo này, chúng ta có thể đổi mới lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng trong thế giới ngày nay.
1. Tâm hồn chúng ta bừng cháy “khi Người giải thích Kinh Thánh cho chúng ta”. Trong hoạt động truyền giáo, lời Chúa soi sáng và biến đổi các tâm hồn.
Trên đường từ Giêrusalem về Emmaus, tâm hồn của hai môn đệ đã xuống tinh thần, thể hiện qua khuôn mặt chán nản của họ, vì cái chết của Chúa Giêsu, Đấng mà họ đã tin tưởng (x. câu 17). Trước sự thất bại của Thầy mình chịu đóng đinh, niềm hy vọng của họ rằng Thầy là Đấng Mêsia đã sụp đổ (x. câu 21).
Sau đó, “khi họ đang nói chuyện và bàn luận với nhau, thì chính Đức Giêsu lại gần và cùng đi với họ” (c. 15). Như khi Người kêu gọi các môn đệ lần đầu tiên, thì giờ đây, giữa sự hoang mang của họ, Chúa đã chủ động; Người đến gần họ và đi bên cạnh họ. Cũng vậy, với lòng thương xót bao la, Người không bao giờ mệt mỏi ở với chúng ta, bất chấp mọi thất bại, nghi ngờ, yếu đuối, và cả sự thất vọng, bi quan khiến chúng ta trở nên “khờ dại và chậm chạp” (c. 25), khiến chúng ta trở nên yếu đức tin.
Giống như ngày hôm ấy, hôm nay Chúa Phục Sinh vẫn gần gũi với các môn đệ truyền giáo của Người và đồng hành với họ, nhất là khi họ cảm thấy mất phương hướng, chán nản, sợ hãi trước mầu nhiệm sự dữ bủa vây và tìm cách chế ngự họ. Vì vậy, “chúng ta đừng để mình bị cướp mất hy vọng!” (Evangelii Gaudium, 86). Chúa lớn hơn tất cả những vấn đề của chúng ta, nhất là nếu chúng ta đối diện với chúng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho thế giới. Vì cuối cùng, sứ vụ này là của Người và chúng ta chẳng là gì khác hơn là những người cộng tác khiêm tốn của Người, những “đầy tớ vô dụng” (x. Lc 17:10).
Tôi mong muốn bày tỏ sự gần gũi của tôi trong Chúa Kitô với tất cả các nhà truyền giáo nam nữ trên thế giới, đặc biệt là với những người đang chịu đựng bất kỳ loại khó khăn nào. Các bạn thân mến, Chúa Phục Sinh luôn ở cùng các bạn. Người nhìn thấy lòng quảng đại của các bạn và những hy sinh mà các bạn đang thực hiện cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng ở những vùng đất xa xôi. Không phải ngày nào trong cuộc sống của chúng ta cũng thanh thản và trong sáng, nhưng chúng ta đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu nói với các bạn hữu của Người trước Cuộc Khổ nạn của Người: “Trong thế gian, các con sẽ gặp những gian truân, nhưng hãy can đảm lên: Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Sau khi lắng nghe hai môn đệ trên đường Emmaus, Chúa Giêsu phục sinh “giải thích cho họ những gì đã chép về Người trong cả Sách Thánh, bắt đầu từ Môsê và tất cả các ngôn sứ” (Lc 24:27). Lòng các môn đệ rung động, sau này họ tâm sự với nhau: “Lòng chúng ta há chẳng bừng lên khi dọc đường Người nói chuyện với chúng ta và giải thích Kinh Thánh sao?” (câu 32). Chính Chúa Giêsu là Lời hằng sống, Đấng duy nhất có thể làm cho trái tim chúng ta bừng cháy trong chúng ta, khi Người soi sáng và biến đổi tâm hồn chúng ta.
