2023
Vác thập giá
2.7 Chúa Nhật thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 4:8-11,14-16; Tv 89:2-3,16-17,18-19; Rm 6:3-4,8-11; Mt 10:37-42
Vác thập giá
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn cuối cùng. Nhưng đoạn này là một tổng hợp nhiều lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau, được gom lại, vì thế không ăn khớp với nhau cho lắm, nhưng mỗi lời Chúa nói đều là những bài học cho chúng ta.
“Ai yêu mến cha mẹ… con cái hơn Thầy, người ấy không xứng đáng với Thầy”. Chúa muốn cho thấy rằng người môn đệ của Ngài phải dành trọn tình yêu của mình cho Ngài. Ngài phải là trung tâm của cuộc sống. Không thể so sánh với một ai ở trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Chúng ta đọc đi đọc lại câu nói đó rất nhiều lần, nhưng chúng ta có để ý đến đó không? Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào? Khi yêu nhau, chúng ta luôn nhớ nhau, nhớ không phút nào ngơi, lòng trí chúng ta luôn hướng tới người yêu. Yêu mến Chúa hết lòng thì lòng trí chúng ta chỉ nghĩ đến một mình Chúa. Chúa trở thành niềm thương nhớ không nguôi của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ, làm gì cũng nhớ. Tình yêu của chúng ta được đo bằng thương nhớ. Chúng ta có nhớ Chúa không?
Yêu mến Chúa hết sức là gì? Nhìn vào thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy ngài yêu mến như thế nào. Ngài đã không ngơi nghỉ, loan báo Chúa Giêsu cho mọi người không mỏi mệt. Ngài chỉ sống cho một mình Chúa. Chúng ta không rao giảng như ngài, nhưng nếu chúng ta yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ làm gì cũng làm cho Chúa, làm vì yêu mến Chúa chứ không chỉ làm việc vì tiền, vì lợi lộc. Dùng tất cả sức lực để làm cho Chúa được yêu thương hơn.
Chúa không cấm chúng ta yêu thương con cái, bạn bè, trái lại Ngài dạy chúng ta phải yêu thương nhau nhưng không thể yêu hơn Chúa. Ngài phải là ưu tiên tuyệt đối. Tình yêu loài người chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, tình yêu Chúa luôn bền vững muôn năm. Không thể nào so sánh Thiên Chúa với con người. Thế nhưng, chúng ta có yêu mến Chúa không? Chúa đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, không phải vì Ngài cần tình yêu của chúng ta. Tình yêu của chúng ta có lợi gì cho Chúa đâu! Chỉ vì Ngài quá yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chỉ có Ngài mới giúp chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thật, hạnh phúc muôn đời.
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”
Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại”
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Chúa Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả.
Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”.
Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật”
Theo Chúa ở đây không chỉ có nghĩa là đi tu hay vào chủng viện, mà còn phải hiểu là sống theo những đòi hỏi của Ngài, là thực hiện những điều Ngài truyền dạy. Đòi hỏi ấy phải vượt lên trên tất cả mọi thứ đòi hỏi khác. Không phải vì Chúa Giêsu là một con người độc đoán, mà bởi vì Ngài biết rõ Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hẳn rằng mỗi người chúng ta cũng có dịp sống qua những lựa chọn này.
2023
Đừng sợ
25.6 Chúa Nhật thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
Gr 20:10-13; Tv 69:8-10,14-17,33-35; Rm 5:12-15; Mt 10:26-33
Đừng sợ
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo đức. Có người trái lại, vì muốn làm giàu nhanh chóng, cũng đã thẳng tay chà đạp nhân phẩm của người khác và của chính mình nữa. Cả hai loại người trên đều đánh mất giá trị làm người và đã gây ra những thiệt hại to lớn không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn về tinh thần, đạo đức cho cộng đồng nhân loại.
