2021
ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU
28CHÚA NHẬT LỄ LÁ
– Ca vịnh tuần II.
– Khởi đầu Tuần Thánh – Tuần Thương Khó.
– Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Kinh Tiền Tụng Lễ Lá.
– Rước lá: Mc 11,1-10 (hoặc Ga 12,12-16).
– Các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 14,1-15,47 (hoặc Mc 15,1-39).
Hướng dẫn
Hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm việc Chúa Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Vì thế, trước mọi Thánh lễ, đều kính nhớ việc Chúa vào thành bằng cuộc rước kiệu (hình thức I), hoặc bằng nghi thức nhập lễ trọng thể (hình thức II), hay bằng nghi thức nhập lễ đơn giản (hình thức III). Nghi thức nhập lễ trọng thể có thể lập lại trước một hoặc hai Thánh lễ khác có đông giáo dân tham dự. Cuộc rước kiệu chỉ làm một lần.
Lá đã làm phép được lưu giữ tại các gia đình, nhằm nhắc nhớ Chúa Ki-tô vinh thắng.
Khi kiệu lá, chủ tế mặc áo lễ (hay áo choàng) màu đỏ.
Sau cuộc rước kiệu (hay sau nghi thức nhập lễ trọng thể) bỏ làm Dấu Thánh giá và hành động sám hối (hay rảy nước thánh) đầu lễ, và đọc ngay Lời Nguyện Nhập Lễ. Sau đó, Thánh lễ tiếp tục như thường lệ.
Vì lợi ích thiêng liêng của giáo dân, nên đọc hết Bài Thương Khó cùng với hai bài sách thánh.
Khi đọc Bài Thương Khó, không mang đèn nến, không xông hương, không chào và cũng không ghi Dấu Thánh Giá trên sách.
Phó tế đọc Bài Thương Khó, hoặc nếu không có Phó tế thì Linh mục đọc.
Giáo dân cũng có thể đọc Bài Thương Khó, nhưng nếu được, nên dành những lời của Chúa Ki-tô cho Linh mục (hay Phó tế).
Nếu là Phó tế, trước khi đọc Bài Thương Khó, phải đến xin chủ tế ban phép lành như trong lễ nào khác.
Hết Bài Thương Khó, xướng “Đó là Lời Chúa” như thường lệ, nhưng không hôn sách. Sau đó, có thể giảng vắn tắt.
Nơi nào không cử hành Thánh lễ, có thể cử hành Phụng Vụ Lời Chúa để tưởng niệm việc Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem và tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa, vào chiều thứ Bảy hoặc ngày Chúa Nhật, với giờ thích hợp.
ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU
Hôm nay, chúng ta nghe tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Cảnh tượng Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Với thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người…
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác… Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
2021
NHƯ HẠT LÚA MÌ
21CHÚA NHẬT V MÙA CHAY
– Ca vịnh tuần I.
– Chúa Nhật hôm nay cử hành nghi thức Khảo Hạch Các Dự Tòng lần thứ ba cho những người lớn sắp lãnh nhận Bí Tích Khai Tâm Ki-tô Giáo vào đêm Vọng Phục Sinh sắp tới (Nghi Thức Khai Tâm, số 174-180).
– Trong Thánh lễ có khảo hạch dự tòng phải dùng bài đọc năm A và Kinh Tiền Tụng về La-da-rô sống lại.
– Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33.
NHƯ HẠT LÚA MÌ
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
2021
THÁNH GIÁ CỨU ĐỘ
14CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY
– Ca vịnh tuần IV.
– Chúa Nhật hôm nay cử hành Nghi Thức Khảo Hạch Các Dự Tòng lần thứ hai cho những người lớn sẽ lãnh nhận Bí Tích Khai Tâm vào đêm Vọng Phục Sinh sắp tới (Nghi Thức Khai Tâm, số 167-173).
– Thánh lễ có khảo hạch dự tòng phải dùng bài đọc năm A và Kinh Tiền Tụng về người mù từ khi mới sinh.
– Trong các Thánh lễ Chúa nhật này, xin các cha kêu gọi giáo dân quyên góp giúp người nghèo và các giáo họ nghèo vào Chúa nhật sau.
– Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: 2 Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21.
THÁNH GIÁ CỨU ĐỘ
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi.
Ta thấy Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông : “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê “làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người” (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Ngày xưa trong sa mạc dân Do Thái chẳng tìm ra được ai có thể cứu chữa họ. Họ cũng chẳng có được vị thuốc nào giúp họ khỏi chết. Họ cảm thấy mình bất lực. Họ đã phải chạy đến với ông Môisê để xin Ông cầu cứu với Thiên Chúa bởi vì họ hiểu rằng chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu họ. Chúa bảo họ phải nhìn lên con rắn. Họ đã nghe lời Chúa và họ đã được cứu.
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Ngày xưa là như vậy và bây giờ cũng thế. Càng ý thức được thân phận mình tội lỗi yếu hèn của mình, ta lại càng cảm nghiệm thấy ơn cứu độ của Chúa thật là kỳ diệu.
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: “Tất cả tội lỗi của chúng ta, Chúa Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. ” (2Pr 2,24a ). Chúa Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống “Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
Khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta sẽ thấy được tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói rất rõ về vấn đề này: “Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3) Ngài còn quả quyết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngườ” (2 Cr,5,21.) Thánh Phêrô nói rõ thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thánh Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1Pr 2,24).
Khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta còn thấy được tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa. “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa” (1Pr 3,18). Đáng lý ra khi phạm tội chúng ta đã phải chết. Nhưng vì yêu thương Chúa đã không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách để cứu ta.
