2023
GIỜ CỦA CHÚA
21.5 Chúa Nhật thứ Bảy Mùa Phục Sinh
St 1:12-14; Tv 27:1,4,7-8; 1 Pr 4:13-16; Ga 17:1-11
GIỜ CỦA CHÚA
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly là không bỏ chúng ta mồ côi, Người sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến, để trong mọi sự con người tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô.
Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia ; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia”.
Trong Tin Mừng Gioan từ “Giờ” của Chúa được nhắc đến khá nhiều. Quả thật, mọi việc Chúa làm có thể đều liên quan đến chữ “Giờ” kia. Trong tiệc cưới tại Cana, khi bữa tiệc hết rượu Đức Mẹ đã nói với Chúa Giêsu để Ngài giúp đỡ họ, nhưng Ngài đáp lại: “Thưa bà, việc đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,17b). Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến “Giờ”. Nhưng hôm nay “giờ” mà Ngài nhắc đến đó là Ngài đã hoàn tất sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó, “giờ” Ngài được trở về và được Chúa Cha tôn vinh.
“Xin Cha tôn vinh Con Cha để con Cha tôn vinh Cha”. Đây là một sự trao đổi kỳ diệu giữa Chúa Con và Chúa Cha, sự trao đổi ấy luôn luôn sống động trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha xuống thế gian để cứu chuộc loài người và Chúa Cha đã ban tất cả loài người cho Chúa Giêsu: “Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (c. 2).
Nhưng để cứu chuộc sự sống đời đời cho con người, Chúa Giêsu đã phải chết ô nhục trên thập giá, và cũng chính trên thập giá Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh vì Ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha một cách triệt để. Cái chết của Ngài là một lời mời gọi yêu thương, là lời vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Cái chết ấy không những mang lại sự sống đời đời cho con người mà còn trở thành cầu nối giữa Thiên Chúa và con người, cầu nối ấy đã bị rạn nứt khi con người bội nghĩa bất trung với Thiên Chúa, thì nay Chúa Giêsu đã đến và hàn lại chỗ rạn nứt đó. Có thể nói rằng Chúa Giêsu, Ngài đã làm tất cả những việc đó không phải để cho chính bản thân mình, cũng không phải để được người đời tôn vinh, nhưng Ngài làm những điều đó là để tôn vinh Thiên Chúa Cha, và Ngài muốn thi hành thánh ý Chúa Cha một cách trọn vẹn.
Nhìn vào thế giới hôm nay, con người đang đắm chìm trong những đau khổ của bệnh tật và đại dịch Covid-19 đã cướp đi biết bao sinh mệnh. Đại dịch này như là một thảm họa trên khắp thế giới, nhưng với lăng kính của đức tin thì chúng ta tin rằng Đức Kitô lại đến để xoa dịu những đau thương ấy. Mặc dù Ngài không hiện diện một cách hữu hình, nhưng Ngài hiện diện ngang qua những y bác sĩ, những nhân viên y tế và những người có trách nhiệm đang ngày đêm chiến đấu để đem lại sự sống cho những bệnh nhân. Xưa Chúa Giêsu vì tình yêu Ngài dành cho loài người và vì vâng lời Chúa Cha mà đến thế gian để cứu chuộc loài người, thì hôm nay, những y bác sĩ vì lương tâm nghề nghiệp, vì tình yêu dành cho những người bệnh mà họ đã hy sinh tất cả: gia đình, thời gian, ý riêng, hạnh phúc và ngay cả mạng sống của mình để giúp đỡ các bệnh nhân vượt qua những khó khăn. Những hình ảnh các y bác sĩ đang ngày đêm làm việc không ngừng chính là họ đang âm thầm làm sáng danh Chúa. Họ đã và đang sống lời mời gọi yêu thương của Chúa, như trong thư của thánh Phaolô nói: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta cũng được mời gọi hãy sống “giờ” của Chúa Giêsu, mà giờ ấy không chỉ trong một hai giờ hay trong một hai ngày, nhưng “giờ” đó đòi hỏi chúng ta phải sống liên lỉ mỗi ngày, có nghĩa là mỗi ngày chúng ta hãy vác thập giá của mình, vì thập giá ấy sẽ được tôn vinh bởi “qua thập giá đến vinh quang”. Con đường ấy chính Chúa Giêsu đã đi qua và Ngài cũng mời gọi chúng ta cũng hãy đi theo con đường ấy trong ơn gọi mà mình đang sống. Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi hãy làm vinh danh Chúa Cha bằng cách vâng phục và thực thi ý muốn của Thiên Chúa, nhất là chúng ta hãy dùng tình yêu thương mà làm cho mọi người xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa Cha.
