2020
Pleiku – Ngày Xưa Xa Lắm
Pleiku – Ngày Xưa Xa Lắm
Tuy tôi sống ở Pleiku từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước nhưng những việc trước đó tôi cũng chỉ biết mang máng vì thế tôi đã gặp các cụ cao niên đã từng đặt chân lên đất Pleiku này từ những năm 50 để xin các cụ tiết lộ đôi điều mà chúng ta ít tìm thấy, hoặc không thể tìm đọc trên các tài liệu in ấn…
Nơi đầu tiên mà bất cứ ai đặt chân xuống một vùng đất lạ đều lưu lại trong tâm khảm mình một ấn tượng, một kỷ niệm khó phai, có lẽ khá nhiều người đồng ý, là cái bến xe, điểm dừng của cuộc hành trình đến miền đất lạ!
Các cụ hiện nay đã ở tuổi 84 và các ông bạn cùng lứa tuổi tôi nữa đều là những người đã từng lên Pleiku sống và lập nghiệp từ năm 1957-58 (thời điểm chính quyền Ngô Đình Diệm đưa dân các tỉnh miền Trung lên các khu dinh điền ở Pleiku), họ đều nhớ lại và cho biết: vị trí cái bến xe đầu tiên hồi ấy là cái vườn hoa cạnh chợ chùa đường Sư Vạn Hạnh (tức vườn hoa Quách Thị Trang trước 75, nay là vườn hoa Kpa Klơng),
gần đó là nơi người dân họp chợ và cũng là nơi các đồng bào dân tộc thiểu số thường từ làng ra để trao đổi hàng hóa nằm lùi sâu vào phía gần chùa Bửu Thắng. (Điều đó phù hợp với suy luận, nếu có một chỗ gọi là bến xe được sử dụng trước khi bến xe Chợ Mới được hình thành và đưa vào sử dụng phải ở gần nhà làng xã Hội Thương-Hội Phú (dãy nhà cách tiệm phở Hoàng đường Hùng Vương bây giờ 1 con hẻm), nơi này gần như là trung tâm thị xã với đường phố chính mang tên Hoàng Diệu đi qua).
Nếu vào những năm đầu của thập niên 60, trên đường phố Sài Gòn và trên đường phố của Buôn Ma Thuột, một tỉnh lân cận Pleiku, người ta vẫn còn thấy những chiếc xe ngựa chở người và hàng hóa và mãi đến năm 65-66 tại SG mới có chương trình của chính quyền thời bấy giờ hỗ trợ cho các bác xà ích mua xe Lambretta 175cc và giúp họ thi lấy bằng lái dễ dàng thì tại Pleiku khoảng những năm từ 1960 trở đi đã vắng bóng xe ngựa mà hồi ấy người ta đã dùng xe ba gác đạp và xe ba gác gắn máy,
sau đó nhanh chóng tậu ngay chiếc xe Lam ba bánh để sử dụng từ những năm 1963 (vì thế có tài liệu cũ nói: đến năm 1964, Pleiku đã có khoảng 40 chiếc trilambretta lưu hành trên các tuyến đường nội thị). Xe ngựa tuy không xuất hiện trên đường phố chính nhưng ở những nơi thôn quê hẻo lánh có thể vẫn còn một vài chiếc xe ngựa dùng để chở rơm rạ, còn đa số người dân hồi ấy đã sử dụng xe bò, xe trâu trong công việc đồng áng.
Sau đời xe Lambretta này, hãng sản xuất đã cho ra đời các chiếc xe Lambro 550 (nhiều người nhầm tưởng là 550cc nhưng thực tế xe này dung tích 198cc và chở được 550kg, tức khoảng 10 đến 12 người lớn), hiện nay có chiếc vẫn còn chạy được, nhưng bị đưa vào danh sách xe bị cấm lưu thông trên đường vì mất an toàn.
Phi trường đầu tiên tại Pleiku, theo các cụ, ban đầu ở cái làng lúc đó có tên gọi là Trà Nhao (nay là làng Nhao, dưới chân núi Hàm Rồng).
