2023
NIỀM VUI TRỌNG ĐẠI
Ngày 24 tháng 12 Chúa Nhật
Chúa Nhật 4, Mùa Vọng. Tv tuần 4. Các bài đọc: 2Sm 7,1-5.8b-12.14a.16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38.
Lễ vọng Chúa Giáng Sinh. Lễ trọng (màu trắng). Các bài đọc: Is 62,1-5; Cv 13,16-17.22-25; Mt 1,1-25.
Các bài đọc lễ đêm: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14.
NIỀM VUI TRỌNG ĐẠI
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta”.
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:”Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta”. Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. “Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta”.
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
2023
Hãy Dọn Đường
Ngày 10 tháng 12
Chúa Nhật 2, Mùa Vọng. Tv tuần 2. Các bài đọc: Is 40,1-5.9-11; 2Pr 3,8-14; Mc 1,1-8.
Hãy Dọn Đường
Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gioan Tiền hô là “Hãy sám hối”. Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải là sám hối thật. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội và … chỉ có thế thôi, nên đã đi treo cổ chết. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Lời Chúa trong Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay mời gọi mỗi người tín hữu hãy dọn đường cho Chúa đến. Xuất hiện trước Đức Giêsu khoảng 4.000 năm, tiên tri Isaia đã lên tiếng kêu gọi người Do thái chờ đón Đấng Cứu Thế đến, bằng cách dọn đường cho ngay thẳng. Và trước khi Đức Giêsu bắt đầu xuất hiện công khai để khởi đầu cho sứ vụ loan báo Tin mừng, Gioan Tẩy Giả cũng đã kêu gọi mọi người dọn đường chờ đón Đấng Cứu Thế. Thánh Marcô ghi lại: “Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: “Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan” (Mc 1, 1-5). Hình ảnh khắc khổ của Gioan Tẩy Giả đã đánh động mọi người với lời kêu gọi: hãy dọn đường, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Đám đông khi ấy đã hiểu lời kêu gọi của Gioan, họ đã biết rằng, con đường phải sửa, phải dọn không phải là đường đi trước mặt, mà chính là con đường tâm hồn, một con đường đầy dẫy những quanh co, khúc khủy, là những tội lỗi, yếu đuối, những mưu mô, tính toán…
Không chỉ kêu gọi bằng lời nói, Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho mọi người bằng một cuộc sống khắc khổ, hy sinh: “Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: “Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1, 6-8). Mẫu gương của Gioan Tẩy Giả không chỉ đánh động đến người Do thái thời xưa, mà còn phải tác động đến chúng ta hôm nay. Vì muốn dọn đường tâm hồn, đòi hỏi mỗi người tín hữu phải biết hy sinh, sửa chữa những sai lỗi, lấp đầy những hố sâu dục vọng và đam mê bằng những việc bác ái, chia sẻ. Như thế con đường tâm hồn sẽ ngay thẳng, để chờ đón Đấng Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố: Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa…, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần…
Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu sẽ tẩy rửa chúng ta bằng sự tha thứ và cứu độ, tuy nhiên lúc này mỗi người tín hữu phải quyết tâm thay đổi cuộc sống của mình, để con đường tâm hồn luôn ngay thẳng. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ 1 cũng đã nói đến viễn cảnh về ngày Đấng Cứu Thế sẽ đến: “Ðây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ” (Is 40, 9-11).
Con đường thiêng liêng của chúng ta cũng có thể bị tắc nghẽn hay gián đoạn bởi thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Tình trạng con đường bị tắc nghẽn nhiều hay ít là do từng người, và mỗi người chúng ta phải sửa chữa để đến với Chúa.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu quén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, muốn gây bất hoà, luôn giận hờn, luôn ghen ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn Chúa đến với ta. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn, bạt đi thói kiêu hãnh ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh co dối trá. Hãy uốn lại những khúc quanh giả hình. Hãy uốn lại những khúc quanh mưu mô xảo quyệt. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những sóng gồ ghề nói hành nói xấu. Nên hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến.
Muốn có con đường thẳng ngay và bằng phẳng, cần có một tâm hồn chính trực. Với những ai muốn đón Chúa đến, Gioan Tẩy giả yêu cầu: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Khi đón một nhân vật quan trọng đến vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp; nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả hình…
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải “công minh chính đại”, “đường đường chính chính”, không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thể ấy và nói sao thì làm vậy…
Đấng Messia mà Cựu ước loan báo chính là Đức Giêsu, Ngài sẽ đến. Nhưng trước khi Ngài đến cần có người đến trước chuẩn bị. Đó là Gioan Tẩy giả, ông đến dọn đường cho Ngài. Ông đã chọn nơi cô tịch nơi hoang địa để thi hành sứ vụ, nhằm tránh xa chốn ồn ào của thành phố, giúp cho lời nói của ông được người đời nghe rõ hơn và dễ thấm nhập nơi nội tâm con người.