“Xin Cha tôn vinh con bên Cha” (c. 4-5a). Chúa Giêsu đã luôn ý thức sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó, Ngài đã trải qua bao đau khổ mới có thể chu toàn thánh ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Còn đau khổ nào hơn khi bị chính những người thân của mình phản bội. Các môn đệ mà Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc ,mà nay người này phản bội, người kia chối bỏ khi Thầy gặp khó khăn. Khó khăn đau khổ như vậy nhưng Chúa Giêsu vẫn luôn giữ lòng trung tín với thánh ý Chúa Cha, để cho mọi người nhận biết Chúa Cha – Đấng vẫn luôn yêu thương loài người, bởi vì khi Chúa Giêsu “hoàn tất công trình Cha giao phó” đó chính là tôn vinh Cha. Tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm đều nhắm đến một mục đích duy nhất đó là tôn vinh Chúa Cha và để cho thế gian được nhận biết Thiên Chúa Cha – Đấng duy nhất có quyền ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người, và Chúa Con là cầu nối duy nhất đưa chúng ta đến với Chúa Cha, vì: Như Chúa Giêsu đã nói không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho và không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ (x. Ga 6,44).
Sau khi đã hoàn tất sứ mạng của mình, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin Cha ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng trước khi có thế gian” (c.5). Lời cầu xin của Ngài không hiểu như là một công trạng cũng không hiểu như một người làm công đáng được chủ trả công, nhưng với Chúa Giêsu, đó là những điều vốn dĩ thuộc về Ngài, vì Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha. Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu với vai trò là một người được sai đi, để làm cho muôn dân nhận biết Thiên Chúa, và Ngài đã làm với tất cả trách nhiệm và bổn phận của mình. Chúa Giêsu đã trao ban cho họ tất cả những gì Ngài đã đón nhận được từ Chúa Cha để giúp họ hiểu và nhận ra Chúa Cha “vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con, họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con” (Ga 17,8).
Nhưng để nhận biết được Thiên Chúa, chúng ta không phải dùng không phải dùng khoa học hay do trí hiểu, mà đó là một ân huệ mà Thiên Chúa ban cho, có nghĩa là chúng ta phải có đức tin vì “đức tin đi tìm sự hiểu biết”.
Thực tế của xã hội ngày nay đã cho thấy, con người đang đánh mất đức tin vốn có của mình, vì họ cho rằng con người có thể làm được tất cả, con người có thể làm chủ vũ trụ, họ tự tôn mình lên trên Đấng đã làm ra vũ trụ này. Họ đã quên rằng tất cả những gì họ làm ra đều được bắt đầu từ cái có sẵn.
Thái độ sống vô ơn này không phải là thái độ sống mà Chúa muốn, vì chúng ta không là gì nếu không có Thiên Chúa và chúng ta không có gì nếu Thiên Chúa không ban cho vì mọi sự chúng ta có đều thuộc về Chúa. Như Chúa Giêsu, mặc dù Ngài là Con Một nhưng Ngài luôn ý thức rằng: “Tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con, và con được tôn vinh nơi họ” (c. 10). Chúa đã sống tâm tình này và cũng như để dạy chúng ta rằng: những gì chúng ta đang có hiện nay không phải những gì thuộc quyền sở hữu của ta, nhưng chúng ta chỉ là những người quản lý mà Thiên Chúa gửi đến thế gian.