2021
THANH TẨY TÂM HỒN
07CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
– Ca vịnh tuần III.
– Chúa Nhật hôm nay cử hành Nghi Thức Khảo Hạch Các Dự Tòng lần thứ nhất cho những người lớn sẽ lãnh nhận Bí Tích Khai Tâm vào đêm Vọng Phục Sinh sắp tới (Nghi Thức Khai Tâm, số 152-166).
– Không cử hành lễ Thánh nữ Pe-pê-tu-a và Thánh nữ Phê-li-xi-ta, Tử đạo. Và không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Xh 20,1-17 (hoặc Xh 20,1-3.7-8.12-17); 1 Cr 1,22-25; Ga 2,13-25.
THANH TẨY TÂM HỒN
Đời sống tôn giáo của người Do Thái gắn chặt với đền thờ.
Đền thờ là trung tâm của Đạo.
Đền thờ là nơi có Hòm Bia Thánh – nơi con người đến để gặp gỡ Thiên Chúa.
Trong cựu ước, dân Do Thái dùng lễ vật chiên bò hay bồ câu để hiến dâng cho Thiên Chúa, biểu tỏ hành vi thờ phượng. Vì thế mới có chuyện buôn bán trong đền thờ như được thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Trong tân ước, Đền thờ mới chính là Đức Giêsu. Ngài vừa là tế nhân vừa là tế vật. Ngài dâng lên Chúa Cha của lễ là chính thân thể được sát tế của Ngài, đồng thời Ngài cũng là vị Thượng tế đời đời một cách đúng nghĩa nhất.
Và rồi chúng ta nhớ lại điều tương tự khi Chúa nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp : “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Chân lý (Ga 4, 21- 24).
Chúa Giêsu muốn vén mở cho đám đông về chân dung cứu thế của Ngài, và dung mạo Messia nơi Ngài sẽ được hiển thị cách tròn đầy ngang qua Thập giá. Vì thế, Giáo hội chọn bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay để trình bày về linh đạo của thánh Phaolô, đồng thời đó cũng phải là sự chọn lựa duy nhất mà mỗi người chúng ta cần thể hiện. Thánh tông đồ viết : “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 22 – 23).
Sau đó thánh Phaolô giải thích cho giáo đoàn biết rằng, đây là một nghịch lý vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã thể hiện ngang qua cái chết của Chúa Giêsu. Quả thật, đây là một nghịch lý đối với não trạng con người, bởi vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người. Cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. Nghịch lý còn được các thánh ký nói tới rất nhiều lần. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp kém trong kiếp người hèn hạ, một Thiên Chúa vô cùng thánh thiện lại bị kết án và chết cách nhục nhã như một tên tội phạm. Nghịch lý này cũng được lập lại một lần nữa trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa vén mở về sự phục sinh vinh thắng của Ngài. “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây lại”.
Lễ Vượt Qua nhằm vào ngày thứ mười lăm tháng Nisan, tức khoảng tháng tư dương lịch, và theo luật pháp Do Thái, mọi người nam Do Thái sống cách Jerusalem trong vòng hai mươi lăm cây số, bắt buộc phải về dự lễ. Không phải chỉ có người Do Thái ở trong xứ Palestine về dự lễ Vượt Qua mà thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dầu sống ở xứ sở nào, họ vẫn mơ ước và hi vọng được dự lễ Vượt Qua tại Jerusalem ít nhất một lần.
Riêng đối với Chúa Giêsu lần này, thì Chúa có mặt tại đây không phải chỉ với danh nghĩa một người Do Thái mà đây còn là dịp để Chúa chu toàn chức vụ của Ngài. Bởi vậy mà Ngài đã vào đền thờ như một Đấng có uy quyền.
Cuộc sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng là một con đường, và con đường đó phải hướng về đền thờ đích thực là chính Chúa Giêsu. Ngài là ‘Đền thờ mới’ của Tân ước, là trung tâm của mọi sinh hoạt phượng tự và cũng là đối tượng của niềm tin mà chúng ta phải quy chiếu vào. Đây là sứ điệp nồng cốt mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn bày.
Giáo Hội cũng muốn chúng ta làm một cuộc “thanh tẩy”, không phải đền thờ vật chất nhưng là đền thờ tâm hồn của mỗi người như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16)
Thiên Chúa không cần nhà vì: “Trời là ngai của Người, đất là bệ dưới chân Người” (Is 66, 1) .Đền thờ vẫn cần thiết nhưng con người vẫn trọng hơn đền thờ, phải làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải là lo sao cho có đền thờ. Vì đền thờ trần gian với năm tháng sẽ bị hư hại, xụp đổ nhưng con người luôn tồn tại và vững bền.
Mùa Chay thánh trong năm thánh hóa gia đình, người Kitô hữu phải hoán cải, làm cho gia đình mình mới, sống đạo, thực thi đạo hơn là giữ đạo cách máy móc, bề ngoài. Người Kitô hữu cũng phải xét lại cách giữ đạo, hành đạo của gia đình mình, của cá nhân, của giáo xứ, Giáo Hội và mau mắn đổi mới đời sống, lòng tin, cách thực hành đạo, siêng năng cầu nguyện và lần chuỗi làm cho đền thờ tâm hồn mỗi người đẹp hơn, tốt hơn.
Vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng trộm cắp, ăn gian nói dối, ăn hối lộ… Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Vậy hôm nay, Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa cũng muốn thanh tẩy ngôi đền thờ tâm hồn mỗi người chúng ta.