Ông cũng lặp lại lời tiên tri Isaia hô hào cho dân chúng thực hiện: “Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho Chúa đến”. Ông thực sự là tiền hô rao giảng sự thống hối chờ đợi Chúa đến. Qua nếp sống gương mẫu của ông, từng đoàn người kéo đến bờ sông Giođan chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Theo thánh Gioan, việc dọn đường cho Chúa là lòng sám hối và lãnh nhận phép thánh tẩy. Ông khuyên tất cả mọi người hãy từ bỏ con đường tội lỗi mà trở về đường lành, và lúc đó mọi người sẽ xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Chuẩn bị đường cho Chúa đến là phải sửa đường cho thẳng, cho tốt đẹp, sạch sẽ. Theo thánh Gioan Tẩy giả, sửa đường chính là sám hối, là canh tân cuộc sống của mình để xứng đáng đón nhận Chúa đến trong ngày Ngài quang lâm và nhất là trong ngày sau hết của đời mình.
2023
TỈNH THỨC
Ngày 3 tháng 12 Chúa Nhật
Chúa Nhật 1 Mùa Vọng. Tv tuần 1. Các bài đọc: Is 63,16b-17.19b; 64,2b-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37.
TỈNH THỨC
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và chờ đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức” (c.33a). Đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong Mc 13, Chúa Giêsu kêu gọi bốn đồ đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê phải coi chừng (cc.5.9.23.33). Lời mời gọi hãy biết nhận định rõ ràng và chính xác, là lời mời gọi xuyên suốt diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. Các môn đệ cần phải có cái nhìn sáng suốt về những gì xảy đến, để giải thích đúng đắn các thực tại và không bị lừa phỉnh (cc.5-23). Bây giờ, sau khi đã nói tất cả những điều đó và để kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phải tính thức”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, có đến bốn lần Chúa nói: “Phải tỉnh thức” (cc.33.34.35.37), điều này cho thấy tính cách quan trọng của lời mời gọi.
Lý do đầu tiên được đưa ra để làm nền cho lời mời gọi quan trọng đó, chính là: “Vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (c.33b). Ngay trước câu này, Chúa đã khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó [cuộc quang lâm] thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (c.32). Áp dụng điều đó vào trường hợp các đồ đệ, Chúa Giêsu cho họ biết rằng họ không biết được khi nào xảy đến cuộc quang lâm (c.33), tức là khi nào Chủ của họ trở về (c.35), và Ngài nối kết sự không biết này vào với lời mời gọi tỉnh thức.
Sau khi nêu lý do, Chúa Giêsu kể cho các đồ đệ nghe một dụ ngôn: câu chuyện ông chủ đi xa. “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (c.34). Người giữ cửa được nhấn mạnh cách đặc biệt vì hơn tất cả những người khác, nhiệm vụ canh thức của anh là rất rõ ràng.
Tình cảnh của các đồ đệ cũng tương tự như tình cảnh của những người đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn. Ông chủ đi xa và trao phó công việc cho họ; mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình. Và bởi vì họ không biết khi nào ông quay về, nên họ phải luôn hiện hiện trong tư thế sẵn sàng. Cũng tương tự như thế, Chúa Giêsu chính là vị Chủ Nhà. Rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu trao phó cơ nghiệp cứu độ của Người cho các đồ đệ. Trong Nhà của Chúa Giêsu, các đồ đệ, nhất là các vị lãnh đạo cộng đoàn Hội Thánh, vừa là gia nhân vừa là người giữ cửa. Mọi người đều phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Người trở lại trong cuộc quang lâm của Người.
Sau khi kể câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu lặp lại lời kêu gọi tỉnh thức và nêu phần áp dụng của dụ ngôn đó và hoàn cảnh các đồ đệ: “Vậy anh em phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (cc.35-36).
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Qua báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
Nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm, thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê, trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
2023
Tin và Tử đạo
19.11 Chúa Nhật thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Cn 31:10-13,19-20,30-31; Tv 128:1-2,3,4-515; Mt 25:14-30; Mt 25:14-15,19-21
Tin và Tử đạo
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu Công giáo Việt Nam bị bách hại khốc liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ từ bỏ đạo Chúa. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, các ki-tô hữu không còn bị thúc ép dẫm lên thập tự giá như các tín hữu ngày xưa, nhưng vẫn còn nhiều áp lực thúc đẩy họ chà đạp lên tình người, mà ai chà đạp lên tình người thì kẻ ấy đã thực sự chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giê-su.
