2021
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
26 20 X CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần II.
Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48.
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
Tin Mừng hôm nay cho thấy óc phe nhóm và tinh thần bè phái cục bộ ngay trong hàng ngũ các môn đệ Chúa Giêsu: Khi thấy có người khác không theo Chúa Giêsu nhưng đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ, ông Gioan đã ra sức ngăn cản họ và báo cho Chúa Giêsu hay biết sự việc để có hướng xử lý (Mc 9, 38). Ông không thể chấp nhận có người không thuộc Nhóm Mười Hai, lại dám cậy nhờ danh Thầy của ông để trừ quỷ, mặc dù họ cũng đã trục xuất được quỷ ra khỏi người bị nó ám. Ông muốn giữ độc quyền nhân danh Thầy để trừ quỷ cho Nhóm của ông.
Vào thời ông Môsê cũng vậy. Giôsuê cũng muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi Kỳ Mục, nên đã yêu cầu Môsê hãy ngăn cấm hai ông Enđát và Mêđát, không thuộc Nhóm Bảy Mươi, mà cũng được Thần Khí tác động để nói tiên tri. Môsê đã trả lời cho môn đệ như sau: “Anh ghen giùm tôi hay sao ? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11,29).
Trong quá khứ, Hội Thánh cũng đã lần do muốn bảo vệ sự độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa của mình, nên đã có những hành động cục bộ khép kín, có những quyết nghị nặng tính trừng phạt răn đe đối với những ý kiến bất đồng…, làm mất đi sự trong sáng của khuôn mặt bao dung nhân hậu của Đức Giêsu trước mặt anh em dân ngoại. Nhưng từ Công Đồng Vatican II, Hội Thánh đã mở ra một trang sử mới, khi trong những văn kiện không còn những lời kết án, miệt thị những tư tưởng khác biệt. Thay vào đó Hội Thánh khiêm tốn chân thành nhìn nhận giới hạn của mình, và công nhận có những điều chân thiện mỹ nơi các tôn giáo và các nền văn hoá khác.
Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa, Ngài đã khẳng định, Ngài đến thế gian này là để tìm kiếm và cứu chữa những người tội lỗi, để tìm con chiên lạc, vì thế có thể nói ngược lại nếu thế gian này không có người tội lỗi không có chiên lạc, thì Đức Kitô đã không cần phải đến thế gian. Trong kinh tin kinh lát nữa chúng ta tuyên xưng cũng khẳng định như vậy: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm và kêu gọi những con chiên lạc, những tâm hồn thiện chí khi đón nhận Tin Mừng của Ngài và quyết tâm hoán cải thì đều được đón nhận vào Nước trời, còn trái lại những người kiêu căng tự mãn sẽ đánh mất cơ hội của mình.
Câu chuyện trong trang Tin Mừng hôm nay được nói cho các Thượng Tế và Kinh sư trong dân Do Thái là những người thế giá đứng đầu trong dân, những người tự cho mình là những người công chính, luôn tuân hành mọi lề luật, nhưng thực ra họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn, khi được cha mời đi làm vườn nho, thì anh ta ngon ngọt thưa vâng con sẽ đi, trên mội miệng mà thực tế anh không hành động, không đi làm, không vào vườn nho. Còn trái lại, những người thu thuế và tội lỗi, xem ra bên ngoài họ là những người từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa: Con không đi, thế nhưng sau đó họ hối hận và đã đi làm.
Dụ ngôn hôm nay còn cho thấy một Thiên Chúa hết sức nhân từ bao dung, Ngài chính là Người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe. Ông không hề nổi giận trước câu trả lời như tạt nước của đứa con thứ nhất: Con không đi, ông cũng không trách nó nửa lời, ông như người cha cắn răng chịu đựng sự ngỗ nghịch của những đứa con, ông lại lặng lẽ đến với đứa con thư hai, vẫn một thái độ ân cần như năn nỉ: Con hãy đi làm vườn nho cho cha! người cha này đã chờ đợi cả hai đứa con vào làm vườn nho, thế nhưng đứa con đã từ chối ông làm ông khổ tâm, lại là đứa mang đến cho ông niềm an ủi vì sự hối hận của nó, còn đứa ngon ngọt kia lại là kẻ gây đau khổ cho ông khi nó nói có mà không làm, khi nó hứa mà không giữ lời.
Như vậy, điều làm hài lòng Thiên Chúa không phải là những lời lẽ trên môi hay những câu kinh vô hồn mà là một tấm lòng và thái độ đáp lại cụ thể lời mời gọi của Chúa. Và Thiên Chúa Ngài không kể gì đến quá khứ của con người khi con người đã hối hận và thật lòng quay trở về với Ngài.