Bằng cách này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn câu châm ngôn của Thánh Giêrônimô rằng “không biết Kinh thánh là không biết Đức Kitô” (Chú giải về Isaia, Lời mở đầu). “Nếu không có Chúa soi sáng, chúng ta không thể hiểu Kinh Thánh một cách sâu sắc; tuy nhiên điều ngược lại cũng đúng: không có Kinh thánh, các biến cố trong sứ mệnh của Chúa Giêsu và của Hội Thánh của Người trên thế giới vẫn không thể giải mã được” (Aperuit Illis, 1). Theo đó, kiến thức về Kinh thánh rất quan trọng đối với đời sống Kitô hữu, và thậm chí còn quan trọng hơn đối với việc rao giảng Chúa Kitô và Tin Mừng của Người. Nếu không, bạn đang truyền lại điều gì cho người khác nếu không phải là ý tưởng và dự án của riêng bạn? Một trái tim lạnh lùng không bao giờ có thể khiến những trái tim khác bừng cháy!
Vậy chúng ta hãy luôn sẵn sàng để mình được Chúa Phục Sinh đồng hành khi Người giải thích cho chúng ta ý nghĩa của Sách Thánh. Xin Người làm cho trái tim chúng ta bừng cháy trong chúng ta; xin Người soi sáng và biến đổi chúng ta, để chúng ta loan truyền mầu nhiệm cứu độ của Người cho thế giới bằng quyền năng và sự khôn ngoan đến từ Thần Khí của Người.
2. Mắt chúng ta “mở ra và nhận ra Người” khi bẻ bánh. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của sứ mạng.
Việc trái tim các môn đệ trên đường Emmaus cháy bỏng vì lời Chúa đã thúc đẩy họ yêu cầu Người lữ hành bí ẩn ở lại với họ khi trời sắp tối. Khi họ quây quần quanh bàn, mắt họ mở ra và họ nhận ra Người khi Người bẻ bánh. Yếu tố quyết định mở mắt cho các môn đệ là chuỗi hành động Chúa Giêsu thực hiện: Người cầm lấy bánh, chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông. Đó là những cử chỉ thông thường của người chủ gia đình Do Thái, nhưng, được Chúa Giêsu Kitô thực hiện với ân sủng của Chúa Thánh Thần, điều đó lập lại cho hai người bạn đồng bàn của Người dấu chỉ hóa bánh ra nhiều và nhất là dấu chỉ Bí tích Thánh Thể, bí tích hy tế thập giá. Tuy nhiên, ngay lúc họ nhận ra Chúa Giêsu trong việc bẻ bánh, thì “Người biến mất khỏi mắt họ” (Lc 24:31). Ở đây chúng ta có thể nhận ra một thực tại thiết yếu của đức tin chúng ta: Đức Kitô, Đấng bẻ bánh, giờ đây trở thành tấm bánh được bẻ ra, chia sẻ cho các môn đệ và được họ ăn. Người ta không còn nhìn thấy Người nữa, vì giờ đây Người đã đi vào tâm hồn các môn đệ, khiến họ càng cháy bỏng hơn, và điều này thôi thúc họ lên đường ngay để chia sẻ với mọi người kinh nghiệm độc nhất vô nhị của họ về việc gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Như vậy, Chúa Kitô phục sinh vừa là Đấng bẻ bánh, vừa là chính tấm bánh được bẻ ra cho chúng ta. Theo đó, mọi môn đệ truyền giáo đều được kêu gọi trở nên, giống như Chúa Giêsu và trong Người, nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, trở thành người bẻ bánh và là tấm bánh được bẻ ra cho thế giới.
Ở đây, nên nhớ rằng việc bẻ bánh vật chất của chúng ta để chia sẻ với những người đói khát nhân danh Chúa Kitô cũng đã là một công việc truyền giáo của Kitô giáo rồi. Hơn thế nữa, việc bẻ bánh Thánh Thể, là chính Chúa Kitô, là một công việc truyền giáo tuyệt hảo, vì Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh.