Trong đời sống tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, cũng luôn có mối đe doạ rình rập giết chết lòng tin của người có đạo. Đó là nỗi sợ hãi. Sợ không kiếm được hay mất việc làm, sợ bị người đời gièm pha, chê cười, khinh khi, sợ bị xã hội kết án và loại trừ chỉ vì họ muốn sống theo những giá trị của Tin Mừng. Không thiếu những Kitô hữu đã đầu hàng, đã thoả hiệp để được yên ổn, để được vinh thân phì da, để được chức tước, địa vị xã hội. Họ sợ những người, những thế lực có thể giết hại họ phần xác.
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.
Các con đừng sợ. (Mt 10,26). Chúa Giêsu không nói tới một sự sợ hãi chung chung, nhưng Người nói rõ về một sự sợ hãi đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy trong việc sống đức tin của mình. Chúng ta thường e dè, thường do dự mỗi khi nói những lời giống lời của Chúa, làm những việc giống việc của Chúa, bởi vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc. Chúng ta sợ bị chê là quê một cục, bị gọi là kẻ lên mặt đạo đức, hay là bị ngược đãi, như chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé.
Chúa Giêsu không phải là không biết đến những lý do của sự sợ hãi. Bởi vì có những người đã phải mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị và rất có thể mất cả mạng sống vì niềm tin nơi Ngài. Thế nhưng, bên trên những thiệt hại tạm bợ này là niềm hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho những ai trung thành với Ngài.
Trong cuộc sống, có những lúc hình như chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi. Sợ đọc kinh cầu nguyện trước mặt người khác. Sợ gặp phải những khó khăn khi trung thành sống đức tin của mình. Sợ làm dấu thánh giá trước bữa ăn. Sợ ngả mũ nón khi đi ngang qua nhà thờ. Sợ đổi đề tài khi có người kể những câu chuyện tầm phào và tục tĩu. Sợ không dám từ chối khi bè bạn rủ rê ăn nhậu và cờ bạc. Chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi khi Giáo hội bị nhạo cười, bị tấn công.
“Anh em đừng sợ” Chúa Giêsu nói với các Kitô hữu như thế. Lời mời gọi kèm theo một cách nhìn khác về cuộc sống: “những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Theo đó “kinh tế thị trường” có thể “giết được thân xác” với những quy luật phi nhân của nó. Và “kinh tế thị trường” tuy “không giết được linh hồn”, nhưng trong thực tế của con người sau tội nguyên tổ, thì nó có thể giam hãm con người trong vòng tội lụy.
Thánh Phaolô đã đặc biệt có những suy nghĩ về vấn đề này trong đoạn thư Roma hôm nay “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết…” Chúng ta có thể thấy muôn vàn hệ lụy trong xã hội hôm nay : với thời mở cửa, thì cũng là lúc những tệ nạn xã hội : tham nhũng, hối lộ, đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường với những sản phẩm nhằm khích động bạo lực, dâm ô, xì ke, ma túy…làm tan nát nền móng đạo đức xã hội là gia đình. Người ta thừa nhận là hợp pháp việc “ly dị”, “hôn nhân thử”, “phá thai”, “ngừa thai”… Hậu quả là xã hội bất ổn, con người càng ngày càng sống trong lo sợ hãi hùng, và nhất là giới thiếu nhi, bị khuôn đúc thành “sản phẩm phục vụ lợi ích kinh tế”, không còn cơ hội đạt tới mức tự do tâm linh vốn là giá trị cao cả tối thượng của một con người. Đứng trước tình trạng ấy, sự khủng hoảng như một định kỳ không thể tránh, đã xảy ra trong mọi xã hội, cách riêng ở những xã hội phát triển cao, gây nên những đổ vỡ không lường.
“Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục.” Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công… mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: “Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng.”
Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.