Chúng ta phải sống với Chúa như thế nào cho trọn đạo làm con? Thánh Phaolô trong thư Philip đã giới thiệu cho chúng ta tấm gương của một người con đó là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vậy mà Ngài đã chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang sống hoàn toàn vâng phục Cha trong mọi sự, chấp nhận mang thân phân con người, hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết; Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người đặt Ngài làm Chúa tể trên trời dưới đất.
Đó chính là tấm gương của một người con thảo hiếu với Thiên Chúa, mà chúng ta cần noi theo. Để noi theo tấm gương này, Thánh Phaolô cũng chỉ cho chúng ta là, mỗi người hãy có những tâm tình như Chúa Giêsu đó là tâm tình vâng phục trong yêu mến dành cho Thiên Chúa, và gắn bó thông hiệp với Chúa Giêsu trong Thần Khí, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết sống cho phải đạo làm con.
Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những thái độ lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài.
Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác, đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).
Chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô hôm nay cần học tập Thầy Giêsu để sẵn sàng giơ tay ra với mọi người thiện chí và mời gọi mọi người cùng hợp tác trong các việc tốt. Đồng thời tránh sự loại trừ, bất hợp tác với người khác trong các việc mang lại ích lợi cho môi trường sống và trật tự xã hội. Tinh thần bao dung này phải mang tính bao dung không biên giới, không đóng khung trong một phe nhóm hay tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy có những anh em Phật tử hay vô tín ngưỡng làm được những việc tốt như: vệ sinh môi trường, hiến máu nhân đạo, chia sẻ cơm áo gạo tiền cho người nghèo khó bất hạnh, mổ mắt miễn phí… hoặc khiêm tốn phục vụ những bệnh nhân ung bướu, HIV-AIDS… thì hãy nhớ rằng: những anh em đó cũng thuộc về Thiên Chúa như chúng ta và họ đang làm công việc tốt lành của Thiên Chúa Tình Thương giống như chúng ta, như lời thánh Gioan: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 7-8).
2021
TIN VÀ CHẤP NHẬN
12 06 X CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần IV.
Không cử hành lễ Danh Rất Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35.
TIN VÀ CHẤP NHẬN
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc trắc nghiệm Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ sau một thời gian đi theo Chúa. Sau khi chữa lành người câm điếc mà chúng ta nghe Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp túc tách khỏi đám đông ồn ào, và đi sâu vào vùng đất của dân ngoại Cesare-Philipphê, ở đó trong thân tình chỉ có thày trò với nhau, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ, trước tiên, Ngài muốn biết dư luận dân chúng nghĩ gì về Ngài nên Ngài mới hỏi các tông đồ: Người ta bảo con người là ai?
Các câu trả lời của dân chúng đã không chính xác: Họ bảo Thày là Gioan Tây giá, hay Elia hoặc một tiên tri nào đó. Chúa Giêsu đã không quan tâm đên những dư luận sai lạc đó, Ngài đưa ra câu hỏi trực tiếp cho các tông đồ, như một bài trắc nghiệm niềm xác tin và sự hiểu biết cùa các ông sau một thời gian theo Chúa: Còn các con, các con bảo Thày là ai? Simon Phêrô đã thay cho anh em để trả lời: Thày là Đấng Kitô.
Câu trả lời này thật chính xác, Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Mesia, Đấng Cứu thế mà các tổ phụ các tiên tri đã loan báo và muôn dân đang trông đợi. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời tuyên xưng ấy, và Chúa muốn giải thích rõ hơn cho các ông hiểu về vai trò cứu thế của Ngài, Ngài là Đấng Cứu Thế không như những điều mà người Do Thái mong đợi, vì người Do Thái mong đợi một Đấng Cứu thế sẽ kế vị ngai báu của vua Đavít, sẽ xưng vương và là người đứng lên khởi nghĩa lật đổ chính quyền Roma, và xây dựng nên một vương quốc Giuda hùng mạnh. Chúa Giêsu đã không cứu thế theo con đường đó, mà Ngài muốn các môn đệ chấp nhận một đường lối của Thiên Chúa: Đấng cứu thế sẽ đến trong khiêm hạ, bị người ta bắt, đánh đòn và giết chết sau ba ngày Người sẽ sống lại.