Hồi đó, phi đạo bằng đất chứ chưa trải bê tông nhựa đường như hiện nay, sau đó người Pháp chủ sở trà Bầu Cạn mới làm một phi trường tư nhân ở khu vực hồi đó là làng Gia Tường (ngày nay là Ia Từng). Những năm trước thập niên 60 các máy bay dân sự của Air VN (Hàng Không VN trước 1975) vẫn đáp xuống phi trường này. Năm 1961 chính quyền VNCH xây dựng phi trường quân sự Cù Hanh và trong đó có dành một khu vực cho máy bay dân sự, ngoài ra còn có phi trường quân sự AREA…
Các cụ cao niên của Pleiku gọi phi trường Cù Hanh là cái phi trường thứ ba (sau 2 cái phi trường tạm bợ ban đầu vừa kể trên). 3. Những cư dân người Việt đến Pleiku từ nhiều con đường khác nhau: một số người dân gốc Bình Định có lẽ là những người Kinh vượt đèo An Khê và đèo Măng Giang để đặt chân lên đất Pleiku sớm nhất (ít ra là cũng vào thời kỳ ba anh em nhà Tây Sơn tụ nghĩa ở thôn An Lũy, An Khê-tức là Tây Sơn Thượng Đạo) vì 2 tỉnh ở lân cận nhau, một số khác là người Quảng Nam được đưa lên theo chương trình Dinh Điền của thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm (đó là những người dân khu vực Lệ Cần, Lệ Chí, Nam Giang Hà Bầu v.v) và những người khác là người Bắc sau cuộc di cư vào Nam năm 1954, nhiều người trong số họ đặt chân đến Pleiku từ những năm 1957-1958.
Dân số toàn tỉnh Pleiku vào những năm đầu 60 chỉ mới khoảng xấp xỉ 160 ngàn người, trong đó có khoảng 60 ngàn người Kinh.Ngoại kiều sống trên đất Pleiku lúc bấy giờ chỉ vào khoảng hơn 30 người một chút, trong đó có: người Mỹ (có lẽ khoảng 4,5 người gì đó, là gia đình vị mục sư Tin Lành); người Pháp (khoảng 7,8 người, gồm: bà sơ Nhất (sœur supérieure), người sáng lập trường Văn Đức (nay là trường Chu Văn An nằm trên đường Phan Đình Phùng) và trường Thánh Phao Lô; những người trong gia đình ông chủ sở trà Bầu Cạn…) và số còn lại là người Ấn là chủ khoảng gần 10 tiệm vải (khoảng trên dưới 20 người ),
Hồi đó, người ta hay gọi là người Chà Và (do đọc trại từ chữ Java), sau 1975 đa số người Ấn đã không quay về lại Pleiku nữa, người ta chỉ còn thấy ông cụ chủ tiệm ăn Mỹ Vị (nay đã mất), có thời gian ông là chủ tịch câu lạc bộ fan túc cầu Gia Lai, các con ông nay có người đang bán tại tiệm phở khô đường Nguyễn Văn Trỗi (tức đường Phó Đức Chính cũ).
Người Hoa cũng khá nhiều nhưng các tài liệu thường kể gộp chung với người Kinh nên không có số liệu riêng (quý thân hữu nào có thì xin cung cấp cho mọi người cùng biết). Tuy nhiên, nếu suy đoán từ số lượng học sinh của trường Tuyên Đức chuyên thu nhận các con em người Hoa thì số lượng người Hoa khoảng từ 300 đến 500 người .
Thời ấy, họ vẫn giữ tục lệ không gả con gái cho người Việt; những người Việt gốc Hoa này rất đoàn kết giúp đỡ những người cùng bang hội trong kinh doanh.
Rất nhiều người trong số họ nắm giữ những cửa tiệm, cơ sở kinh doanh to lớn, làm ăn phát đạt như: rạp Diệp Kính, tiệm ăn và bi da, banh lắc Xuân Lợi, tiệm ăn Mỹ Tâm, tiệm sâm bổ lượng Nam Viên (đường Phan Bội Châu), tiệm ăn Hiệp Thành, tiệm ăn Đông Kinh, kho gạo Trần Tỷ, phở Tàu Lý, bi da Hào Huê, cơ sở chế biến cà phê Đông Sanh, Đông Hưng, tiệm thuốc bắc Bảo Thọ Xuân (sau 75 vẫn còn ông thầy Mười, người chuyên đứng bốc thuốc bắc, đứng bán thuốc bắc bằng một cái xe nhỏ đẩy đặt tại ngã tư Phan Bội Châu -Hùng Vương… được độ vài năm thì ông mất ), Tế Dân, Tế Phước đường, các tiệm tạp hóa Hưng Phát, Phước Thành đường Hoàng Diệu, tiệm sắt Kim Ngươn, các tiệm tạp hóa của ông Kim, ông Thìn đầu hẻm chợ nhỏ Lê Lợi…
Rạp chiếu bóng Diệp Kính có từ trước năm 1960 do ông Diệp Kính xây dựng, bên cạnh rạp là phòng ngủ (nay là khách sạn Hùng Vương) và cây xăng. Rạp này chuyên chiếu phim Ấn Độ lồng tiếng Việt (tuy thế, hồi bé, tôi đã được bố tôi dẫn đến rạp này để xem phim Les misérables, lúc ấy họ dịch là “Những kẻ khốn nạn”) và một rạp chuyên để cho các gánh cải lương, hát bộ đến diễn là rạp Thăng Long.