2023
CHẠNH LÒNG THƯƠNG
18.6 Chúa Nhật thứ Mười Một Mùa Quanh Năm
Xh 19:2-6; Tv 100:1-2,3,5; Rm 5:6-11; Mt 9:36-10,8
CHẠNH LÒNG THƯƠNG
Chúa Giêsu đã dành tình yêu thương cho con người, đặc biệt là những người nghèo khó, bệnh tật, bơ vơ không nơi nương tựa. Tin mừng theo thánh Matthêu (Mt 15, 29-37) nêu lên hình ảnh Chúa Giêsu chạnh lòng thương đám đông dân chúng. Vì chạnh lòng thương Chúa đã chữa lành cho người câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Trước hành động của Chúa Giêsu mục tử, nhiều người đã nhận ra được tình yêu lòng thương xót của Thiên Chúa, từ đó họ dâng lời tôn vinh Người.
Thêm nữa, vì chạnh lòng thương Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng khi họ đi theo và nghe Người giảng dạy. Phép lạ hóa bánh ra nhiều để cho đám đông dân chúng được ăn no nê cũng là một hình ảnh tuyệt vời để diễn tả cõi lòng của Chúa Giêsu, Người muốn cho họ luôn được dưỡng nuôi no đủ và dư đầy. Không chỉ là của ăn vật chất là cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác nhưng chính Người muốn tự hiến mình trở nên tấm bánh là chính Mình và Máu Người nên lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn con người.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã làm người để ở cùng chúng ta. Ngài đến trần gian để loan báo Tin Mừng Nước Trời và chữa lành bệnh tật hồn xác cho con người. Ngài ở giữa nhân loại để cảm thông và sớt chia mọi nỗi khổ đau của chúng ta bằng trái tim “chạnh lòng thương” của một Vị Thiên Chúa làm Người.
Qua con người Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật sự rất gần gũi với con người qua mọi thời đại. Ngài cảm được mọi niềm vui nỗi buồn của chúng ta, Ngài thấu cảm bao nỗi lo toan của kiếp nhân sinh, Ngài thấy rõ những khát vọng sâu kín nhất của chúng ta, và chỉ có Ngài mới làm tròn đầy mọi ước nguyện chân thành nhất của chúng ta.
Thật vậy, trang Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta nhận ra được những điều ấy nơi con người Chúa Giêsu. Ngài đã đi khắp các thành thị, làng mạc để rao giảng Tin Mừng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (x.c.35). Khi thấy đám đông, Ngài đã chạnh lòng thương, vì thấy họ lầm than vất vưởng (x.c.36). Ngài thấy rõ nhu cầu cần có những thợ gặt trong cánh đồng của Thiên Chúa (x.c.37), và Ngài đã thành lập Nhóm Mười Hai để tiếp nối công trình cứu độ của Ngài nơi trần gian.
Tin Mừng của Chúa Giêsu có sức mạnh giải thoát và biến đổi hoàn toàn cuộc đời con người. Thánh Phaolô là một trong những người đã được biến đổi, được lôi kéo bởi Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Phaolô đã để lại đàng sau quá khứ, con người cũ, để trở thành con người say mê Tin Mừng và miệt mài nói về lòng thương xót của Chúa đã dành cho ông. Phaolô đã nhận ra tất cả cuộc đời của ông là một chuỗi những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, chỉ vì Ngài chạnh lòng xót thương ông.
Chúng ta tin rằng : Con người có thể vô cảm dửng dưng với nhau, nhưng Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng với đau khổ của con người. Vì, Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa chạnh thương. Tin như thế, để không bao giờ ta thất vọng khi gặp đau khổ, thử thách. Tin, để thấy Chúa luôn ở bên chúng ta, Chúa đang đồng cảm với đau khổ của chúng ta ; Ngài đang bước cạnh chúng ta khi chúng ta gặp thử thách tăm tối nhất. Chúa cũng đang nói với kẻ đau khổ : Đừng khóc nữa ! Đừng buồn, đừng thất vọng nữa! Có Ta đang chia sẻ với con !