Như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chỉ ra: “Chúng ta không thể giữ cho riêng mình tình yêu mà chúng ta cử hành trong Bí tích [Thánh Thể]. Tự bản chất của nó, tình yêu này đòi phải được thông truyền cho tất cả mọi người. Điều thế giới cần là tình yêu Thiên Chúa, gặp gỡ Đức Kitô và tin vào Người. Vì lý do này, Thánh Thể không chỉ là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Giáo hội; nó cũng là nguồn gốc và tột đỉnh sứ vụ của Giáo Hội: ‘Một Giáo Hội Thánh Thể đích thực là một Giáo Hội truyền giáo’” (Sacramentum Caritatis, 84).
Để sinh hoa trái, chúng ta phải luôn kết hiệp với Chúa Giêsu (x. Ga 15,4-9). Sự hiệp nhất này đạt được qua lời cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ chầu Thánh Thể, khi chúng ta giữ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa, Đấng ở lại với chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể. Bằng cách yêu thương vun trồng mối hiệp thông này với Chúa Kitô, người môn đệ truyền giáo có thể trở thành một nhà thần bí trong hành động. Ước gì tâm hồn chúng ta luôn khao khát được bầu bạn với Chúa Giêsu, vang vọng lời khẩn cầu tha thiết của hai môn đệ Emmaus, nhất là vào những lúc chiều tối: “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con!” (x. Lc 24:29).
3. Đôi chân ta lên đường, hân hoan kể cho người khác biết về Chúa Kitô Phục Sinh. Tuổi trẻ vĩnh hằng của Hội Thánh luôn tiến về phía trước.
Sau khi được mở mắt và nhận ra Chúa Giêsu “khi bẻ bánh”, các môn đệ “hối hả lên đường và trở về Giêrusalem” (x. Lc 24:33). Việc vội vã lên đường để chia sẻ với người khác niềm vui gặp gỡ Chúa chứng tỏ rằng “niềm vui của Tin Mừng lấp đầy trái tim và toàn bộ cuộc sống của những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Ai để cho mình được Ngài cứu thì được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi buồn rầu, khỏi trống rỗng nội tâm, khỏi cô lập. Với Chúa Giêsu Kitô, niềm vui luôn được sinh ra và tái sinh” (Evangelii Gaudium, 1). Người ta không thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh mà không bừng cháy lòng nhiệt tình để nói cho mọi người về Người. Do đó, nguồn lực chính và chủ yếu của việc truyền giáo là những người đã biết Chúa Kitô phục sinh trong Kinh thánh và trong Bí tích Thánh Thể, những người mang ngọn lửa của Người trong trái tim và mang ánh sáng của Người. Họ có thể làm chứng cho sự sống không bao giờ chết, ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất và những thời khắc đen tối nhất.
Hình ảnh “đôi chân bước đi” một lần nữa nhắc nhở chúng ta về giá trị trường tồn của sứ mệnh truyền giáo (missio ad gentes), sứ mệnh được Chúa Phục sinh trao phó cho Giáo hội để rao giảng Tin Mừng cho mọi người và mọi dân tộc, cho đến tận cùng trái đất. Ngày nay hơn bao giờ hết, gia đình nhân loại của chúng ta, bị tổn thương bởi biết bao hoàn cảnh bất công, biết bao chia rẽ và chiến tranh, đang cần đến Tin Mừng bình an và ơn cứu độ trong Chúa Kitô. Nhân cơ hội này, tôi xin nhắc lại rằng “mọi người đều có quyền đón nhận Tin Mừng. Các Kitô hữu có bổn phận loan báo Tin Mừng mà không loại trừ bất cứ ai, không phải như một người áp đặt một nghĩa vụ mới, nhưng như một người chia sẻ niềm vui, báo hiệu một chân trời tươi đẹp, cống hiến một bữa tiệc đáng mong đợi” (Evangelii Gaudium, 14). Hoán cải truyền giáo vẫn là mục tiêu chính mà chúng ta phải đặt ra cho mình với tư cách cá nhân và cộng đồng, bởi vì “việc tiếp cận truyền giáo là khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Giáo hội” (ibid., 15).
