2021
Sóng gió cuộc đời
20 11 X CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN
Ca vịnh tuần IV.
Chúa Nhật III trong tháng. Ngày truyền giáo của giáo phận.
Xứ Từ Châu, Đồng Bào, Đồng Gội và họ Kim Tân chầu Mình Thánh.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
G 38,1.8-11; 2Cr 5,14-17; Mc 4,35-41.
Sóng gió cuộc đời
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Con thuyền của các môn đệ trong Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là ” trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn).
Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.’
2021
HẠT GIỐNG NÀO Ở TRONG TÔI
13 04 X CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN
Ca vịnh tuần III.
Xứ Yên Kiện, Văn Lãng (Mường Đổn), họ Phố Bói và họ Pháp Vân chầu Mình Thánh.
Không cử hành lễ thánh An-tôn thành Pa-đô-va, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Ed 17,22-24; 2Cr 5,6-10; Mc 4,26-34.
HẠT GIỐNG NÀO Ở TRONG TÔI
Hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cảm nhận việc Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn về nông nghiệp, gần gũi với đời sống thường ngày để mặc khải cho dân chúng về sự phát triển của nước Trời.
Xem ra, hai dụ ngôn nông nghiệp này dần xa lạ với cuộc sống ngày nay đối với người trẻ, vì chúng ta đang sống trong một cuộc sống công nghiệp hiện đại. Dẫu vậy, chắc hẳn chúng ta có thể hiểu ít nhiều về việc trồng trọt, tưới nước và thu hoạch. Chẳng hạn, kinh nghiệm việc mình gieo một hạt giống, có thể là hột ớt, hột cà hay hột một bông hoa. Và Chúa Giêsu đã sử dụng dụ ngôn gieo trồng mà con người ta quen thuộc, dễ nắm bắt để giúp hình dung về Nước Thiên Chúa, về Vương quốc tâm linh phát triển trong mỗi con người.
Để trở thành công dân của một quốc gia, chúng ta cần sự chuẩn bị trong một khoảng thời gian nhất định tùy mỗi người cho những thủ tục cần thiết. Cũng vậy, để trở thành công dân Vương quốc tâm linh nước Trời, mỗi người chúng ta cũng cần chuẩn bị cho mình tâm thế sẵn sàng. Như Đức Thánh cha Bênêđictô thứ XVI nhắc nhở chúng ta rằng “tâm hồn con người là vị trí thiết yếu của Vương quốc Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã gieo hạt giống là tiếng lương tâm vào trong tâm hồn con người, bất kể lương dân hay giáo dân. Và Ngài muốn hiện diện, sống và phát triển bên trong mỗi chúng ta. Khi chúng ta tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khi sống theo điều luật Chúa truyền là làm làm lánh dữ, khi sống dưới con mắt của Đấng luôn xem thấy mọi sự, từ suy nghĩ, dự tính, lời nói, hành động của chúng ta, khi chúng ta thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh chị em như chính mình, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên mỗi ngày một vững chãi hơn.
Trong sứ mạng loan báo Nước Trời, Đức Giêsu cũng đã dùng đến những hình ảnh nông nghiệp gần gũi, để diễn tả về Nước trời như dụ ngôn về hạt cải được thuật lại hôm nay. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé, vậy mà khi nảy mầm đâm nhánh, nó lại trở thành một cây to lớn đến độ chim trời có thể đến nương náu dưới cành của nó. Hình ảnh này đã được tiên tri Ezekian tiên báo trong thị kiến của ông: Ngày ấy, từ ngọn cây hương bá cao chót vót, Đức Chúa sẽ ngắt một chồi non, chính ta sẽ trồng chúng trên đỉnh núi cao vời vợi… nó sẽ trổ cành kết trái thành một cây hương bá huy hoàng.
