2023
Tuyên xưng niềm tin
27.8 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Is 22:19-23; Tv 138:1-2,2-3,6-8; Rm 11:33-36; Mt 16:13-20
Tuyên xưng niềm tin
Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.
Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?
Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.
Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó tay chấm com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc.
Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh.
Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11, 4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63; Mc 14, 61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26, 64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22, 67-68). Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (1 Ga 4, 8).
2023
Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin
20.8
Chúa Nhật thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
Is 56:1,6-7; Tv 67:2-3,5,6-8; Rm 11:13-15,29-32; Mt 15:21-28
Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.
Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.
Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn, vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.
Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an”, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)
Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)
Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi!” (Mt 14, 22 – 33).
Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
2023
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống

Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người
Nietzche, một triết gia vô thần đã ngạo nghễ tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết rồi”. Ông muốn khai tử Thiên Chúa và cho rằng, con người ngày nay đã đạt đến cao điểm của nền văn minh khoa học, nên Thiên Chúa không còn lý do để hiện hữu. Ông đã phạm một sai lầm rất lớn khi muốn loại bỏ Thiên Chúa và vào cuối đời, ông đã chết trong tuyệt vọng. Cũng tương tự, triết gia Jean Paul Satre đã trở thành con người vô thần khi chối từ Thiên Chúa. Ông cảm thấy cuộc đời của mình hoàn toàn trống rỗng và vô nghĩa như một cơn buồn nôn. Để diễn tả tâm trạng bất an nơi mình, ông đã viết cuốn ‘La Nausée’ (cơn buồn nôn). Cho dù nhiều người đang cố gắng đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để chạy theo chủ nghĩa vô thần hiện sinh, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu. Tuy nhiên, chỉ khi nào chúng ta đi sâu vào cảm thức đức tin, chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện hữu của Ngài và tiếp cận được Ngài.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Các Vua đã thuật lại câu truyện về ngôn sứ Elia trên đường đến núi Hô-rep để gặp Chúa. Chúa không ở trong những tiếng động ầm ĩ của gió bão, cũng không ở trong những tiếng rung chuyển của cơn động đất hay trong ngọn lửa hừng hực phun trào trên đỉnh núi cao. Cuối cùng, Chúa đã đến với Elia trong tiếng gió thổi hiu hiu rất âm thầm và nhẹ nhàng. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng vậy, có biết bao tiếng động ồn ào làm cản che đôi tai khiến chúng ta không nghe được tiếng Chúa nói, hoặc bịt kín đôi mắt khiến chúng ta không thể nhận ra dung mạo của Chúa. Sự ồn ào gây nên không phải bởi những tiếng gầm rú của xe cộ ngoài đường phố hay bởi những loa nhạc mở hết công suốt tại các phòng trà. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, của lòng tham nơi con người khi họ đang hướng về một lối sống hưởng thụ và ích kỷ. Chính cuộc sống duy vật ấy đang dần khai tử Thiên Chúa, và hình ảnh của Thiên Chúa đang dần trở nên mờ nhạt trong tâm hồn con người ngày hôm nay.
Cũng tương tự như thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại giai thoại Chúa Giêsu đi trên biển để đến với các môn đệ, nhưng các ông tưởng là thấy ma. Con thuyền lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các ông khiếp sợ. Sự sợ hãi đã khiến các ông không nhận ra Chúa. Trong cuộc sống hiện nay cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nhận ra sự hiện diện của Chúa cho dù Ngài đang đứng bên cạnh chúng ta, đặc biệt mỗi khi chúng ta chìm ngập trong sợ hãi và bị những bóng ma cản che con mắt đức tin. Đó là bóng ma của tiền bạc, của lạc thú, của một nếp sống hưởng thụ khi chỉ nghĩ đến bản thân mình một cách ích kỷ. Phêrô đã dần dần nhận ra Chúa và muốn đến với Ngài. Nhưng khi nỗi sợ hãi dâng cao, ông lại từ từ lún chìm giữa lòng biển khơi ngập sóng. Những bóng ma trong đêm tối dễ làm cho con người chúng ta khiếp sợ. Sự khiếp hãi làm sói mòn đức tin và nó đốt cháy lòng tín thác của chúng ta đặt để nơi Chúa.
Thưa ngài, xin cứu con với
Đây là lời cầu cứu của thánh Phêrô lúc ông đang từ từ lún chìm vì sợ. Con thuyền của các tông đồ đang lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các Ngài hoảng loạn. Nỗi sợ hãi tăng cao khi các ông tưởng nhìn thấy một bóng ma đang lù lù tiến đến. Cũng vậy, khi cuộc đời chúng ta cứ bình lặng êm trôi, chúng ta rất dễ hướng lòng về Chúa. Nhưng khi gặp nhiều thử thách với bao sóng dữ như muốn nuốt chửng, chúng ta dễ bị chao đảo và vuột mất niềm tin nơi mình. Triết gia Karl Marx đã từng mỉa mai nói rằng “Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng nơi phận người đầy khổ đau, là tiếng kêu cứu của một con người bị áp bức mà không biết bấu víu vào đâu. Ảo tưởng đó sẽ bị xóa bỏ, khi xã hội con người đạt đến tự do bình đẳng, không còn người bóc lột người và tất cả được no cơm ấm áo”. Nhận định của ông rất phiếm diện và ngày nay, học thuyết Marxism đang dần dần bị con người đào thải. Niềm tin tôn giáo không phải là một thứ thuốc phiện gây mê như ông đã từng nói. Càng sống sung túc về đời sống vật chất, con người lại càng cảm thấy nhu cầu cần đi tìm kiếm một thực tại linh thánh để có thể khỏa lấp những khao khát sâu xa nơi mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm cho con người thỏa mãn những khát vọng sâu xa ấy.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của thánh Phaolô được nói đến trong bài đọc 2 hôm nay. Vị Thánh Tông đồ đã trải qua nhiều đau khổ, nhưng luôn kiên định trong niềm tin vào Đức Giêsu. Thánh nhân viết : “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không nguôi. Nếu tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,2-3). Ngài viết tiếp : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo (Rm 9,35). Phaolô đã vượt qua được những sóng gió vì Ngài đã cắm sâu vào mầu nhiệm Thập giá cùng với Đức Kitô, đã vượt qua mọi sợ hãi để luôn bình thản trước những cơn sóng dữ của cuộc đời. Vì vậy Thánh nhân đã kết luận : “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô” (Rm 9,39).