Như thánh Tông đồ Phaolô xác nhận, tình yêu của Chúa Kitô lôi cuốn và thúc đẩy chúng ta (x. 2 Cr 5,14). Tình yêu này có hai mặt: tình yêu của Chúa Kitô dành cho chúng ta, tình yêu kêu gọi, thôi thúc và khơi dậy tình yêu của chúng ta đối với Người. Một tình yêu làm cho Giáo Hội, trong việc không ngừng khởi đầu lại, luôn trẻ trung. Vì tất cả các thành viên của Giáo Hội đều được ủy thác sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “Ngài đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì mình” (c. 15). Tất cả chúng ta đều có thể đóng góp cho phong trào truyền giáo này: bằng những lời cầu nguyện và hoạt động của chúng ta, bằng những của lễ vật chất và dâng những đau khổ của chúng ta, và bằng chứng tá cá nhân của chúng ta. Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo là phương tiện ưu tiên để thúc đẩy sự hợp tác truyền giáo này trên cả bình diện tinh thần và vật chất. Vì lý do này, số tiền quyên góp được vào ngày Chúa nhật Thế giới Truyền giáo được dành cho Hội Giáo hoàng Truyền bá Đức tin.
Tính cấp bách của hoạt động truyền giáo của Giáo hội đương nhiên đòi hỏi sự hợp tác truyền giáo ngày càng chặt chẽ hơn về phía tất cả các thành viên của Giáo hội và ở mọi cấp độ. Đây là một mục tiêu thiết yếu của hành trình Hiệp Hành mà Giáo hội đã thực hiện, được hướng dẫn bởi các từ khóa: hiệp thông, tham gia, truyền giáo. Cuộc hành trình này chắc chắn không phải là việc Giáo hội qui hướng vào bản thân mình; nó cũng không phải là một cuộc trưng cầu dân ý về những gì chúng ta phải tin và thực hành, cũng không phải là vấn đề sở thích của con người. Đúng hơn, đó là một tiến trình lên đường và giống như các môn đệ Emmaus, lắng nghe Chúa phục sinh. Vì Người luôn đến giữa chúng ta để giải thích ý nghĩa Kinh Thánh và bẻ bánh cho chúng ta, để nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thi hành sứ mệnh của Người trên thế giới.
Cũng như hai môn đệ Emmaus đã thuật lại cho những người khác những gì đã xảy ra dọc đường (x. Lc 24:35), cũng vậy, lời loan báo của chúng ta sẽ là một lời hân hoan kể về Chúa Kitô, cuộc đời, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người, và những điều kỳ diệu mà tình yêu thương của Người đã hoàn thành trong cuộc sống của chúng ta.
Vì vậy, chúng ta hãy lên đường một lần nữa, hãy để mình được soi sáng bởi cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh và được Thần Khí của Người thúc đẩy. Chúng ta hãy lên đường một lần nữa với trái tim rực cháy, với đôi mắt mở to và đôi chân của chúng ta chuyển động. Chúng ta hãy lên đường để làm cho những trái tim khác bừng cháy Lời Chúa, mở mắt cho những người khác nhìn thấy Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, và mời gọi mọi người cùng nhau bước đi trên con đường bình an và cứu độ mà, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã ban cho toàn thể loài người.
Lạy Đức Mẹ Soi Đường, Mẹ của các môn đệ truyền giáo của Đức Kitô và là Nữ Vương Truyền Giáo, xin cầu cho chúng con!
Rôma, Đền Thánh Gioan Lateranô, ngày 6 tháng 1 năm 2023, Lễ Chúa Hiển Linh.