Sau khi đã hoàn tất sứ mạng và trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu xin Chúa Cha cho những người còn đang ở thế gian “con cầu xin cho chúng, con không cầu xin cho thế gian”. Ngài ý thức được sự yếu đuối mỏng giòn của con người, nên Ngài đã xin Chúa Cha gìn giữ họ và ban cho họ ơn trung thành trong đức tin khi gặp phải những khó khăn thử thách.
Bên cạnh đó, khi chúng ta đã được đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải có nghĩa vụ trao ban tình yêu ấy cho mọi người xung quanh, nhất là những người đang gặp khủng hoảng về đức tin, để họ cũng được đón nhận tình yêu ấy nhờ đó họ nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêu thương và dõi bước theo họ.
2023
Con đường Giêsu
7.5
Chúa Nhật thứ Năm Mùa Phục Sinh
St 6:1-7; Tv 33:1-2,4-5,18-19; 1 Pr 2:4-9; Ga 14:1-12
Con đường Giêsu
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.
Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.
Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.
Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.
Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Chúa Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c. 7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha.
Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.
Đi theo con đường Chúa Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Chúa Giêsu đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Chúa Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.
Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là Giêsu. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.
Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha.
2023
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Luca 24:13-35
Vào đêm Phục Sinh vừa qua, theo báo cáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, có hơn 37,000 người trên toàn quốc được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo La Mã, riêng trong TGP Galveston-Houston đã có trên 2,000 người được lãnh nhận các bí tích tháp nhập sau một thời gian học đạo, kéo dài từ tháng Tám năm trước cho đến tháng Tư năm nay, tổng cộng khoảng nửa năm.
Có thể nói thời gian học đạo này tương tự như hành trình Emmau hôm nay của hai môn đệ. Các dự tòng được học hỏi về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Giáo Hội, các bí tích và đời sống luân lý, v.v., nhưng đó chỉ là các kiến thức căn bản về Giáo Hội Công Giáo để giúp họ bước trên một hành trình tinh thần mà mục đích sau cùng là trở nên thánh thiện, trở nên giống Đức Kitô.
Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng được nghe giảng dạy, được tiếp xúc với Chúa Giêsu, nhưng những giảng dạy đó có ảnh hưởng gì đến lối suy nghĩ, đến đời sống của họ hay không, đó là điều quan trọng.
Bài phúc âm cho thấy họ đi theo Chúa Giêsu nhưng họ không thay đổi cái nhìn về Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế. Họ mong đợi một sự giải thoát không phải về tinh thần nhưng về đời sống vật chất – thoát khỏi vòng nô lệ của ngoại bang. Họ mong muốn Đấng Mêsia chiến thắng vẻ vang nên họ không thể chấp nhận Người phải đau khổ và thất bại, và vì thế họ không thể hiểu được ý nghĩa phục sinh của Chúa Giêsu. Có thể nói họ từ giã Giêrusalem giống như từ bỏ một con đường mới của Chúa Giêsu để trở về nếp sống cũ.
Tương tự như thế, nhiều khi chúng ta theo Chúa nhưng chúng ta cũng không thay đổi lối sống cũ của mình, chúng ta vẫn trông đợi những điều nặng về vật chất hơn tinh thần. Có thể nói, chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của đời sống trần tục mà danh vọng, quyền thế và giầu sang là những gì lôi cuốn chúng ta hơn là niềm vui của một đời sống thanh khiết và thánh thiện.
Sự kiện Chúa Kitô chịu khổ hình thập giá, chịu nhục nhã trước mặt người đời, điều đó giúp chúng ta nhận thấy rằng lối sống hình thức bề ngoài thì không quan trọng bằng đời sống nội tâm. Một tâm hồn thanh khiết, thánh thiện thì vui sướng vì làm chủ được chính mình và luôn có bình an, họ không bị lay chuyển bởi ảnh hưởng của thế tục, và không xấu hổ khi bị sỉ nhục, bị vu oan, bị chèn ép cách bất công.