Cây hương bá của Israel là một loài cây gỗ quý giá, là niềm tự hào và hãnh diện của quốc gia, vì vậy những anh hùng dân tộc của họ cũng được sánh ví như cây hương bá, hoặc vẻ đẹp trong trắng và cao sang cũng được sánh ví như rừng hương bá núi Liban (như Đức Maria được sánh ví như vườn hương bá Liban).
Với hình ảnh chính Thiên Chúa sẽ trồng trên ngọn núi cao vườn cây của Ngài, nó sẽ trổ sinh hoa trái, muôn chim sẽ tìm đến ẩn nơi cành nó, vị tiên tri muốn nói đến một thời mà Thiên Chúa sẽ cắt đi sự kiêu hãnh của Israel, và chính tay Ngài sẽ trồng và tạo nên một dòng dõi mới, một thế hệ mới, giống như một rừng cây hương bá mới. Chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc vun trồng và làm cho nó nên xanh tươi, và muôn dân tộc trên khắp thế giới sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã trồng và đã làm nên như vậy, còn Israel cùng với sự kiêu căng tự mãn của họ sẽ bị Thiên Chúa làm cho khô héo.
Hình ảnh vườn cây của Thiên Chúa mà tiên tri Ezekien nói tới, đã được Đức Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Chính Đức Giêsu là Đấng sẽ gầy dựng nên một dòng giống mới, một khu vườn mới, vườn của Nước Trời. Trong vườn này, được trồng toàn những cây giống đã được tuyển chọn, và tưới gội bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và chính Thiên Chúa sẽ bảo vệ và làm cho vườn cây mới này được nên xanh tươi và sinh nhiều hoa quả tốt lành. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh nội tại, sức mạnh lan tỏa của nước Trời, những ai đón nhận lời rao giảng của Ngài, giới răn và giáo huấn của Ngài, bước đi theo Ngài, tức là đón nhận hạt giống nước trời, thì người ấy sẽ mang một sức mạnh từ bên trong tâm hồn và sẽ lớn mạnh trong đời sống đức tin, sẽ trổ sinh hoa trái thiêng liêng thánh thiện trong cuộc đời và còn trở nên có ích cho mọi người.
Nước Trời, quả thật là một hình ảnh thật mới mẻ và khó có thể diễn tả hết bằng lời và cũng không thể so sánh một cách đầy đủ bằng một hình ảnh, chính vì thế Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để mạc khải về nước Trời: Nước Trời giống như vườn nho mà Thiên Chúa là người chủ vườn, như chuồng chiên mà Thiên Chúa là mục tử, như mẻ lưới được quăng xuống biển và bắt được nhiều cá, hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt cải để trình bày về nước trời.
Nước trời bắt đầu bằng một sư nhỏ bé khiêm tốn như một hạt cải, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài như những hạt giống nhỏ bé đầu tiên, thế mà, với quyền năng của Thiên Chúa, hạt cải này đã trổ mầm và thành một cây to lớn hơn mọi thứ rau cỏ khác. Những hạt cải nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành cây to lớn là Giáo Hội, mà ngày nay cành lá của giáo hội đã lan tỏa khắp cùng trái đất, và Giáo hội đang trổ sinh hoa quả của Nước Trời cho con người và thế giới hôm nay. Hình anh một cây xum xuê hoa trái che phủ cả mặt đất, và chim trời đến nương náu dưới cành của nó, muốn nói đến cây Giáo Hội hôm nay cũng là nơi dành cho mọi người mọi dân có thể nương náu nơi sự chở che bảo vệ của Giáo hội.