Đào sâu cảm thức đức tin
Có rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa như Louis Pasteur, Copernic, Newton, Thomas Edison,v…v… Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của ông Louis Amstrong, phi hành gia đầu tiên người Mỹ đã đặt chân lên đến mặt trăng. Vừa sau khi phi thuyền đáp xuống, ông đã quỳ gối, giơ tay làm dấu Thánh giá để biểu thị đức tin nơi mình. Cũng vậy, ông Newton, một khoa học gia lỗi lạc, khi nhìn ngắm trăng sao để nghiên cứu bầu trời, đã cảm thấy con người rất nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, là kiệt tác do bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Ông luôn sống khiêm tốn để ngày càng đi sâu vào cảm thức đức tin. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Phêrô : “Hỡi kẻ kém lòng tin, sao lại hoài nghi”. Đây cũng là lời trách cứ Chúa nói với chúng ta, mỗi khi đức tin của chúng ta bị chao đảo. Để đức tin nơi chúng ta được nuôi dưỡng và được kiện cường, điều kiện tiên quyết là phải có một tấm lòng biết mở rộng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Maria là thầy dạy đức tin và cũng là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học hỏi thái độ đức tin nơi Ngài.
Kết luận
Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa : “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.
Tác giả: GB. Văn Hào, SDB
2023
Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con
13.8
Chúa Nhật thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
1 V 19:9,11-13; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Rm 9:1-5; Mt 14:22-33
Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Tin Mừng, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Tin Mừng thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15).
Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Phải chăng đoạn Tin Mừng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo…
Phêrô xuất hiện, và ông đã đáp trả lời trấn an của Thầy mình. Ông tin rằng đây không phải là một bóng ma, một phantasma, nhưng là chính Chúa Giêsu Đấng đang gọi mời ông và các môn đệ. Phêrô bắt đầu bước xuống biển và đi trên mặt nước. Nhưng một lần nữa, ông lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên. Quyết tâm của ông bị chao đảo. Ông từ từ lún chìm trong dòng nước. Cho dù Chúa Giêsu có nói hay không nói với Phêrô “ Sao kém tin thế”, thì Phêrô cũng đã gào lên với Chúa “Thưa Thầy, xin cứu con”.
Đây là một động thái tổng hợp cả hai mặt: vừa nghi ngờ khiến ông bị chìm, vừa bày tỏ lòng tin như một phương sách cuối cùng. Lòng tin đó khởi dẫn ông tìm đến ơn cứu độ giữa lúc bị chìm dưới biển. Không phải chỉ Phêrô, nhưng tất cả những ai lúc đó đang ở trên thuyền, chứng kiến những sự kiện nói lên sự trọng thị đối với Chúa Giêsu – chính xác hơn là sự tôn phục Ngài, chúng ta cũng như các tông đồ sẽ phải thốt lên “ Đúng Ngài là con Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã mặc khải uy quyền của Ngài vượt trên sức mạnh thiên nhiên và khuất phục cả những mãnh lực làm chúng ta chảo đảo sợ hãi. Nhưng quan trọng hơn hết, Ngài khải thị cho chúng ta chính thần tính của Ngài và biểu tỏ sức mạnh có thể cứu lấy những gì đã hư mất.
Đa phần chúng ta chưa từng có kinh nghiệm về sự hiện diện linh thánh của Thiên Chúa sâu xa như các môn đệ, và trải nghiệm đức tin giống như các ngài đã kinh qua khi thắng vượt được sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi. Các ngài e rằng, mình có thể rơi vào những ảo giác bên ngoài nhằm đánh lừa , và cái họ thấy trước mắt chỉ là một bóng ma đầy kinh khiếp.
Vì thế, đây là mấu chốt khiến câu chuyện ma trong trình thuật Tin Mừng hôm nay trở nên khá thú vị. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng đến với chúng ta trong hình hài thân xác, hoặc giữa cơn bão tố, hay trong lúc chúng ta chao đảo đức tin. Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong muôn vàn cách thái khác nhau. Ngôn sứ Elia đã đến một cái hang trên núi Horeb, ngọn núi của Chúa, để gặp Chúa. Nhưng Chúa không hiện diện trong cơn giông bão. Ngài không có mặt trong cơn động đất, trong núi lửa, nhưng Chúa đến trong “tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ”. Sau khi Elia nghe những âm thanh nhẹ nhàng này, ông tiến ra đứng trước cửa hang để đón gặp Chúa. Trong sự thanh vắng sau cơn bão tố, Chúa đã xuất hiện , hoàn toàn tĩnh lặng giữa núi rừng. Thần khí của Chúa đã đến với Elia dưới một một dạng thức thiêng liêng. Người ta có thể sánh ví, Ngài đến giống hệt như một bóng ma vậy.
Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.
Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử. Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.
Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó, Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa: “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.