Thiên Chúa cũng đang an ủi, nâng đỡ cuộc sống chúng ta qua bao người chung quanh. Thiên Chúa đang dùng họ để đồng hành, chia sẻ với cuộc sống của ta, chỉ có điều chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không mà thôi. Đồng thời, Thiên Chúa cũng muốn qua chúng ta để Ngài đồng hành và an ủi các anh chị em đau khổ khác nữa. Ngài muốn mượn trái tim của ta để chạnh thương những anh chị em bất hạnh. Ngài muốn dùng đôi tay của chúng ta để chạm đến anh chị em, dùng môi miệng ta để nói lời an ủi yêu thương, dùng ánh mắt của ta để khích lệ anh chị em chỗi dậy những khi bị suy xụp.
Ngày nay, trong đời sống có nhiều những “tấm bánh” chỉ được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ cho những người đang sống trong cảnh nghèo đói, khốn khổ. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận định: “chúng ta bị tràn ngập những tin tức và hình ảnh kinh hoàng thuật cho chúng ta đau khổ của con người và đồng thời chúng ta cảm thấy mình không có khả năng can thiệp”. Chính suy nghĩ này làm cho chúng ta có thể lẩn trốn con tim “chạnh lòng thương” vì cho rằng mình không có bổn phận và cũng không có dư đầy để có thể chia sẻ hay cho đi.
Chúa Giêsu đã muốn chính các môn đệ của Người đem bánh để phân phát cho mọi người. Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta, từng người một, khi nhận lãnh Bánh của Chúa, với con tim chạnh lòng thương cũng biết chia sẻ cho người khác, để Chúa có thể nuôi sống mọi người trên trần gian. Chắc chắn những nỗ lực sống tốt trong ơn thánh Chúa của chúng ta sẽ dễ dàng trở nên gương sáng cho những người đang sống trong sự vô cảm, lệch lạc lương tâm biết nhận ra Chúa đang hiện diện và luôn yêu thương.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp bước theo Ngài để đi đến mọi miền đất nước, rao truyền Tin Mừng tình thương cho mọi người bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ. Khi có một trái tim biết “chạnh lòng thương” như Ngài, chúng ta mới có thể gặp gỡ, chia sẻ với những người đang lầm than khốn khổ do bệnh tật thể xác hay nỗi đau tâm hồn, do hoàn cảnh khó khăn hay công việc bất trắc, những hoang mang bất định trong cuộc sống do thiếu niềm tin và lý tưởng . . .
Nếu con người thời đại hôm nay đang bị chủ nghĩa “vô cảm” điều khiển cuộc sống và hành động, thì hơn bao giờ hết, người Kitô hữu càng cần mặc lấy trái tim “chạnh lòng thương” của Chúa Giêsu, để sống và hành động trong các mối tương quan với mọi người.
2023
Học hỏi Phúc âm Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A
“Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Ðó là lời Chúa.
CÂU HỎI TÌM HIỂU
1. Đức Giêsu giảng bài Tin Mừng này khi nào và ở đâu? Đọc Ga 6,17.24.59.
2. Trong bài Tin Mừng này, có bao nhiêu động từ “sống” và “sống lại”, bao nhiêu danh từ “sự sống”, bao nhiêu tính từ “hằng sống”?
3. Tìm trong câu Ga 6,51 một từ không có trong Ga 6,32-50.
4. Câu Ga 6,51 có nói về cái chết kinh khủng của Đức Giêsu không? Đức Giêsu chết cho ai?
5. Đọc Ga 6,48-51. Manna và Bánh hằng sống có gì giống nhau? Đọc chương 16 sách Xuất hành. Bánh hằng sống trổi vượt trên Manna về những điểm nào?
6. Đối với người Do-thái, thịt và máu tương trưng cho điều gì? Đọc Mt 16,17. Người Do-thái nghĩ gì về việc ăn thịt và uống máu một người? Đọc Sáng thế 9,4; Lêvi 3,17.
7. Tin Mừng theo thánh Gioan có thuật lại việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể không? Tìm những từ Đức Giêsu nói về Bí tích này trong bài Tin Mừng hôm nay.