Tương tự như thế, nhiều khi chúng ta nhầm lẫn đời sống thánh thiện với các hình thức đạo đức bên ngoài, tỉ như đọc kinh, xem lễ, lãnh nhận các bí tích. Chúng ta thi hành các việc đạo đức đó hàng tuần, ngay cả hàng ngày, mà không nhận ra rằng đó chỉ là các phương tiện để giúp chúng ta chiến thắng được bản tính yếu đuối của mình và thay đổi trở nên con người mới hàng ngày – đó là ý nghĩa của sự phục sinh.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ gặp nhiều thách đố khi đứng trước những vấn đề không thể giải thích, nhất là khi không có được những điều chúng ta cầu xin và mong chờ nơi Thiên Chúa. Nhiều tín hữu Kitô chỉ còn trên danh nghĩa chứ không còn thực sự sống đạo khi phải đương đầu với những đau khổ, những thử thách trái với ý muốn của mình.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem làm thế nào để chúng ta có thể giữ vững đức tin nơi Thiên Chúa khi bị thử thách?
Trước hết, cũng như hai môn đệ đã tìm lại được niềm tin sau khi lắng nghe Người Khách Lạ giải thích Kinh Thánh thì chúng ta cũng phải dành thời giờ để học hỏi và tìm hiểu Thiên Chúa qua Kinh Thánh. Với phương tiện internet ngày nay, chúng ta có thể dành thời giờ để học hỏi Kinh Thánh trên mạng rất thuận tiện.
Kinh Thánh là bộ sách ghi lại những mặc khải của Thiên Chúa, đó là những điều Thiên Chúa muốn tiết lộ cho loài người qua miệng các ngôn sứ. Trong Kinh Thánh chúng ta tìm thấy những chân lý về Thiên Chúa, về sự sống đời sau và về hạnh phúc đích thật của con người.
Trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy những gì cần phải tin, được gọi là nội dung đức tin, và người Công Giáo tuyên xưng đức tin này hàng tuần trong kinh Tin Kính của Thánh Lễ Chúa Nhật. Được gọi là nội dung đức tin, điều đó có nghĩa đức tin phải được chấp nhận cách trọn vẹn và toàn thể. Chúng ta không thể chỉ chấp nhận những gì mình muốn tin và từ chối những gì mình không muốn tin.
Thực tế đời sống cho thấy, một trong những điều khó khăn cho đời sống đức tin là khi chúng ta tuyên xưng: “tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Một ý nghĩa của lời tuyên xưng này là chúng ta phải tin những gì Giáo Hội dạy về đức tin và luân lý. Đây là điểm tế nhị và khó khăn bởi vì nó đụng chạm đến đời sống, sự tự do của con người và đòi hỏi sự vâng phục.
Sống trong xã hội ngày nay, với những tiến bộ khoa học chúng ta bị giằng co giữa những hiểu biết khoa học và những lời khuyên của Giáo Hội về luân lý. Thí dụ, vấn đề ngừa thai nhân tạo. Giáo Hội nhìn thấy những nguy cơ về luân lý khi vợ chồng sử dụng thuốc ngừa thai nên đưa ra những lời khuyên với mục đích duy trì hạnh phúc hôn nhân. Không may, nhiều người Công Giáo coi đó là những ngăn cấm, đi ngược dòng tiến hóa và bởi đó họ không muốn lắng nghe ngay cả những dạy bảo khác của Giáo Hội. Đó là sự thiệt hại cho cá nhân, bởi vì Giáo Hội luôn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong những quyết định liên quan đến tín lý và luân lý, để giúp giáo dân được hạnh phúc khi sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai giúp chúng ta có thể giữ vững đức tin khi đứng trước những sự kiện khó hiểu là chúng ta phải có một ý thức rõ ràng về sự đau khổ. Hai môn đệ trên đường Emmaus bị chao đảo đức tin một phần là vì họ có thành kiến xấu về sự đau khổ. Đối với họ đau khổ là hình phạt của Thiên Chúa, là hậu quả của tội lỗi, do đó người đau khổ thì đáng khinh hơn là đáng thương.