Giống như những người Do Thái khác, Simon Phêrô đã không chấp nhận con đường khiêm hạ của Đấng Cứu thế, nên đã can ngăn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin Thầy đừng làm như vậy. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách ông: Satan! lui lại đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người. Tại sao Chúa trách Simon nặng lời như thế? Thưa, vì Simon đã quên mất vị trí của mình là một người môn đệ, người học trò của Chúa, đã là môn đệ, thì phải đi theo sau Thày, nghe lời Thầy, chứ không phải là người chỉ đường cho Thầy. Simon Phêrô đã muốn vượt lên phía trước để trở thành người dẫn đường, điều khiển Chúa theo ý mình, muốn Chúa phục vụ cho mình, nên Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh để ông trở về đúng vị trí của mình là người môn đệ: Hãy lui lại đàng sau Thày.
Để giải thích thêm về đòi hỏi này, Chúa đưa ra cho mọi người một điều kiện tiên quyết: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Để trở nên môn đệ của Chúa, đòi mỗi người phải có một chọn lựa dứt khoát: Ai muốn theo thì phải bỏ chính mình. Từ bỏ những cái bên ngoài như tài sản, danh vọng, và những mối liên hệ thân thiết như gia đình anh em bạn bè đã là điều khó, và từ bỏ chính mình là điều còn khó hơn.
Từ bỏ chính mình là chấp nhận nhận trở nên trống rỗng để cho Thiên Chúa đổ tràn đầy ân sủng của Người vào trong chúng ta, là chấp nhận từ bỏ những sở thích riêng, sự tự ái và cái tôi ích kỷ để hoàn toàn thuận theo ý Chúa, bước theo Chúa trong tin tưởng phó thác, và dám để cho Thiên Chúa thực hiện những điều Ngài muốn trên cuộc đời mình.
Kế đến là vác thập giá mình mà theo Chúa; vác thập giá của mình chứ không phải của ai khác, và bước đi theo Chúa chứ không phải bước đi trên con đường khác. Thập giá của mình là những việc bổn phận hàng ngày trong gia đình, nơi xí nghiệp, là những khó khăn thử thách trong mỗi ngày sống; và phải can đảm bước trên con đường theo Chúa, chứ không thể đi theo đường riêng hay ngõ tắt, mà phải đi vào con đường thập giá của Chúa, là chấp nhận mất để được, chết đi để được sống đời đời. Đó cũng chính là cái nghịch lý mà Chúa nói đến: Ai muốn cứu mạng sống mình sẽ mất, và ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Chúa Giêsu đã sống cái nghịch lý này khi chấp nhận cứu chuộc nhân loại bằng con đường khiêm hạ, hoàn toàn vâng phúc thánh ý Thiên Chúa cha như một người đầy tớ. Tiên tri Isai đã phác họa gương mặt của đấng cứu thế qua bài ca về người tôi tớ trong bài đọc một: Người tôi tớ này đã chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiên mọi sự trên cuộc đời mình: Người đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại, Tôi đã dưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu và không che mặt giấu mày khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ vì có Chúa là Đấng phù trợ tôi… Dù bị đối xử tàn tệ, nhưng người tôi tớ này vẫn không một lời than trách, nhưng vẫn một niềm cậy trông vào Chúa.
Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. ‘Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và đưa cả dòng tộc Gia-cóp sang bên Ai cập tránh nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thánh giá chật hẹp leo dốc như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tm 2, 12-14).
Biết Chúa Giêsu và nói một cách chính xác về Chúa Giêsu đó là trách nhiệm của các bậc làm cha mẹ trong gia đình, là những Kitô hữu, các bậc cha mẹ sẽ phải là người nói về Chúa Giêsu cho vợ chồng con cái trong gia đình. Hãy nói về một Chúa Giêsu nhân từ yêu thương và phục vụ qua đời sống yêu thương phục vụ của cha mẹ, hãy nói về một Chúa Giêsu quảng đại và tha thứ qua chính sự quảng đại tha thứ trong gia đình. Người ta chỉ có thể biết và nói về Chúa Giêsu khi ta thực sự đã được gặp Ngài, do đó để nói một cách xác tin về chúa Giêsu cho vợ chồng con cháu, thì trước tiên bậc ông bà cha mẹ hãy gặp Chúa Giêsu trong Thánh Thể, trong Lời Chúa mỗi Ngày, để chúng ta có thể xác tín hơn khi nói về Ngài.