8. Đọc Ga 6,56 và 15,9-12. Hãy cho biết hai cách thức giúp ta ở lại trong Chúa Giêsu.
Đọc Ga 6,57. Đâu là hiệu quả của việc rước lễ?
GỢI Ý SUY NIỆM
Bạn nghĩ gì về việc rước lễ của bạn? Bạn rước lễ chỉ vì thói quen hay có sự chuẩn bị kỹ càng? Bạn có coi rước lễ là một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu không? Tại sao việc rước lễ lại không làm cuộc đời chúng ta biến đổi?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Theo Tin Mừng thứ tư, sau khi chứng kiến Đức Giêsu làm dấu lạ hóa bánh ra nhiều ở bên kia hồ Galilê (Ga 6,1), các môn đệ đã lên thuyền trở lại Ca-phác-na-um ở bên này hồ (Ga 6,17). Sau đó Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với họ, rồi vào con thuyền của họ để đến hội đường ở Ca-phác-na-um, gần bờ hồ (Ga 6,24.59). Chính tại đây Ngài đã giảng một bài dài về Bánh hằng sống.
2. Trong bài Tin Mừng này, có 3 động từ sống (Ga 6,51.57.58), có 1 động từ sống lại (Ga 6,54), có 3 danh từ sự sống (Ga 6,51.53.54), và có 2 tính từ hằng sống (Ga 6,51.57). Như vậy tuy bài Phúc âm chỉ gồm 8 câu, nhưng các động từ sống và sống lại được nhắc đến nhiều lần; danh từ sự sống và tính từ hằng sống cũng vậy. Điều đó cho thấy bí tích Thánh Thể tự bản chất là bí tích của sự sống. Đây không phải là sự sống thể lý chóng qua, nhưng là sự sống muôn đời (Ga 6,51.54.58).
3. Trong Gioan 6,51 có một từ không thấy có ở Ga 6,32-50, đó là từ thịt. Trong phần đầu của bài giảng (Ga 6,32-50) Đức Giêsu đã nhiều lần nhận mình là Bánh từ trời xuống, là Bánh hằng sống và là Bánh ban sự sống. Ngài mời mọi người tin vào Ngài (Ga 6,35.40.47), nghĩa là đến với Ngài (Ga 6,35.37.44.45). Ngài mời họ tin rằng Ngài là Đấng từ trời xuống (Ga 6,33.38.41.42.50), nhờ đó được sự sống đời đời. Trong phần thứ hai của bài giảng (Ga 6,51-58), Đức Giêsu vẫn nhận mình là Bánh hằng sống từ trời xuống (Ga 6,51.58), nhưng ta không thấy động từ tin xuất hiện nữa, thay vào đó là hai động từ ăn và uống xuất hiện trong nhiều lần trong từng câu của Ga 6,51-58. Ở đây là ăn thịt và uống máu của chính Đức Giêsu (Ga 6,53.54.56).Như vậy trong phần thứ hai này, chủ đề về bí tích Thánh Thể nổi bật hơn nhiều.
4. Trong câu Ga 6,51b: “Và bánh tôi sẽ ban là thịt của tôi, cho (huper) sự sống của thế gian”, ta thấy hàm ý về cái chết của Đức Giêsu. Qua cái chết thập giá, Ngài sẽ ban tấm bánh là chính thịt của Ngài cho thế gian, nhờ đó thế gian được sống đời đời. Câu Ga 6,51b khá gần với câu nói của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, ở Lc 22,19: “Đây là mình của Thầy được ban cho anh em.” Cả hai câu đều dùng cùng một động từ ban (didômi) và giới tự cho (huper). Nhưng ở Ga 6,51b, Đức Giêsu ban thịt của mình “cho cả thế gian”, còn trong khung cảnh bữa tiệc Thầy-trò ở Lc 22,19, Đức Giêsu chỉ nói ban “cho anh em”.