Nhưng trong Kinh Thánh, các ngôn sứ đã tiên đoán về một Đấng Mêsia phải chịu đau khổ, phải chịu hy sinh để giải thoát Israel. Ngay trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng xác nhận rằng “Đức Kitô cần phải chịu khổ hình như thế rồi mới được vinh quang” (c. 26), và trong phúc âm Mátthêu (25:31-46), Chúa Giêsu còn đồng hoá chính mình với những người đau khổ, hèn kém nhất trong xã hội để chúng ta đừng khinh bỉ những người bất hạnh, xấu số.
Sự đau khổ đối với Chúa Kitô là một phương tiện để diễn đạt tình yêu và đem lại ơn cứu độ. Đây là điểm được Chúa Giêsu nhắc cho hai môn đệ nhớ lại những gì Chúa đã nói trong bữa Tiệc Ly qua việc bẻ bánh: Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu, và rồi hai môn đệ mới nhận ra người khách lạ là Chúa Giêsu, họ nhận ra ý nghĩa của sự đau khổ – thập giá không còn là một bất hạnh nhưng thập giá Chúa Kitô là một diễn đạt cao quý của tình yêu.
Đó là một chân lý có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh và mọi người. Người theo Chúa Kitô thì thể hiện tình yêu qua một lối sống chấp nhận sự đau khổ, không trốn tránh những hy sinh. Dù những hy sinh nhỏ bé cũng có một giá trị cứu độ – như Chúa Giêsu nói trong Ngày Phán Xét khi những người công chính hỏi Chúa rằng, “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; … là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?’ Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ‘Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy’.” (Mt 25:37-40)
Đây là một Tin Mừng cần được loan báo. Bởi vì, chúng ta không cần phải thực hiện những hy sinh lớn lao như Chúa Giêsu, nhưng chỉ cần lưu tâm để ý đến những người chung quanh, nhất là những người bất hạnh hơn chúng ta để giúp đỡ, chia sẻ.
Khi vợ chồng cố gắng sống chung thuỷ với nhau, đó là một hy sinh trước những cám dỗ đầy dẫy trong xã hội, nhưng nếu không có sự hy sinh đó thì tình yêu mà vợ chồng trao cho nhau cũng chẳng có gì đáng kể.
Cha mẹ nuôi dưỡng con cái để trở nên một người mà Thiên Chúa muốn và con cái muốn chứ không phải là người mà cha mẹ muốn. Đây là một hy sinh ý riêng để tuân theo thánh ý của Thiên Chúa dành cho con cái của mình. Nếu không có sự hy sinh ý riêng này thì tình thương của cha mẹ chỉ là một hình thức ẩn giấu của sự ích kỷ và tham vọng cá nhân.
Khi bị đau khổ vì bệnh tật, hay vì người khác gây ra đau khổ cho chúng ta, thay vì căm thù, oán trách, thay vì chán nản tuyệt vọng, chúng ta can đảm chấp nhận thì sự hy sinh đó là một minh chứng cho mọi người thấy được sức mạnh của tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Kết quả của hành trình Emmau của hai môn đệ mở đầu cho một nếp sống mới – họ không còn sợ hãi bị cầm tù, và ngay cả sự chết bởi vì họ nhận ra rằng những thành công, danh tiếng và giầu sang ở đời này rồi sẽ qua đi, nhưng những đau khổ hy sinh vì tình yêu thì đem lại hạnh phúc đời sau.
Hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng phải trải qua những thử thách, nhiều khi rất cam go, nhưng những hy sinh đó không phải là vô giá trị, bởi vì đó là con đường của Chúa Kitô và Người đang đồng hành với chúng ta để ban ơn thêm sức và giúp chúng ta thay đổi để trở nên một con người mới trong ý nghĩa phục sinh – chết đi con người cũ và sống lại trong con người mới. PVN
2023
CHÚNG TA LÀ NHỮNG LỮ KHÁCH EM-MAU
CHÚNG TA LÀ NHỮNG LỮ KHÁCH EM-MAU
Luca 24:13-35
Thánh Lu-ca chỉ kể lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục sinh (24,13-33 và 24,36-49), còn cuộc hiện ra thứ ba (x. câu 34) thì ông chỉ nói rất vắn gọn. Thêm nữa, cuộc hiện ra đầu được ban cho hai môn đệ, vốn chẳng có vai trò nào trong Tin mừng Lu-ca lẫn Công vụ Tông đồ, được kể dài dòng hơn cuộc hiện ra thứ hai, vốn xác nhận Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang ở với họ như những chứng nhân chính thức của cuộc Phục sinh. Sau cùng, đối với Phê-rô, Lu-ca nêu lên cuộc hiện ra dành cho ông, nhưng chẳng kể lại. Dù thế, đây là cuộc hiện ra đầu hết và quan trọng hơn cả.
