2021
XIN CHÚA CHỮA CHỨNG MÙA CỦA TA
24 19 X CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần II.
Thánh Giu-se Lê Đăng Thị, Cai đội (U1860), Tử đạo.
Không cử hành lễ thánh Thánh An-tôn Ma-ri-a Cơ-la-ret (Claret), Giám mục. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Gr 31,7-9; Hr 5,1-6; Mc 10,46-52.
Lý của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của HĐGM Việt Nam, 2011).
XIN CHÚA CHỮA CHỨNG MÙA CỦA TA
Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.
Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Tin Mừng ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.
Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.
Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình.
Theo như Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8, 31;9, 31; 10, 34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8, 35), phải chọn địa vị rốt hèn (9, 35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9, 47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10, 38-44)…
Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Chúa Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”
Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Chúa nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối.
Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
2021
THỰC HIỆN LỆNH TRUYỀN
17 12 X CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần I.
Chúa Nhật Truyền Giáo.
Hôm nay là ngày truyền giáo trong cả Hội Thánh; các giáo hữu hãy tận tâm hợp ý cầu nguyện và dâng việc lành phúc đức, góp phần mở Nước Chúa cứu rỗi linh hồn anh chị em.
Chúa Nhật III trong tháng. Ngày truyền giáo của giáo phận.
Thánh Phan-xi-cô I-si-đô-rô Ga-de-lin Kính (Francois Isidore Gagelin), Linh mục (U1833), Tử đạo.
Có thể cử hành Thánh lễ Cầu Cho Việc Rao Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc (Trong Sách Lễ Rôma).
Không cử hành lễ Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a, Giám mục, Tử đạo. Và không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Is 53,10-11; Hr 4,14-16; Mc 10,35-45 (hoặc Mc 10,42-45).
THỰC HIỆN LỆNH TRUYỀN
Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Ta thấy ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.
Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, người ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. “Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân”. Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Mỗi người Ki tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Chúa Giêsu: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Chúa Giêsu cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
2021
Được gấp trăm
10 05 X CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Kn 7,7-11; Hr 4,12-13; Mc 10,17-30 (hoặc Mc 10,17-27).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán :”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6,24).
Hãy bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta.
Đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã đưa ra cho chàng thanh niên giàu có, sau khi biết chàng đã tuân giữ những giới luật từ thuở còn nhỏ. Đó là điều anh ta phải làm để được sống đời đời. Và đó cũng là điều anh ta còn thiếu. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một đòi hỏi đặc biệt dành riêng cho cá nhân anh ta. Đòi hỏi ấy đụng tới con người anh ta thật sâu, bởi vì nó đụng tới sự an toàn, chỗ dựa và lòng gắn bó của anh ta đối với của cải.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu không đòi hỏi mọi người phải bán tất cả của cải để rồi tay trắng mà bước theo Ngài. Ladarô, bạn thân của Ngài vẫn sống cuộc đời bình thường bên hai bà chị là Martha và Maria. Giakêu đã tự nguyện cho người nghèo phân nửa tài sản, chứ không do đòi hỏi của Chúa Giêsu.
Vậy hẳn Ngài phải có lý do khi đưa ra một đòi hỏi quyết liệt như thế đối với chàng thanh niên. Ngài thấy anh có nhiều mặt tốt, nhưng Ngài cũng thấy anh bị trói buộc, bị cản trở, bị mất tự do bởi một điều, đó là sản nghiệp của anh. Ngài thấy rõ kho tàng dưới đất thực sự là một mối nguy hiểm cho anh, khiến anh có thể vuột mất kho tàng trên trời. Tình trạng hiện nay của anh chưa có gì đáng ngại, nhưng đam mê cứ lớn thêm mãi với thời gian.
Trước lời đề nghị của Chúa Giêsu, anh đã buồn sầu cúi mặt và bỏ đi. Phải chăng sự buồn sầu của anh bắt nguồn từ việc anh thấy mình không đủ quảng đại và liều lĩnh để đáp lại một lời mời gọi tốt đẹp như vậy. Một mặt anh bị hấp dẫn bởi lời đề nghị của Chúa Giêsu mà anh biết đó là con đường tốt nhất để đạt đến ước mơ của anh. Mặt khác anh lại quá gắn bó với của cải trần gian đến nỗi không thể rời bỏ chúng dễ dàng.