Nhưng sâu xa hơn, hình ảnh hạt giống Nước Trời mà Chúa Giêsu nói hôm nay, còn muốn nói đến hạt giống tin Mừng ở trong mảnh đất tâm hồn của mỗi người. Nếu như người phật giáo cho rằng ở nơi mỗi con người đều có phật tính, thì chúng ta là những Kitô hữu, tức là những người có Chúa Kitô, những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta tin rằng trong mỗi chúng ta đều có Chúa Kitô và có mầm giống Nước Trời ở trong tâm hồn, hay nói khác hơn là mỗi người đều có Nước Trời trong tâm hồn ngay hôm nay và ngay lúc này. Hạt giống nước trời trong chúng ta đã được gieo trong ngày chúng ta lãnh Bí tích Rửa tội, và chúng ta được chăm bón và vun tưới bằng các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Giải tội, vấn đề là mầm giống ấy hôm nay đang ở tình trạng nào? Hạt giống đức tin, mầm sống Nước Trời ở trong chúng ta có thực sự tươi tốt hay là chỉ còn đang sống một cách èo uột không có hoa trái?
Nước trời trong tâm hồn chúng ta là gì, hiện nay chúng ta có sinh được hoa trái của Nước Trời hay không? Hay nói khác đi Nước Trời có ở trong chúng ta hay không?
Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài chính là nước Trời, có Đức Giêsu là có cả Nước trời, giữ Lời Đức Giêsu và đem ra thực hành là chúng ta đang làm cho hạt giống Nước Trời sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã có lần nói như thế với những người Do Thái: Nếu các ông tin và đón nhận Ngài, thì nước trời đang hiện diện trong lòng các ông rồi. Như vậy để chứng tỏ mình là công dân Nước Trời, là những người thuộc về chúa Giêsu, thì chúng ta phải có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc đời, trong hành động của mình. Thực tế trong cuộc sống của nhiều tín hữu, họ chỉ có Chúa khi đến nhà thờ, chỉ có Chúa trên môi miệng, mà không hề có Chúa trong cuộc sống và không có Chúa trong các hành động của mình, chính vì vậy mà hành động của họ toàn là sự gian ác bất công, là mờ ám gian dối, là tội lỗi xấu xa; chính vì không có Chúa trong cuộc sống, nên cuộc sống của nhiều người tín hữu không khác gì cuộc sống của dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả những người dân ngoại.
Chỉ khi có nước trời trong tâm hồn, chúng ta mới có thể sinh được hoa trái thánh thiện, hoa trái của nước trời, theo thánh Phaolô hoa trái ấy là: sự bình an, niềm vui, lòng quảng đại, nhân ái yêu thương, là khoan dung, nhân từ độ lượng…Như thế, nếu mỗi người tự xét mình mà không thấy những hoa trái nêu trên thì chứng tỏ người ấy chưa có nước trời trong tâm hồn, hoặc là hạt giống Nước trời chưa phát triển được trong tâm hồn người ấy.
Trong đời sống người Kitô hữu, ơn thánh từ các Bí tích chúng con được lãnh nhận nơi Chúa, tỏa lan êm dịu từ bên trong, làm thay đổi lòng người và tràn sang những người chúng con gặp gỡ, tiếp xúc. Những việc làm mưu cầu lợi ích cho anh em, những nghĩa cử nhân ái với mọi người, quảng đại hy sinh, sẵn sàng nhận thua thiệt mất mát sẽ làm thế giới này lan tỏa men nồng yêu thương. Mọi người sẽ được tận hưởng Nước Trời ngay giây phút hiện tại.
Ngày nay qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu chúng con như một hạt cải nhỏ mà chứa đựng sự sống của Con Thiên Chúa. Giữa cuộc đời nhỏ bé âm thầm này, nếu chúng con luôn sống mối tương quan đậm đà với Chúa, luôn ở lại trong Chúa, chúng con sẽ sống bằng chính sức sống của Chúa. Nhờ Sức Sống dịu êm nhưng mạnh mẽ từ bên trong này, nơi con người trần tục phàm hèn, chúng con sẽ lớn “bùng lên” thành cây cải xanh tươi trong lòng Hội Thánh, bởi vì “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa cho mọc lên”(1Cr 3, 6).
2021
Của ăn Trường Tồn
06 26 Tr CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN.