5. Manna là “bánh ĐỨC CHÚA ban cho anh em làm của ăn’ (Xh 16,15), “bánh từ trời mưa xuống” (Xh 16,4). Đó là một thứ gì mịn màng như sương muối phủ trên mặt đất lúc ban sáng (Xh 16,14). Dân Israel mỗi ngày, trừ thứ bảy, phải đi lượm về, rồi nấu nướng để ăn, trong suốt 40 năm họ đi trong hoang địa (Xh 16,35), nhờ đó họ khỏi phải chết đói (Xh 16,3).
Còn “Bánh hằng sống” là chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, không phải từ bầu trời, nhưng từ thế giới của Thiên Chúa. Manna chỉ là thứ thức ăn từ trời rơi trên mặt đất, còn Đức Giêsu là Ngôi Lời từ trời xuống trong thế gian. Bánh hằng sống giúp nuôi sống con người. Bánh này không giúp con người tránh khỏi cái chết của thân xác, nhưng tránh khỏi cái chết đời đời, và được hưởng sự sống muôn đời. Manna vừa không giúp tránh khỏi cái chết đời đời, vừa không cho con người được sống muôn đời bên Thiên Chúa. Bánh hằng sống mà Đức Giêsu ban chính là thịt của Ngài (Ga 6,51b). Ngôi Lời nhập thể đã chấp nhận chết để nuôi sống thế gian này bằng chính con người mình. Như thế, Tấm bánh Giêsu trổi vượt hơn Manna về mọi mặt.
6. Đối với người Do-thái, thịt và máu là hai yếu tố quan trọng làm nên một con người trong thân phận yếu đuối. Khi Phêrô trả lời được câu hỏi của Đức Giêsu: “Thầy là ai?” Ngài đã cho ông biết chính Cha trên trời mặc khải cho ông mầu nhiệm ấy, chứ không phải thịt và máu đâu (Mt 16,17). Thịt và máu ở đây để chỉ con người với những yếu đuối, bất toàn và giới hạn.
Người Do-thái rất sợ khi nghe đến việc ăn thịt và uống máu một người. Ngay cả uống máu thú vật cũng bị Luật Môsê cấm (Lêvi 3,17; Sáng thế 9,4; Cv 15,29). Vậy mà trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu lại nói đến việc phải ăn thịt và uống máu của Ngài. Tuy nhiên, đây là thịt và máu dưới hình bánh và rượu, đã được thánh hiến trong bí tích Thánh Thể. Khi thông hiệp với bánh và rượu đã được thánh hiến, chúng ta được thông hiệp với thịt và máu Chúa, nghĩa là thông hiệp với chính Chúa. Chúng ta sẽ được “ở lại trong Chúa” (Ga 6,56), và “sống nhờ” Chúa (Ga 6,57).
7. Tin mừng theo thánh Gioan không thuật lại việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, nhưng bài Tin Mừng hôm nay lại là một bài giảng có ý nghĩa về bí tích cực trọng này. Trong bài giảng này, Đức Giêsu đã nói nhiều lần cụm từ ăn thịt và uống máu của Con Người (Ga 6,53), ăn thịt tôi và uống máu tôi (Ga 6,54.56). Lối nói này chỉ có thể hiểu được trong bầu khí của bí tích Thánh Thể được cử hành bởi các tín hữu sau khi Thầy Giêsu đã phục sinh.
8. Hai cách thức giúp ta ở lại trong Chúa Giêsu và Ngài ở lại trong ta, đó là: ăn thịt và uống máu Ngài trong bí tích Thánh Thể (Ga 6,56) và yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em (Ga 15,9-12). Hiệu quả quan trọng của việc rước lễ đó là: “…kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ (dia) tôi mà được sống” (Ga 6,57). Như thế người rước lễ được hưởng sức sống của Chúa Giêsu phục sinh. Sức sống này cũng là sức sống Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu, nên có thể nói, người rước lễ được hưởng sức sống của chính Thiên Chúa Cha.