Có lẽ lòng yêu mến sự sống đời đời nơi anh chưa đủ mạnh để anh dám hy sinh điều cần phải hy sinh. Anh đã chọn điều anh yêu hơn, nhưng chọn lựa đó đưa anh vào nỗi ray rứt buồn phiền. Không phải anh sở hữu của cải, nhưng của cải đã sở hữu anh. Anh không có được niềm vui của Giakêu, niềm vui của người bắt đầu được siêu thoát với tiền của. Anh cũng chẳng có được niềm vui của người thương gia đi tìm ngọc quý. Bởi vì Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả.
Ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng“vốn dĩ là Thiên Chúamà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
Chúa Giêsu mời gọi người đàn ông giàu có trong Phúc Âm làm một chọn lựa. Chúa Giêsu đã yêu cầu anh ta bán tất cả những gì mình có mà bố thí cho người nghèo khó và đi theo Người. Người giàu có đã làm một quyết định sai. Ông ta đã quá dính bén đến của cải khiến ông ta không thể từ bỏ. Của cải của ông ta thì giống như một dãy núi, tách riêng ông ta với Chúa Giêsu. Ông ta thấy chướng ngại đó quá lớn và không thể vượt qua. Chúng ta cũng không biết điều gì xảy ra cho ông ta. Có thể dần dần ông ta tìm thấy một con đường đi vòng để theo Chúa Giêsu nhưng để trở thành môn đệ, ông đã bỏ lỡ cơ hội đầu tiên.
Một số người nam và người nữ qua lịch sử của Giáo Hội đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu theo cách trên đây. Họ đã thật sự từ bỏ tất cả mọi của cải, vật chất để bước theo một đời sống ẩn tu hay tu sĩ hoặc là những nữ tu. Hầu hết mọi người chúng ta thì không nồng nhiệt cho lắm theo gương của họ, sự thật là Giáo Hội và xã hội sẽ không hiện hữu nếu tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Không phải mọi người trong Giáo Hội đều có cùng một ơn gọi hoặc cùng một lời kêu gọi như nhau, và chúng ta không thể đơn giản giảm nhẹ lời mời gọi của Chúa Giêsu như là không liên quan hoặc là một điều không thể
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình… Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu.
Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (Mc 4, 1-20)
2021
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
26 20 X CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN.
Ca vịnh tuần II.
Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48.
TRÁNH THÓI BÈ PHÁI VÀ TẬP ỨNG XỬ BAO DUNG
Tin Mừng hôm nay cho thấy óc phe nhóm và tinh thần bè phái cục bộ ngay trong hàng ngũ các môn đệ Chúa Giêsu: Khi thấy có người khác không theo Chúa Giêsu nhưng đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ, ông Gioan đã ra sức ngăn cản họ và báo cho Chúa Giêsu hay biết sự việc để có hướng xử lý (Mc 9, 38). Ông không thể chấp nhận có người không thuộc Nhóm Mười Hai, lại dám cậy nhờ danh Thầy của ông để trừ quỷ, mặc dù họ cũng đã trục xuất được quỷ ra khỏi người bị nó ám. Ông muốn giữ độc quyền nhân danh Thầy để trừ quỷ cho Nhóm của ông.
Vào thời ông Môsê cũng vậy. Giôsuê cũng muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi Kỳ Mục, nên đã yêu cầu Môsê hãy ngăn cấm hai ông Enđát và Mêđát, không thuộc Nhóm Bảy Mươi, mà cũng được Thần Khí tác động để nói tiên tri. Môsê đã trả lời cho môn đệ như sau: “Anh ghen giùm tôi hay sao ? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11,29).
Trong quá khứ, Hội Thánh cũng đã lần do muốn bảo vệ sự độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa của mình, nên đã có những hành động cục bộ khép kín, có những quyết nghị nặng tính trừng phạt răn đe đối với những ý kiến bất đồng…, làm mất đi sự trong sáng của khuôn mặt bao dung nhân hậu của Đức Giêsu trước mặt anh em dân ngoại. Nhưng từ Công Đồng Vatican II, Hội Thánh đã mở ra một trang sử mới, khi trong những văn kiện không còn những lời kết án, miệt thị những tư tưởng khác biệt. Thay vào đó Hội Thánh khiêm tốn chân thành nhìn nhận giới hạn của mình, và công nhận có những điều chân thiện mỹ nơi các tôn giáo và các nền văn hoá khác.
Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa, Ngài đã khẳng định, Ngài đến thế gian này là để tìm kiếm và cứu chữa những người tội lỗi, để tìm con chiên lạc, vì thế có thể nói ngược lại nếu thế gian này không có người tội lỗi không có chiên lạc, thì Đức Kitô đã không cần phải đến thế gian. Trong kinh tin kinh lát nữa chúng ta tuyên xưng cũng khẳng định như vậy: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm và kêu gọi những con chiên lạc, những tâm hồn thiện chí khi đón nhận Tin Mừng của Ngài và quyết tâm hoán cải thì đều được đón nhận vào Nước trời, còn trái lại những người kiêu căng tự mãn sẽ đánh mất cơ hội của mình.
Câu chuyện trong trang Tin Mừng hôm nay được nói cho các Thượng Tế và Kinh sư trong dân Do Thái là những người thế giá đứng đầu trong dân, những người tự cho mình là những người công chính, luôn tuân hành mọi lề luật, nhưng thực ra họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn, khi được cha mời đi làm vườn nho, thì anh ta ngon ngọt thưa vâng con sẽ đi, trên mội miệng mà thực tế anh không hành động, không đi làm, không vào vườn nho. Còn trái lại, những người thu thuế và tội lỗi, xem ra bên ngoài họ là những người từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa: Con không đi, thế nhưng sau đó họ hối hận và đã đi làm.
Dụ ngôn hôm nay còn cho thấy một Thiên Chúa hết sức nhân từ bao dung, Ngài chính là Người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe. Ông không hề nổi giận trước câu trả lời như tạt nước của đứa con thứ nhất: Con không đi, ông cũng không trách nó nửa lời, ông như người cha cắn răng chịu đựng sự ngỗ nghịch của những đứa con, ông lại lặng lẽ đến với đứa con thư hai, vẫn một thái độ ân cần như năn nỉ: Con hãy đi làm vườn nho cho cha! người cha này đã chờ đợi cả hai đứa con vào làm vườn nho, thế nhưng đứa con đã từ chối ông làm ông khổ tâm, lại là đứa mang đến cho ông niềm an ủi vì sự hối hận của nó, còn đứa ngon ngọt kia lại là kẻ gây đau khổ cho ông khi nó nói có mà không làm, khi nó hứa mà không giữ lời.
Như vậy, điều làm hài lòng Thiên Chúa không phải là những lời lẽ trên môi hay những câu kinh vô hồn mà là một tấm lòng và thái độ đáp lại cụ thể lời mời gọi của Chúa. Và Thiên Chúa Ngài không kể gì đến quá khứ của con người khi con người đã hối hận và thật lòng quay trở về với Ngài.
Chúng ta phải sống với Chúa như thế nào cho trọn đạo làm con? Thánh Phaolô trong thư Philip đã giới thiệu cho chúng ta tấm gương của một người con đó là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vậy mà Ngài đã chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang sống hoàn toàn vâng phục Cha trong mọi sự, chấp nhận mang thân phân con người, hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết; Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người đặt Ngài làm Chúa tể trên trời dưới đất.
Đó chính là tấm gương của một người con thảo hiếu với Thiên Chúa, mà chúng ta cần noi theo. Để noi theo tấm gương này, Thánh Phaolô cũng chỉ cho chúng ta là, mỗi người hãy có những tâm tình như Chúa Giêsu đó là tâm tình vâng phục trong yêu mến dành cho Thiên Chúa, và gắn bó thông hiệp với Chúa Giêsu trong Thần Khí, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết sống cho phải đạo làm con.
Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những thái độ lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài.
Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác, đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).
Chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô hôm nay cần học tập Thầy Giêsu để sẵn sàng giơ tay ra với mọi người thiện chí và mời gọi mọi người cùng hợp tác trong các việc tốt. Đồng thời tránh sự loại trừ, bất hợp tác với người khác trong các việc mang lại ích lợi cho môi trường sống và trật tự xã hội. Tinh thần bao dung này phải mang tính bao dung không biên giới, không đóng khung trong một phe nhóm hay tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy có những anh em Phật tử hay vô tín ngưỡng làm được những việc tốt như: vệ sinh môi trường, hiến máu nhân đạo, chia sẻ cơm áo gạo tiền cho người nghèo khó bất hạnh, mổ mắt miễn phí… hoặc khiêm tốn phục vụ những bệnh nhân ung bướu, HIV-AIDS… thì hãy nhớ rằng: những anh em đó cũng thuộc về Thiên Chúa như chúng ta và họ đang làm công việc tốt lành của Thiên Chúa Tình Thương giống như chúng ta, như lời thánh Gioan: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 7-8).