CHÚA NHẬT KÍNH MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ, lễ trọng.
Ngày hôm nay, Hội Thánh không chỉ cử hành Bí tích Thánh Thể mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa để loan truyền công khai rằng: Hy tế của Chúa Ki-tô là cho ơn cứu độ toàn thế giới.
(Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, năm 2004).
Lưu ý: Nếu rước Mình Thánh Chúa phải rước Mình Thánh vừa được truyền phép trong Thánh lễ trước đó.
Xứ Phủ Lý, Hàng Bột, Lại Yên và họ Thị chầu Mình Thánh.
Thánh Phê-rô Đinh Văn Dũng, Giáo dân (U1862); Thánh Phê-rô Đinh Văn Thuần, Giáo dân (U1862); và Thánh Vi-xen-tê Phạm Văn Dương, Giáo dân (U1862), Tử đạo.
Không cử hành lễ thánh Nô-bec-tô, Giám mục. Và không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
Xh 24,3-8; Hr 9,11-15; Mc 14,12-16.22-26.
CỦA ĂN TRƯỜNG TỒN
Chúa Giêsu đến trong trần gian này cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Chúa Giêsu để lại cho con người một kỷ vật tình yêu, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể để lưu lại cho loài người một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thật vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho chúng ta không giống như kỷ vật mà con người để lại cho nhau. Kỷ vật của Ngài không phải vàng bạc, cũng chẳng phải tiền của, nhưng kỷ vật mà Đức Giêsu lưu lại cho loài người hết sức đặc biệt, mà từ xưa đến nay tôi chưa thấy ai làm, đó chính là bản thân Ngài, chính Mình Ngài, là một kỷ vật tình yêu huyền nhiệm với hai đặc tính:
Thứ nhất, là kỷ vật được phát xuất từ tình yêu cao thượng
Kỷ vật mà con người trao cho nhau cũng được phát xuất từ tình yêu giữa hai người bạn, hai người thân, hai người yêu hay hai vợ chồng, nói chung tình yêu này được phát xuất giữa con người với con người. Còn kỷ vật mà Đức Giêsu để lại phát xuất từ tình yêu giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo. Vậy có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu khiêm hạ như thế, có ngôn từ nào để diễn tả cho hềt tình yêu đó. Hơn nữa, kỷ vật mà Thiên Chúa trao ban chính bằng xương bằng thịt Ngài, một kỷ vật sống chứ không phải như những kỷ vật chết mà con người trao cho nhau. Thật là một sáng kiến lạ lùng mà chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới nghĩ ra được điều đó, là lấy máu thịt Ngài để làm của ăn, của uống nuôi sống chúng ta
Thứ hai, kỷ vật từ trời và hằng sống
Trước khi trao kỷ vật cho con người thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa và được manh nha khá rõ khi dân Do Thái đi trong sa mạc, đã được Thiên Chúa cho thứ lương thực Manna “bánh từ trời”. Đó chính là hình ảnh tiên báo về thứ Bánh Hằng Sống Thiên Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Chúa, Bánh Ngài ban chính là Bánh từ trời, như chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết”.
Đúng vậy, bánh mà Chúa ban chính là Chúa Giêsu, Đấng “từ Chúa Cha mà ra” đã trở thành kỷ vật trường tồn giúp cho con người sống khoẻ, sống mạnh, sống đẹp ở đời này, vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cữu vì “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì Tôi sống trong người ấy và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”.
“Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”.
Lời giảng đó của Chúa Giêsu chỉ rõ về phép Thánh Thể. Thịt máu Chúa Giêsu là toàn diện con người Chúa gồm thiên tính và nhân tính. Xét về thiên tính, Người là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Người nói “Tôi là Bánh Hằng sống từ trời xuống”. Xét về nhân tính, Người có thịt máu, hồn xác, nên Người nói “Thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uống”. Khi rước Mình Máu Người là rước chính Chúa Giêsu trót thiên tính và nhân tính, là rước Ngôi Hai xuống thế làm người, là rước chính Đức Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, cho nên Mình Máu Người là của ăn, là bánh hằng sống, ban cho kẻ ăn được sống lại và được sống muôn đời.