PHANXICÔ
Chuyển ngữ:
Đaminh Ngô Quang Tuyên
Micae Nguyễn Khắc Minh
2023
Giáo hội hiệp hành không phải là một kim tự tháp mà là ngôi nhà cho “những ơn gọi đồng phẩm giá”
Cuộc họp Thượng Hội đồng (VATICAN MEDIA Divisione Foto)
Giáo hội hiệp hành không phải là một kim tự tháp mà là ngôi nhà cho “những ơn gọi đồng phẩm giá”
Trong phiên họp khoáng đại lần thứ 12 của Đại hội Thượng Hội Đồng vào ngày 18/10, cha Dario Vitali, điều phối viên của các chuyên gia thần học và cũng là giáo sư cơ hữu tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana, đưa ra một suy tư thần học về chủ đề: “Sự tham gia, Trách nhiệm và Thẩm quyền: Những tiến trình, cơ cấu và tổ chức nào trong một Giáo hội hiệp hành truyền giáo?”
Theo Cha Vitali, “Giáo hội là một bí tích trong Chúa Kitô, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất giữa loài người” (LG 1). Sự tham gia đầu tiên được Công đồng Vatican II nhấn mạnh thực ra không phải là sự tham gia của các cá nhân, mà là của toàn thể Giáo hội, Dân Chúa trên hành trình hướng tới việc hiện thực hóa Nước Chúa. Chưa bao giờ như ngày hôm nay, nhân loại lại cần đến chứng từ mạnh mẽ và thuyết phục của một Giáo hội vốn là dấu chỉ và khí cụ hòa bình giữa các quốc gia. “Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội ‘sánh bước’ cùng con người, tham gia vào những khó khăn của lịch sử, nuôi dưỡng giấc mơ rằng việc tái khám phá phẩm giá bất khả xâm phạm của các dân tộc và chức năng phục vụ của chính quyền cũng có thể giúp xã hội dân sự xây dựng chính mình trong công lý và tình huynh đệ, tạo ra một thế giới tươi đẹp hơn và xứng đáng hơn cho các thế hệ mai sau.
Một Giáo hội hướng ra bên ngoài, một “bí tích cứu độ phổ quát” cho thế giới (LG 48), luôn được kêu gọi trở thành và nghĩ về chính mình trong nội tâm như “bí tích của sự hiệp nhất cứu độ” (LG 9). Lumen Gentium số 7 có nói rằng “trong việc xây dựng thân thể của Chúa Kitô có sự đa dạng về các thành viên và chức năng”.
Chương II của Lumen Gentium mô tả Giáo hội là Dân Thiên Chúa, “dòng dõi được tuyển chọn, chức tư tế vương giả, dân thánh, dân được Thiên Chúa thu nhận” (LG 9), điều này tiêu biểu cho “cuộc cách mạng Copernic” về giáo hội học mang tính cộng đồng, phá vỡ kim tự tháp giáo hội được xây dựng qua nhiều thế kỷ: đi trước cả các chức năng là phẩm giá của người đã được rửa tội; đi trước cả những khác biệt vốn thiết lập các thứ bậc là sự bình đẳng của con cái Thiên Chúa. Danh hiệu lớn nhất của Giáo hội không phải là giáo hoàng, giám mục, linh mục, hay tu sĩ, mà là con cái Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là những người con trong Chúa Con, được hiệp nhất bởi Chúa Thánh Thần. Khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi người không có nghĩa là phủ nhận những khác biệt: Giáo hội là thân thể của Chúa Kitô, sống động và xinh đẹp vì có nhiều hồng ân, đặc sủng, thừa tác vụ và ơn gọi khác nhau.