Trình thuật “hai môn đệ làng Em-mau” có mục đích cho thấy làm sao sau khi đã trò chuyện với Chúa trên đường (cc.13-27), cuối cùng họ đã nhận ra Đức Giê-su khi dùng bữa tối (cc.28-35); nó chẳng chứa việc sai đi truyền giáo nào cả. Sở dĩ Lu-ca gán cho nó tầm quan trọng lớn lao, là vì ông muốn lôi kéo các độc giả vào, cho họ thấy câu chuyện mang tính thời sự và một giá trị thường xuyên đối với họ. Đời sống Giáo hội, với những cuộc hội họp thờ phượng, lúc đưa ra lời giải thích Thánh Kinh và xảy ra việc cử hành Thánh Thể, chính là nơi mà tín hữu có thể nhận ra hôm nay sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. “Bạn đường vô danh của ông Cơ-lê-ô-pát mang tên của mỗi một tín hữu” (Charles Perrot) đang đọc hay nghe trang Tin mừng thời danh này.
Hy Vọng Rồi Tuyệt Vọng
“Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói! Thế thì Đức Ki-tô lại không phải chịu khổ nạn như thế đã, rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn). Ngay cả trong ngày Phục sinh, ngay cả khi hát Alleluia, chúng ta cũng hãy để cho Đấng Sống Lại “đối xử thô bạo” với mình như thế. Có lẽ khi nói những lời ấy, Đức Giê-su đã nở nụ cười của lối mắng yêu, và hai môn đệ cũng nhanh chóng mỉm cười; rất tốt khi được Người, Đấng Hằng Sống, gọi là ngu độn!
Hãy trao đổi cũng nụ cười ấy với Người. Vì chúng ta cũng là những lữ khách Em-mau. Chúng ta tiến bước trên con đường đời mình với nhiều hy vọng đầu tiên rất ư thuần khiết, rồi ngày càng pha trộn, pha trộn chất Ki-tô giáo lẫn chất ngoại giáo, sáng sủa lẫn tối mờ, xả thân và ích kỷ. “Chúng tôi đã từng nuôi hy vọng chính Người sẽ giải thoát Ít-ra-en”, hai môn đệ nói thế, hàm ý Người sẽ lên ngôi vinh hiển để họ cũng được thông phần, và chúng ta cũng y như họ. Rồi các thất vọng đã đến: với Đức Giê-su thế là chấm dứt vĩnh viễn. Mộng vàng nay đã tan mây! Trở về làng cũ cấy cày cho xong!
Thình lình xảy ra cuộc Gặp gỡ. Khó tin đến nỗi thoạt tiên hai môn đệ chẳng thấy gì: “Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ”. Nhưng họ chẳng nhận ra Người, một đàng vì tham vọng tiêu tùng đã làm ý thức họ mờ tối, đàng khác vì cuộc Phục sinh đã làm cho hình dạng bên ngoài của Đức Giê-su thay đổi. Chúng ta từng có cuộc gặp gỡ giống thế nhưng cũng đã khép kín như họ trước cái không ngờ: Thiên Chúa trước mặt chúng ta, Thiên Chúa ở với chúng ta!
Tuy nhiên, dẫu biết điều ấy, đức tin chúng ta vẫn không thức tỉnh đủ, con tim chúng ta quá chậm rì, chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc đời như thể Người chẳng có đó. Vì chúng ta luôn mong ước bản thân Người hiển linh, Giáo hội Người hiển thắng.