Dân Do Thái không hiểu như thế. Họ chỉ hiểu theo góc độ ăn uống thịt máu vật chất loài người như ta ăn thịt heo, thịt cá và uống tiết canh. Họ hiểu như câu hát thề phanh thây uống máu quân thù, thì làm sao ai dám lấy thịt máu mình cho kẻ khác ăn. Họ chỉ thấy Đức Giêsu là con ông Giuse, anh thợ mộc, chứ không phải từ trời xuống. Họ mới được Chúa làm phép lạ cho bánh hóa nhiều nuôi bao nhiêu ngàn người ăn khỏi đói, thế mà họ cũng không tin Người là Thiên Chúa. Họ càng thấy chói tai ghê tởm và cãi nhau dữ dội khi Người nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta”, họ tưởng như những bè đảng “uống máu ăn thề” nên họ thấy chói tai quá, họ đã bỏ đi và một số môn đệ cũng bỏ Thầy. Đây là một thử thách lòng tin, một thách đố lý trí vô phương giải cứu, thử thách này kinh khủng hơn thử thách cha ông họ đã nếm mùi khổ nhục trong “sa mạc mênh mông khô cằn khủng khiếp, đầy rắn lửa, bọ cạp, núi non hiểm trở …” (Bài đọc 1: Dnl, 8, 2-3, 14b-16)
Trong sa mạc, chỉ có Môsê vững tin Thiên Chúa ông đã vượt mọi thử thách cam go để tuân hành lệnh Ngài truyền và Thiên Chúa đã khiến nước chảy ra từ tảng đá cho dân uống và ban manna cho dân ăn (Dnl. 8, 3. 16)
Trong hoang địa, nơi Chúa Giêsu đang giảng chỉ có Phêrô đứng ra tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga. 6, 68-69)
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao?(1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Khi yêu thương người ta muốn hoà chung sự sống trong nhau để không còn là hai nhưng là một. Phải chăng đó cũng là lý do nhiều người hôn nhau mà cứ như ăn nhau? Có những bà mẹ thương con, vừa hôn vừa nựng: “Mẹ muốn ăn con”.
Phải chăng yêu thương cũng chính là động lực khiến Thiên Chúa hủy mình, trở nên tấm bánh đơn sơ để được ăn và nên một với con người. Bài Phúc âm trong Chúa nhật Mình Thánh Chúa tuần này không dài nhưng động từ “ăn” lại được lập đi lập lại đến 9 lần.
Thiên Chúa không ăn con người nhưng lại để con người ăn Thiên Chúa. Song khi ta ăn Chúa thì không thuần tuý là ta rước Chúa vào lòng, nhưng đúng hơn, Ngài rước ta vào cung lòng yêu thương bao la của Ngài.
Trong Bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta được mời gọi nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu đón nhận, đồng thời nên một với tha nhân trong tinh thần chia sẻ trao ban, hầu tất cả cùng được sung túc trong tình Chúa và tình người.
2021
MỞ LÒNG ĐÓN THÁNH THẦN
MỞ LÒNG ĐÓN THÁNH THẦN
Lễ Hiện Xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Lễ Hiện Xuống, Thánh Thần được ban cho các môn đệ để hướng dẫn, để đồng hành với các môn đệ sau khi Chúa Giêsu lên Trời.
Trong Cựu Ước chúng ta chỉ ghi nhận được một vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải chờ đến Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa, đó là tình yêu.