Chức linh mục cộng đồng và chức linh mục thừa tác hoặc phẩm trật là những hình thức tham gia riêng biệt vào chức tư tế của Chúa Kitô (x. LG 10 ). Đặt chức linh mục chung trước chức linh mục thừa tác có nghĩa là phá vỡ mối quan hệ bất đối xứng về quyền bính-vâng phục đã cấu trúc nên Giáo hội kim tự tháp. Sau đó, việc khẳng định hai hình thức tham gia vào chức tư tế của Chúa Kitô được quy định cho nhau có nghĩa là nhìn nhận sự đa dạng bổ sung cho nhau chứ không hề thu gọn lẫn nhau. Các thừa tác viên thụ phong nên phục vụ dân thánh của Thiên Chúa, dân thánh cuối cùng trở thành chủ thể tích cực của đời sống giáo hội.
Nhưng nói Giáo hội là Dân Chúa không giải quyết được toàn bộ vấn đề, cũng không đảm bảo một cuộc cải cách Giáo hội mà không hề đau đớn. Giáo Hội xét như Dân Chúa một mặt giải thích sự nhấn mạnh vào nền giáo hội học hiệp thông, chủ yếu tập trung vào khía cạnh hiệp thông phẩm trật, điều mà theo thời gian đã tạo ra một “sự tập quyền” thực sự của Giáo hội. Giáo Hội xét như Dân Chúa làm dấy lên nỗi lo sợ rằng tính hiệp hành, được hiểu là “cuộc hành trình cùng nhau” của Dân Chúa, sẽ tạo thành một sự thay thế cho nguyên tắc hiệp thông. Trên thực tế, tính hiệp hành không gì khác hơn là sự hiệp thông của Giáo hội với tư cách là Dân Thánh của Thiên Chúa trên hành trình của họ.
Giáo hội hiệp hành bao gồm mọi chiều kích hiệp thông: hiệp thông Ba Ngôi, hiệp thông các tín hữu, hiệp thông giữa các giáo hội, hiệp thông các thánh. Phục vụ Giáo hội này là các Mục tử, trong một sự hiệp thông có tính phẩm trật được quy định bởi nguyên lý hiệp nhất là Giám mục Rôma. Các giám mục “không đơn độc, không ở trên Giáo hội; nhưng ở bên trong Giáo hội với tư cách là những người đã được rửa tội giữa những người đã được rửa tội và thuộc về Giám mục đoàn với tư cách là Giám mục giữa các Giám mục, đồng thời được kêu gọi – với tư cách là Người kế vị Thánh Phêrô Tông đồ – lãnh đạo Giáo hội Roma – Giáo hội chủ trì trong tình yêu mến tất cả các Giáo hội”.
Mối quan hệ chặt chẽ tồn tại giữa Dân Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma, mỗi người với chức năng của mình, thiết lập Giáo hội hiệp hành là “Giáo hội lắng nghe”. Các tín hữu, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma: người này lắng nghe người kia; và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, “Thần Khí sự thật” (Ga 14:17), để biết Ngài “nói gì với các Giáo Hội” (Kh 2:7)”.
Mong muốn bảo đảm các chức năng tương ứng của các chủ thể này đã dẫn tới việc biến Thượng Hội đồng từ một sự kiện thành một tiến trình. Sự lựa chọn này không phủ quyết nhưng hội nhập: Đức Thánh Cha có ý trao cho các giám mục khả năng tham gia một cách rõ ràng hơn và hiệu quả hơn vào mối quan tâm đối với Giáo hội hoàn vũ. Làm thế nào “Thượng hội đồng Giám mục, đại diện của hàng giám mục Công giáo, trở thành một biểu hiện của tính hợp đoàn giám mục trong một Giáo hội hoàn toàn có tính hiệp hành?” (Đức Phanxicô, Bài phát biểu tại Thượng hội đồng lần thứ 50). Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhìn nhận tất cả các chủ thể trong đó thân thể Giáo hội được thể hiện rõ ràng. Trong diễn ngôn hiệp hành, Dân Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma thực thi các chức năng Giáo hội cụ thể của họ, tạo nên tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính ưu việt trong sự hiệp nhất năng động.
