2023
Chứng nhân Phục Sinh
9.4 Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
St 10:34,37-43; Tv 118:1-2,16-17,22-23; Cl 3:1-4; 1 Cr 5:6-8; Ga 20:1-9
Chứng nhân Phục Sinh
Chúa Ki-tô đã Phục Sinh như trong tin mừng Gio-an 20,1-9 đã tường thuật một cách tỉ mỉ như một nhân chứng đã mắt thấy tai nghe, diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là 3 nhân vật: Ma-ri-a Mac-đa-la, Phê-rô và Gio-an đã trải qua để tiến đến niềm tin “Chúa đã Phục Sinh”. Chúng ta có thể suy niệm về vai trò của Phêrô và Gioan trong ý nghĩa về Giáo hội học. Nhưng hôm nay chúng ta lưu ý đến chính cuộc phục sinh của Chúa Kitô và ý nghĩa của biến cố này.
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay đã trình thuật lại cho chúng ta nghe về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và “ngôi mộ trống” của Ngài. Những sự kiện được mô tả trong bài Phúc âm thánh Gioan không chỉ muốn minh chứng cho chúng ta biết về sự sống lại của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng điều trọng yếu nhất chính là nền tảng cho lòng tin vào mầu nhiệm của sự sống lại.
Qua các dấu chỉ bên ngoài nơi mộ Chúa, Maria Mađalena, Phêrô, và người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến đã chắc chắn rằng Thầy mình đã sống lại. “Họ đã thấy và họ đã tin” (Ga 20,8). Điều này cho chúng ta thấy được niềm tin mãnh liệt của họ, mặc dầu trước đây họ vẫn chưa hiểu được Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết như thế nào!
Đức tin là một điều không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi một người Kitô hữu. Có đức tin là một điều cần thiết, tuyên xưng đức tin lại là một điều cần thiết hơn nữa. Trong niềm vui trọng đại của ngày Chúa Giêsu Phục sinh, chúng ta hãy cùng nhau dành một chút thời gian để suy niệm niềm tin yêu nầy.
Thánh Phao-lô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,… chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền” (1Cr 15,12-19).
Vậy Phục Sinh là gì? Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh?
Phục Sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt là ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giê-su hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết nhưng khi nói rằng Ngài Phục Sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Nhưng quan trọng hơn nữa, Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và sự sống lại của chúng ta. Điều Chúa nói trước đây: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24) bây giờ trở nên sự thực qua việc Chúa sống lại.
Khi chúng ta nói về mầu nhiệm, bất cứ mầu nhiệm nào nhưng nhất là mầu nhiệm Đức Giêsu sống lại, mầu nhiệm đó có liên quan đến ta cách riêng biệt và ta không thể giả vờ không biết điều ấy, mầu nhiệm này liên kết chặt chẽ với đời sống và hạnh phúc của ta. Một mầu nhiệm từ đó con người không thể “trốn thoát” mà không làm phương hại chính mình.
Cần thêm rằng thật tốt và ích lợi cho ai “chạm” đến hoặc được mầu nhiệm ấy chạm đến. Có người nghĩ rằng vì là mầu nhiệm nên điều đó làm nhục ta, làm ta mất danh giá, đánh mất tự chủ và sự cao cả, đánh gục ta ngay từ nền tảng lý trí và dẫn ta vào đường lối mù quáng của sự cả tin. Chẳng có gì sai lạc cả! Đối diện với mầu nhiệm nghĩa là với điều gì vượt trên việc ta kinh nghiệm về sự vật và con người, là dấu chỉ của cội nguồn cho thấy rằng con người không hoàn toàn là trần tục, và được mời gọi đến một thế giới cao hơn cái cát bụi trần đời này.
Sau cùng, mầu nhiệm nhắc nhớ, làm sống lại nơi con người nơi mà từ đó nó phát xuất ra, sứ mạng của nó ở trần gian, điểm đến và mục đích cuộc đời của nó. Đó chẳng phải là sự cao cả của con người khi sánh với thế giới thụ tạo đó sao?
Hôm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, sự sống chiến thắng sự chết, bảo đảm cho sự sống vĩnh cửu của ta, được ẩn giấu nơi Thiên Chúa. Mầu nhiệm này không được truyền lại cho ta nhờ các nhà tư tưởng vĩ đại nhất lịch sử hoặc nhờ những nhà thần bí trong các tôn giáo. Ta cũng chẳng thể biết gì nhờ các pháp sư các phù thủy đủ loại qua các thời đại.
Là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh các môn đệ Đức Giê-su đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài, Tin Mừng ấy là: Ai tin nhận Đức Giê-su, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được Phục Sinh như Ngài. Ngày nay tất cả mọi người tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là là niềm tin vào sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Ki-tô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm, và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
Hãy nhìn vào mẫu gương sống động của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Ngài đã khiêm hạ để sống kiếp người như ta. Chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống. Ngài đã mặc cho cuộc sống một chân lý, một ý nghĩa, một hướng đi. Cuộc sống có ngọt ngào có đắng cay, có lao nhọc có nghỉ ngơi, có thành công có thất bại. Tất cả đều mang một ý nghĩa. Trong Đức Kitô, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, và cái chết sẽ trở thành khởi đầu cho cuộc sống.