Rạo Rực Rồi Bừng Sáng
Nhưng đôi khi tâm hồn cũng cháy lên: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” Kinh Thánh! Đừng hy vọng tiến tới trong đức tin nếu không đọc Kinh Thánh, tất cả Kinh Thánh, kho tàng lớn lao của Mạc khải mà hôm nay Đức Giê-su cho chúng ta chìa khóa để hiểu: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình đã rồi mới vào trong vinh quang của Người”. Các ngôn sứ (tức Cựu Ước) đã tiên báo như vậy! Khó thấu hiểu, khó chấp nhận thật, tuy nhiên Đức Giê-su sẽ thân thương gọi chúng ta là ngu độn bao lâu chúng ta chưa thật sự nội tâm hóa bí mật của mọi bí mật này.
Quỹ đạo lớn đi từ thập giá đến vinh quang, đó chính là chuyện đời của Đức Ki-tô, chuyện đời của thế giới, chuyện đời của mỗi một con người. Ai hiểu con đường gian khổ này thì đã hiểu tất cả. Chúng ta chỉ có thể sống một cái gì đó với Đức Giê-su khi xin vâng đối với tình yêu, và lúc đó chúng ta cũng xin vâng đối với gian khổ. Ai nghĩ rằng yêu thương không phải trả giá gì hết thì xin mời đi chỗ khác vậy! Nhưng khi chúng ta đau khổ để thương yêu, thì sẽ thấy Đức Giê-su có đó.
Chẳng hoàn toàn như thế. Các môn đồ đã nhận lấy bí mật lớn lao, lòng họ đã rạo rực (“Xin ở lại với chúng tôi”), thế nhưng họ vẫn chưa nhận ra Người. Phải có cuộc bẻ bánh (tức Thánh Thể, Thánh Lễ) và lần này họ đã hiểu. Dẫu cho Người “biến mất trước mắt họ”, từ nay Người sẽ luôn có đó, ta sẽ có thể tiến bước với Người từ thập giá đến vinh quang. Ngay lập tức hai môn đồ có một phản xạ tốt: đi loan báo điều kỳ diệu: “Chúa sống lại thật rồi! “ Và tất cả trả lời: “Đúng thế”. Làm Ki-tô hữu sẽ là sống niềm xác tín đó và thông truyền đó ra.
Như thế đức tin chúng ta nẩy sinh nhờ ba yếu tố lớn, với ba thời điểm lớn: Lời Chúa, Thánh Thể và Chứng từ. Ba yếu tố này ngày nọ đã biểu lộ ra qua cuộc đối thoại giữa một tín hữu Công giáo (vốn là một tông đồ xã hội nổi tiếng) với một mục sư Tin lành. Vị mục sư nói với anh: “Tôi nghĩ rằng Kinh Thánh đã đủ giúp chúng ta gặp Chúa và hiểu Chúa thực sự rồi. Thánh lễ chỉ là bịa đặt vô ích của Công giáo các anh” – “Thưa mục sư, tôi nghĩ rằng Thánh Kinh chưa đủ mà còn phải có Thánh Thể, Thánh Lễ nữa! Bằng chứng là câu chuyện hai môn đệ làng Em-mau. Khi nghe Đức Giê-su giải thích Kinh Thánh, họ chỉ mới thấy lòng rạo rực. Phải đợi đến lúc Người bẻ bánh, họ mới nhận ra được Người!” Đúng là Lu-ca đã đẽo gọt trang Tin Mừng này để nêu bật cho ta ba phương thế gặp gỡ Chúa (Thánh Kinh, Thánh Thể, Chứng từ) cũng như để biến nó thành sơ đồ của cuộc sống Ki-tô hữu: sống đời mình như một thánh lễ và thành thử như một việc chấp nhận thập giá mỗi ngày đời ta.
Một sự chấp nhận mà ngược đời thay, sẽ đem lại hạnh phúc: tiến về vinh quang Thiên Chúa cùng với Đức Giê-su! “Xin ở lại với chúng con” như thế là một lời tình yêu có nghĩa “Con muốn ở với Người”. PVL