Chúa Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Chúa Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Sa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4, 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Chúa Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Chúa Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời nầy vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Biết và tin vào Chúa Giêsu không phảỉ là tin vào một câu chuyện, mà là tin và chấp nhận Ngài là một vị Thiên Chúa làm người, và dám để cho Ngài bước vào cuộc đời và thay đổi cuộc sống chúng ta. Biết Chúa tin Chúa, là chấp nhận giáo huấn và lời dạy của Ngài và thực hành những điều Ngài mời gọi chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta dám sống cái nghịch lý của tin Mừng, Ngài đòi chúng ta phải đi theo con đường của Tám mối Phúc Thật, đó là con đườnmg mà người đời cho là hèn kém, nhưng đối với Thiên Chúa thì đó là những con đường đưa tới hạnh phúc đời đời.
2021
XIN CHÚA MỞ TAI TA
05 29 X CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần III.
Thánh Giu-se Hoàng Lương Cảnh, Trùm họ (U1838); và Thánh Phê-rô Nguyễn Văn Tự, Linh mục (U1838), Tử đạo.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37.
XIN CHÚA MỞ TAI TA
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng. Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót.
Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần, cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với Thiên Chúa được.
Chúa Giêsu đến trần gian để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người, của xã hội và giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ khả năng chữa lành tinh thần và tâm linh.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ngài chữa lành «một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh «vừa điếc vừa ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc không nghe rõ. Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người điếc, ngọng, câm thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số người điếc, ngọng, câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm chí có cả bệnh “câm điếc xã hội, nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và câm nữa.
Nếu Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và ngọng thể lý, thì Ngài còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc và ngọng về tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.
Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Chúa chữa người câm điếc như thực hiện một bí tích. Cũng có một cử chỉ và một lời nói. Chúa đưa anh ra xa đám đông, chạm vào tai và lưỡi anh ta. Chúa ngước nhìn trời, cầu nguyện rồi nói: Hãy mở ra. Và anh khỏi câm khỏi điếc. Phép lạ nào cũng do niềm tin của người xin. Nhưng phép lạ cũng do sức mạnh từ thân mình Chúa Giêsu phát ra. Như các bí tích chúng ta chịu bây giờ, cũng là sự tiếp xúc giữa người lãnh nhận với vị chủ sự, đại diện Hội Thánh. Và có khi tiếp cận chính Chúa Giêsu, như bí tích Thánh Thể. Đó cũng là Chúa Giêsu đã xuôi ngược trên các nẻo đường Do Thái xưa. Nhưng ít khi ta thấy phép lạ, vì niềm tin của ta còn yếu kém.
Chuyện người câm điếc được lành hôm nay cũng là một ẩn dụ. Vì vậy Chúa chữa bệnh với một lệnh truyền. Hãy mở ra. Lệnh này không phải nói tới cái tai và cái lưỡi, nhưng nói với người bệnh. Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn. Nhưng bệnh câm điếc tinh thần thì có thể là một lựa chọn của người bệnh. Có những lúc chúng ta không muốn nghe Lời Chúa nói trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng, có lúc chúng ta chẳng khác gì người câm điếc. Chúng ta mất khả năng giao tiếp với Chúa và với anh em. Chúng ta cần cầu xin Chúa, để Chúa chạm tới ta và nói với ta: Hãy mở ra, và chúng ta khỏi câm điếc, lại tiếp nối sự hiệp thông với Chúa, và anh chị em trong ân sủng và trong cuộc sống bác ái.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe thấy bởi vì họ không lắng nghe.
Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều người khác muốn nói.
Sự cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với những người chung quanh.
Sau khi làm phép lạ này, dân chúng đã tuyên bố Ngài làm mọi việc đều tốt lành. Đây là câu kết luận chẳng khác câu kết luận của Thiên Chúa liên hệ đến công việc sáng tạo trời đất của Ngài lúc khởi thủy (St 1, 31). Khi Chúa Giêsu đến, đem theo ơn chữa lành cho thân thể và cứu rỗi các linh hồn con người. Ngài đã bắt đầu công cuộc sáng tạo một lần nữa. Nguyên thủy, mọi sự đều tốt lành, tội lỗi của nhân loại đã phá hư tất cả, và bây giờ, Chúa Giêsu đem trở lại cho thế gian vẻ đẹp đẽ Thiên Chúa đã ban từ đầu, mà tội lỗi loài người đã làm xấu xa.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
2021
HÌNH THỨC
29 22 X CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần II.
Xứ Phú Thứ, Tân Lạc, và họ Thọ Lão chầu Mình Thánh.
Không cử hành lễ thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta chịu trảm quyết. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Đnl 4,1-2.6b-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8.14-15.21-23.
HÌNH THỨC
Có những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ.
Dẫu rằng nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn… nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Chúa Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang có một sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.