Mỗi Giám mục, với tư cách là nguyên lý hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất cho thành phần Dân Chúa được ủy thác cho mình (x. LG 23), chịu trách nhiệm khởi xướng tiến trình hiệp hành trong Giáo hội của mình. Chính vì được Đức Giám mục triệu tập, nên việc tham khảo ý kiến trong các giáo hội cụ thể là một cuộc tham vấn thực sự đối với Dân Chúa, chủ thể của cảm thức đức tin. Vì không thể có sự tham khảo ý kiến của Dân Chúa trong các Giáo hội cụ thể nếu Mục tử của họ không khởi xướng. Ngay từ đầu, các giám mục đã thực sự tham gia vào tiến trình thượng hội đồng, đóng một vai trò không thể thiếu. Do đó, rõ ràng là không có mâu thuẫn giữa các chiều kích hiệp hành và phẩm trật của Giáo hội: cái này bảo đảm cho cái kia và ngược lại, với Giáo hội là một “bí tích hiệp nhất”, một dân tộc được tập hợp và có trật tự dưới sự hướng dẫn của các giám mục” (SC 26).
Tiến trình Thượng Hội đồng này là một dịp đặc biệt để thực hành cả tính hiệp hành và tính hợp đoàn, vì nó đảm bảo việc thực hành hiệu quả cảm thức đức tin của Dân Chúa cũng như khả năng phân định của các Mục tử. Như vậy, chúng ta có thể kết luận bằng cách tái khẳng định rằng Thượng Hội đồng là “nơi” và “không gian” đặc quyền để thực hành tính hiệp hành, vốn không nhấn mạnh vai trò đơn phương của Dân Chúa hay các Mục tử, mà là vai trò của mọi chủ thể – Dân của Thiên Chúa, Giám mục đoàn, Giám mục Roma – thể hiện tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính ưu việt trong sự hiệp nhất năng động. Với những đặc điểm độc đáo này, tiến trình Thượng Hội đồng có thể được hiểu là cách thực thi tinh tế nhất về tính hiệp hành trong Giáo hội Công giáo.
Như vậy, trên phương diện thần học, cần suy nghĩ lại về Giáo hội theo chìa khóa hiệp hành, để toàn bộ Giáo hội và mọi thứ trong Giáo hội – cuộc sống, các tiến trình, các tổ chức – được suy tư lại theo chiều kích hiệp hành. Trên phương diện thể chế, cần bảo đảm cho Giáo hội “không gian” để thực hành tính hiệp hành. Cha Vitali cho rằng cần bảo vệ Thượng hội đồng như một cơ quan phục vụ một Giáo hội hiệp hành theo thể chế. Nếu không có Thượng Hội đồng, việc thực hành tính hiệp hành cuối cùng sẽ tan chảy thành hàng ngàn dòng suối, tạo ra một vũng lầy thực sự, làm chậm lại, nếu không muốn nói là ngăn cản, việc “cùng bước” của Dân Chúa. Người ta có thể suy ngẫm về hình thức thể chế của Thượng Hội đồng, nhưng không nên nghi ngờ gì rằng thể chế này đảm bảo cho Giáo hội thực thi tính hiệp hành một cách thực sự, như tiến trình thượng hội đồng hiện tại đã chứng minh rõ ràng.
Cuối cùng, cha Vitali cho rằng: Việc thực thi tính hiệp hành một cách chân chính sẽ cho phép có những cân nhắc chu đáo – với sự kiên nhẫn và thận trọng – về các cải cách thể chế cần thiết, các tiến trình đưa ra quyết định có sự tham gia của mọi người, và việc thực thi quyền bính thực sự phù hợp để “làm phát triển” một Dân Chúa trưởng thành và có sự tham gia.
Vatican News
Nguồn: Vaticannews.va