Hôm nay là lễ kính trọng thể các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Hơn ai hết, các ngài đã hiểu rất rõ ràng các ngài hiện diện trên trái đất này chính là một đặc sủng, một quà tặng tuyệt đối vô song Thiên Chúa đã ban tặng, và khi đón nhận ơn gọi Ki-tô hữu chính là lúc các ngài được Người cấp vốn làm ăn. Người có thể gọi các ngài về bất cứ lúc nào để tính sổ coi các ngài đã sử dụng số vốn được trao ấy ra sao. Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, các Thánh Tử Vì Đạo đã tuyệt đối tin tưởng, sống và hành động hết mình cho lý tưởng mình đã khám phá được với một ý chí sắt đá, dù cho còng trói tay, gươm kề cổ cũng không chùn bước, cuối cùng đã hy sinh cả mạng sống; đó là phẩm hạnh tuyệt hảo của các ngài. Và hôm nay chính là kỷ niệm ngày các ngài được chính thức “hưởng niềm vui của Chủ” nơi cõi phúc trường sinh.
117 vị thánh tử đạo Việt Nam, không phải là những bậc tài trí xuất chúng, cũng không phải là những người giàu sang phú quý, nhưng đều là những người bình thường trong xã hội, là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với tổ quốc và nhân dân, nhưng đã phải chịu tử hình vì không chối bỏ đức tin: Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ, đã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, vào ngày 23/10/1883 tại Huế, triều vua Minh Mạng.Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu phủ họ Đầu Nước, tỉnh Anh Giang, đã bị bắt và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31/7/1859. Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ công giáo gương mẫu; vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên đã bị bắt và chịu nhiều cực hình nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841 v.v…Rồi có những giáo xứ ở Quảng Trị, bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Phanrang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống…
Tin Chúa, theo Chúa là chấp nhận từ bỏ những gì không phù hợp, những gì cản lối chúng ta bước theo Chúa, cho dù đó là tình máu mủ ruột thịt, tiền bạc, địa vị của cải; khi phải chọn lựa giữa sống và chết vì Tin Mừng thì cũng dám chấp nhận. Đó cũng là đòi hỏi Chúa Giêsu đã công bố: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống. Người nào được lời lãi cả thế gian mà đánh mất chính mình và phải thiệt thân thì nào có ích lợi gì. Ai xấu hổ vì tôi và Tin Mừng thì Con Người cũng xấu hổ vì kẻ ấy.
Đây là đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát mà Chúa muốn những người theo Chúa phải chấp nhận. Trải qua dòng thời gian, đã có hàng hàng lớp lớp những con người nhận ra giá trị cao quý của lời mời gọi này. Họ đã đáp lại bằng cả cuộc đời và đánh đổi bằng mạng sống mình để đạt được Nước Trời và giữ được mạng sống cho cuộc sống đời đời. Tổ tiên chúng ta, các anh hùng tử đạo Việt Nam, mặc dù mới biết Chúa tin Chúa, nhưng cũng đã dám từ bỏ tất cả vinh quang lợi lộc trần thế, vác thập giá đời mình bước theo Chúa Giêsu. Các ngài đã dám đánh đổi cả gia đình, sự nghiệp, hạnh phúc ở đời này và mạng sống để mong đạt được hạnh phúc đời đời. Sự can đảm và cái chết anh dũng của các ngài là một lời tuyên xưng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, là tấm gương cho các thế hệ con cháu và cũng là tấm gương đánh động tâm hồn những người dân ngoại.
Từ chối bước qua thánh giá, từ chối những lời mời gọi hứa hẹn hấp dẫn, từ chối địa vị danh vọng… đó là tấm gương cha ông, các vị tử đạo Việt Nam, đã để lại cho chúng ta. Ngày nay, chúng ta không bị ép bước qua thánh giá, nhưng nhiều người đã nhắm mắt tự nguyện để đạp lên Tin Mừng và lề luật của Chúa. Những người này bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của Chúa và Tin Mừng, họ sống mà không dám thể hiện mình là người Kitô hữu. Nhiều tín hữa đã không dám từ chối những cám dỗ, mời chào và sự hứa hẹn của thế gian; họ nhắm mắt chạy theo danh lợi, địa vị; họ gạt Chúa và Tin Mừng qua một bên.
Mừng lễ các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, người Ki-tô hữu phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải noi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào. Nói cách cụ thể, thì người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy (tức là Thần Khí Ðức Ki-tô ở trong bản thân mình) để sống đời sống chứng tá ngay trong môi trường xã hội nơi mình cư ngụ. Để được như vậy, cần phải mang sự chết của Người trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ.
Nhờ lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Xin Chúa thương giúp chúng ta học và noi gương các ngài trong sứ vụ chứng nhân mà Chúa đã ban tặng nhưng không cho chúng ta.