2022
Chúa chọn và gọi
Chúa Nhật V Thường niên
Lc 5,1-11
Chúa chọn và gọi
Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai.
Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
“Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.
Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
2022
TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC
30.1.2022 Chúa Nhật thứ Tư Mùa Quanh Năm
Gr 1:4-5,17-19; Tv 71:1-2,3-4,5-6,15-17; 1 Cr 12:3113; 1 Cr 13:4-13; Lc 4:21-30
TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC
Hôm nay: các ngôn sứ chỉ là một phác thảo cho Lời Chúa và Thánh thần trợ giúp họ dùng lời nói của mình mà trình bày trước Lời đích thực của Thiên Chúa là Chúa Giê su. Do đó, chính Chúa Giê su là đấng đã nói bằng các lời sấm của hộ; và hôm nay, các người trung gian không còn cần thiết nữa.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.” (1 Cr 13,4-6)
Đàng khác, Chúa Giê su không nói: “Ta hoàn tất Lời Kinh Thánh:, nhưng nói: “Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm”. Thể thụ động ở đây là một cách chỉ hành động của Thiên Chúa: chính Người làm cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Như thế chúng ta được dẫn vào mầu nhiệm của Chúa Giê su: Ngài là Lời Thiên Chúa (“Này là con Ta yêu dấu; hãy vâng nghe Lời Người”).
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: “không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Người ta dễ “gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì “tối lửa tắt đèn có nhau”. Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu “tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình.
Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê su dấn thân vào sứ vụ loan báo tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Ngài đã đi vào một môi trường hòan toàn bất lợi và xung khắc với Ngài, nhưng Ngài đã không lùi bước, trái lại, Ngài đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Ngài, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối.
Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người ki tô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Ki tô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Ngài. Lời Ngài là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận lời tin mừng, chúng ta có thể giữ được niềm hi vọng trong chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta luôn trung tín trong đức tin và can đảm đối mặt với mọi thử thách của cuộc sống.
Cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để “tốt lửa tắt đèn có nhau”. Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc.
2022
MỜI CHÚA VÀO NHÀ
16.1.2022 Chúa Nhật thứ Hai Mùa Quanh Năm
Is 62:1-5; Tv 96:1-2,2-3,7-8,9-10; 1 Cr 12:4-11; Ga 2:1-11
MỜI CHÚA VÀO NHÀ
Đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ bà con họ hàng.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ.
Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Chúa Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.
Kể từ ngày đẹp trời ấy tại Cana, mỗi tiệc cưới sẽ nhắc nhở chúng ta về tình yêu phong nhiêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và mỗi đôi hôn phối sẽ làm cho chúng ta nghĩ đến sự trung thành của Thiên Chúa. Trên hết, chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành là một Giao Ước mới, là sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa và những người khác trong Giáo Hội.
Bấy giờ người ta chưa biết gì về uy quyền của Chúa, họ chỉ nhận ra Ngài là một người thợ mộc chân thành, không tiếng tăm. Nhưng mấu chốt là nơi Mẹ Ngài. Các bà mẹ thường nhìn thấy những điều cần thiết. Huống chi là Đức Mairia. Mẹ ân cần thưa lên với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi. Bên ngoài, câu nói này có vẻ như xa vời, nhưng bên trong là cả một lời van xin thầm kín, không nài ép nhưng đầy lòng tin tưởng. Trông thâm tâm, Mẹ nghĩ rằng có lẽ con mình sẽ giúp được gì cho họ, chứ chưa hẳn đã là một phép lạ. Cũng vì tin tưởng, Mẹ đã rỉ tai các gia nhân: Hễ Ngài dạy sao thì cứ làm như vậy.
Sau những lời thưa trình của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời một cách hững hờ: Tôi với bà có liên can gì. Câu trả lời hàm ý một sự chối từ. nhưng ở đây, một lần nữa, qua lòng tin nổi bật của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã ra tay cứu giúp đôi tân hôn bằng một phép lạ lẫy lừng.
Sau này, Chúa cũng làm như vậy trong trường hợp người đàn bà xứ Canaan, ở đó Chúa tuyên bố Ngài không đến cho dân ngoại, nhưng cũng vì đức tin của bà mà Chúa đã ban phép lạ. Phải chăng Chúa Cha muốn Đức Kitô làm pháp lạ, theo lời Mẹ Maria cầu xin. Vì thế Công đồng Vat. II đã nói: Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Ngài chỉ xuất hiện vào lúc đầu trong tiệc cưới Cana. Mẹ đã động lòng trắc ẩn và nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ. Chúa Giêsu đã khai mạc bằng phép lạ của Ngài.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Tin Mừng, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong cả cuộc đời.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết các vấn đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: “Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rể, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối…”.
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời kinh nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay”. Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: “Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta”. Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: “Tại sao lại thế”?. Em bé trả lời: “Vâng, thưa mẹ, là người khác, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta”.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiêp nhất với nhau.
Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai
2022
SỐNG BÍ TÍCH THANH TẨY
9.1.2022
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Is 55:1-11; Is 12:2-3,4,5-6; 1 Ga 5:1-9; Mc 1:7-11
SỐNG BÍ TÍCH THANH TẨY
Lễ nghi của phép rửa tội là một lễ nghi tuyệt đẹp. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được chính thức nhận một tên, và được đón tiếp vào gia đình của dân Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện thật đáng yêu được đọc lên cho chúng ta. Thân thể chúng ta được ghi dấu thánh giá, dấu hiệu tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Nước được đổ xuống trên chúng ta. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa, chúng ta được tẩy rửa khỏi tội lỗi. Nhưng đặc biệt hơn, nước còn là biểu tượng của sự sống. Trong phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống không thể chết được của Thiên Chúa.
Gioan xuất hiện, dân chúng kéo đến nghe ông giảng và chịu phép rửa. Trong cả xứ nổi lên một cuộc phục hưng chưa từng có, một phong trào quay về với Thiên Chúa. Khi thấy điều đó, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm. Không phải Ngài cảm biết tội lỗi và ăn năn, Ngài biết rằng hiện giờ Ngài phải đồng hoá mình với phong trào quay về với Thiên Chúa này. Đổi với Chúa Giêsu, sự xuất hiện của Gioan là một tiếng kêu gọi của Thiên Chúa và hành động, và hành động thứ nhất của Ngài là đồng hoá mình với dân chúng trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng trong lễ rửa của Chúa Giêsu có một sự kiện xảy ra.
Trước khi Ngài có thể quyết định về bước quan trọng này, Ngài phải biết chắc mình làm việc phải lẽ; và trong lúc Ngài chịu phép rửa, Thiên Chúa đã phán với Ngài. Xin đừng lầm sự việc xảy ra tại lễ rửa là một kinh nghiệm riêng tư cho Chúa Giêsu. Tiếng nói của Thiên Chúa đã đến với Ngài và tiếng đó xác định rằng Ngài đã có một quyết định đúng. Nhưng hơn thế nữa, chính tiếng đó chỉ cho Ngài thấy tất cả con đường của Ngài. Thiên Chúa đã phán với Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta.” Câu này gồm hai phần “Con là Con yêu quý của Cha” là câu trích từ Thánh vịnh 2,17 được coi là lời diễn tả về Đấng Cứu Thế hứa ban. Còn câu “Ta hài lòng về con” là một phần của Isaia 42,1, diễn tả người Đầy tớ Đau khổ của Chúa Gia-vê có hình ảnh trọn vẹn trong Isaia 53.
Cho nên trong lễ rửa của Chúa Giêsu có rất nhiều ý nghĩa: có ý nghĩa về Nước Trời đã đến vì lúc đó là lúc Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Nước Trời. Cũng có nghĩa là lúc Đức Giêsu được xức dầu tấn phong bằng Thánh Thần để thi hành một sứ mạng trọng đại. Cũng có nghĩa là Ngài đồng hoá với loài người tội lỗi, dầu “vốn không biết tội lỗi nhưng trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta” và hạ mình nhận lấy phép rửa của Gioan.
Tiếng từ trời “Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con “là tiếng nói của ân phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Như thánh Luca kể lại cho chúng ta. Ngài kéo dài nghi thức bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này mang lại hiệu quả là trời mở ra. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trời mở ra như sau này trời cũng mở ra mỗi khi bí tích Thánh Tẩy được cử hành, vì bí tích Thánh Tẩy không những chứng tỏ việc được tẩy sạch tội lỗi mà còn cho thấy ơn phúc dư đầy trời tuôn đổ xuống cho. Hơn thế nữa, qua việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đến với Chúa Giêsu. Chính Thánh Linh này cũng hướng dẫn Chúa Giêsu trong tất cả các hoạt động của Ngài, trong tất cả các công việc giáo huấn và chữa lành bệnh tật… tượng trưng cho ơn cứu độ từ nay được ban cho nhân loại hầu giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Việc đến của Chúa Thánh Thần tiên báo ơn Chúa Thánh Thần sẽ được ban xuống cho mỗi thụ nhân để nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc lại cho con người nhớ rằng, con người khao khát cần đến Thiên Chúa, khao khát được cứu rỗi và Thiên Chúa đáp lại khao khát này trong Chúa Giêsu Kitô Con Ngài, nơi một con người không phải là con người tầm thường đã đến nhận phép rửa của Gioan nơi sông Giócđan, mà nơi một con người vừa là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Yếu tố thứ hai của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng mang một ý nghĩa sâu xa. Khởi đầu sách Sáng Thế khi bắt đầu công cuộc tạo dựng, Thánh Thần Chúa đã bay lượn là là trên mặt nước, và trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu. Dĩ nhiên, bay lượn xuống trên Chúa Giêsu, chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà Chúa Giêsu thực hiện và phép rửa là điểm khởi đầu của công cuộc tái tạo nên mới trong Chúa Thánh Thần.
Phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.