Nơi này ban đầu là trụ sở Hội Liên Đới Phụ Nữ, khoảng 1960 bà Đỗ Thị Quả nhận thầu khai thác, bà đã sửa chữa, tôn tạo lại thành rạp Thăng Long (nên người ta gọi bà cụ này là bà Thăng Long); sau này các gánh cải lương lưu diễn thưa dần nên đổi tên thành rạp Cinéma Thanh Bình.
Mãi đến khoảng năm 1965 mới có thêm rạp Diên Hồng trên chợ Mới, chuyên chiếu phim và cho các trường học thuê làm nơi diễn văn nghệ và phát phần thưởng cuối năm. (Bà Thăng Long cũng là người đã tập hợp các bạn bè đồng hương của mình để tôn tạo và xây dựng một điện thờ theo đạo Mẫu Việt Nam nhưng sau khi tôn tạo vào năm 1961, cư dân Pleiku vẫn gọi điện thờ này là “Am Bà”, am này tồn tại đến khoảng năm 1994 gì đó?). 5. Đất đỏ ba dan phù hợp với cây trà nên ngay từ đầu, người Pháp đã thành lập ra sở trà Bầu Cạn và sở trà Biển Hồ, Cả 2 đồn điền trà này đều có trồng cả cây cà phê nhưng sản vật chủ yếu của họ vẫn là trà.
Trong nội thị có vườn cà phê của bà Sơ dòng Mến Thánh Giá trải dài từ hàng rào giáp ranh với trường Nam Tiểu học Pleiku lên đến hàng rào trường tư thục Tuyên Đức dành cho con em người Hoa và một số vườn cà phê nhỏ nữa nằm rải rác dọc đường Phan Đình Phùng (ước lượng toàn bộ độ 5 đến 6 mẫu).
Riêng đồn điền IMATZ thuộc quận Lệ Thanh có diện tích trồng cà phê khoảng 100 mẫu với sản lượng mỗi năm độ 20 tấn và đồn điền Ia Châm (nằm trên huyện Ia Grai bây giờ) cũng có khoảng hơn 100 mẫu cà phê cho sản lượng độ 21 tấn.
Tuy thế số liệu về cà phê xuất ra khỏi tỉnh vào thời điểm năm 1963 chỉ có 400 Kg thì e rằng nhầm (vì sản lượng toàn tỉnh khoảng gần 50 tấn cà phê mà chỉ xuất có 400kg thì ngần ấy người Pleiku tiêu thụ sao cho hết mấy chục tấn cà phê?).
Nhiều cụ cao niên từng là công nhân của nhà máy đèn Pleiku và một công nhân lâu năm của sở trà Bầu Cạn đều nhớ rằng ngày trước người Pháp đã đưa điện từ nhà máy thuỷ điện Bầu Cạn ( xây dựng năm 1950 ) về bán điện cho Trung Tâm Điện Lực Pleiku. Mãi đến năm 1963 đường dây điện từ Bầu Cạn về Pleiku mới bị rỡ bỏ chỉ còn để lại đoạn đường dây 15KV cấp điện cho nhà máy chế biến chè Bầu Cạn (cái tua bin thủy điện này được coi là cái máy phát điện lâu năm nhất của Pleiku và đoạn đường dây đưa về nơi chế biến trà này hiện nay vẫn còn đang vận hành tốt).
Còn nguồn nước chính tại khu trung tâm Pleiku là hầm nước xây bê tông tại cuối dốc lò ba toa (tức là lò mổ, lò bò, lò sát sinh dưới dốc đường Trần Hưng Đạo hiện nay, mạch nước ngầm ở đây rất trong, có nhà đào giếng sâu một mét thì nước đã đầy ắp đến miệng giếng. Hầm nước này nằm vị trí trong góc sân nhà hàng Trầu Cau 1) tại đây có suối Gia Ninh (Ia Kring) chảy qua, các xe chở xi téc nước cuả quân đội và người dân quanh vùng vẫn hay lấy nước tại hầm bê tông này,
Ngoài ra, còn có các giếng bơm lắc tay ở rải rác nhiều nơi (có tài liệu nêu gồm có 28 cái), nhưng cái giếng bơm lắc tay tập trung đông đảo người dân xếp hàng chờ đến lượt bơm nước cũng như những người làm nghề gánh nước thuê, chở nước thuê… nhất là cái giếng ngay sau lưng Am Bà đường Phó Đức Chính (tức Nguyễn Văn Trỗi ngày nay); có lẽ do nơi đây có cái bóng cây sung đại thụ râm mát cả ngày.