Còn về Chúa Thánh Thần, trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa ngôi thứ ba, là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Qua Chúa Con, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Thánh Thần đến với chúng ta dưới hình thức ngọn lửa. Ngài là ngọn lửa thiêng đốt nóng tâm hồn những kẻ tin, giúp họ thắng vượt mọi khó khăn để trung thành với tình yêu Chúa, giúp họ hăng say bước theo Chúa Giêsu. Ngọn lửa tình yêu đó đã nung đốt tâm hồn các kitô hữu trong những cơn bách hại. Nhờ đó họ vui mừng liều mạng cho Chúa mà không sợ sệt, chân thành phục vụ mọi người. Ngọn lửa của Ngài mang lại ánh sáng cho mọi tâm hồn thiện chí, giúp chúng ta nhìn thấy được những thực tại vô hình, nhìn thấy Chúa trong cuộc sống, và trên hết, giúp chúng ta yêu mến Chúa sâu đậm hơn.
Thánh Thần Chúa, theo thánh Phaolô, dạy cho chúng ta biết Chúa Cha, dạy chúng ta gọi Chúa Cha như Chúa Giêsu đã gọi, với tất cả tỉnh yêu con thảo: Abba, lạy Cha. Ngài cầu nguyện trong chúng ta, cầu cho chúng ta. Chúng ta là đền thờ của Ngài. Ngài ngự trong chúng ta và ban cho chúng ta sự sống mới, sự bình an của Ngài. Chúa Giêsu, sau khi sống lại, đã hiện ra cho các tông đồ và ban bình an cho các ngài và thổi hơi Thánh Thần vào họ, sai họ đi rao giảng Tin Mừng, mang ơn tha thứ cho mọi người: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
Thánh Thần Chúa cũng là Thánh Thần của sự hiệp nhất. Ngài quy tụ mọi người trong một Giáo Hội duy nhất, không phân biệt chủng tộc màu da, tất cả đều là một trong Ngài. Ngài biến Giáo Hội thành một thân thể duy nhất, tuy có rất nhiều chi thể khác nhau, nhưng tất cả chỉ là một. Ngài là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài giúp mọi người hiệp nhất: “ Chỉ có một Thân Thể và một Thánh Thần…một Thiên Chúa”.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc sống con người dưới nhiều danh hiệu khác nhau: Đấng soi sáng, Đấng uỷ lạo, Đấng an ủi. Ngài là cha mọi kẻ cơ bần. Tuy nhiên, có một điều quan trọng đó là không phải với ngày lễ hiện xuống, cũng như không phải với ngày lễ Thêm sức, hay chỉ lúc hình lưỡi lửa đậu trên các tông đồ, thì lúc đó mới có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mọi người, và mọi người mới nhận lấy Chúa Thánh Thần, nhưng ngay từ lúc khởi nguyên vũ trụ Ngài đã hiện diện. Con người được hà hơi để lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa. Nói chung trong suốt dọc lịch sử cứu độ, Thần khí Thiên Chúa vẫn luôn có mặt, cùng đi trên mọi nẻo đường và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống của dân Do Thái và đặc biệt là của Đức Kitô.
Thực vậy, vào ngày truyền tin, ngày manh nha cho việc khai sinh triều đại giao ước mới, Chúa Thánh Thần đã có mặt để rồi tất cả mọi giai đoạn của cuộc đời Chúa Giêsu kể từ lúc khởi đầu sự nghệp rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha, cho đến khi sinh thì trên thập giá, hoàn trả hơi thở cuối cùng về lại trong Chúa Cha, suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu tại trần gian, không có giây phút nào mà lại không có sự can thiệp tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng cùng đi với Chúa Giêsu trong việc thực hiện sự hòa giải và ban ơn giáng phúc xuống cho nhân loại.
Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu Phép rửa tội. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận một cách sung mãn với bảy ơn cả Chúa Thánh Thần trong ngày chịu Phép Thêm Sức. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ giúp chúng ta như xưa Ngài đã giúp các Tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm để Ngài cũng biến đổi chúng ta trở thành những người của Tin mừng giống như khi xưa Ngài đã biến đổi các Tông đồ.