2023
SỰ KHAI TRIỂN CÂU CHUYỆN THƯƠNG KHÓ
CHÚA NHẬT THƯƠNG KHÓ
Mátthêu 26:14–27:66
SỰ KHAI TRIỂN CÂU CHUYỆN THƯƠNG KHÓ
Câu chuyện thống khổ của Chúa Giêsu là phần xưa nhất của truyền thống Kitô Giáo còn được duy trì. Ông Phaolô tường thuật hình thức đầu tiên của truyền thống này: Đức Kitô đã chết vì tội của chúng ta, Người được mai táng, được chỗi dậy vào ngày thứ ba, xuất hiện với ông Kêpha, và sau đó với nhóm Mười Hai (). Truyền thống xưa này thì đáng chú ý vì nó ngắn gọn và thiếu chi tiết.
Ông Phaolô đã thêm vào những lần xuất hiện khác: với hơn năm trăm tín hữu cùng một lúc, với ông Giacôbê, với các tông đồ, và sau cùng với ông Phaolô (). Sự nhấn mạnh này thì hoàn toàn dựa vào những lần xuất hiện của Đức Giêsu phục sinh; không có các chi tiết về sự thống khổ và sự chết của Đức Giêsu.
Khi thế hệ Kitô Hữu đầu tiên chết đi, một tường thuật ngắn về sự thống khổ của Đức Giêsu được khai triển: Người bị bắt, bị xử, và bị đóng đinh. Người ta khao khát muốn biết hơn nữa, vì thế tường thuật này được trau chuốt để bao gồm việc xức dầu thơm, bữa Tiệc Ly, và những âm mưu để bắt giữ Người.
Vào lúc các tác giả phúc âm sáng tác, câu chuyện dài về sự thống khổ của Đức Giêsu được phát triển thành hai phần chính. Một, được trình bày trong Máccô và Mátthêu, có đặc điểm là các chủ đề về sự ứng nghiệm. Thánh Vịnh 22 và 69, Isaia, và các đoạn Kinh Thánh khác được ứng nghiệm trong sự thống khổ của Đức Giêsu.
Phần khác, được trình bày trong Luca và Gioan, có đặc điểm là thêm nhiều lời nói của Đức Giêsu. Nếu người ta so sánh các tường thuật về bữa Tiệc Ly, Máccô và Mátthêu trình bày một cảnh tượng đơn sơ với chỉ một vài câu nói của Đức Giêsu, Luca thêm vào cuộc đối thoại, và Gioan hoàn toàn bỏ qua việc thiết lập Thánh Thể nhưng tường thuật bốn chương đối thoại giữa Đức Giêsu và các tông đồ! Các học giả cho rằng loại khai triển này bắt nguồn từ “sự sùng mộ đạo đức.”
Điều gì đã thúc đẩy việc dần dà phát triển câu chuyện thống khổ này? Tuy dường như nó trái ngược với chúng ta, câu chuyện thống khổ là một tiếp diễn bình thường sau sự phục sinh. Sự kiện là Đức Giêsu đã được Thiên Chúa nâng dậy là điều duy nhất mà Kitô Hữu Địa Trung Hải cần để củng cố đức tin nơi Đức Giêsu.
SỰ ĐAU KHỔ VÀ NHỤC NHÃ
Người đã chết thật nhục nhã, đó là cái chết dành cho những tội phạm xấu xa nhất. Tuy Người đã chết theo truyền thống kiên cường nhất của người Địa Trung Hải, cách chết này đã xóa sạch tất cả những gì tốt lành Người đã thực hiện. Nếu Đức Giêsu thực sự là người được Thiên Chúa yêu dấu, Thiên Chúa đã không để Người bị khuất phục bởi kẻ thù.
Nhưng Thiên Chúa đã lật ngược cách suy nghĩ của người Địa Trung Hải. Khi nâng Đức Giêsu dậy từ cõi chết, Thiên Chúa đã vinh danh Đức Giêsu hơn bất cứ ai từng có. Người đã xóa sạch sự nhục nhã của Đức Giêsu.
Từ điểm thuận lợi này, các tác giả phúc âm đã có thể giải thích lại câu chuyện thống khổ. Trong khi nó tường thuật các biến cố dường như nhục nhã như bị phản bội, các chứng gian, phiên tòa chiếu lệ, sự ức hiếp, và tương tự, việc đọc cẩn thận cho thấy Đức Giêsu làm chủ số phận của mình trong suốt câu chuyện. Người biết Người làm đúng, Người tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ minh chứng cho Người. Đức Giêsu thì giống như bất cứ người nào khác phải đau khổ một cách vô tội trong lịch sử của Ít-ra-en: tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh lại mọi sự.
Tuy nhiên nếu người ta không thấy được sự dẫn giải được nhận thức sau này trong các câu chuyện phúc âm, ở mức độ thuần túy văn hóa Đức Giêsu được trình bày như một anh hùng ngoại hạng. Như một người đàn ông đích thật vùng Địa Trung Hải, Người gánh chịu những cú đấm hung bạo của kẻ thù mà không nao núng, kêu gào, hay ngất xỉu. Người chịu đựng roi đòn, lời xỉ nhục, đội mão gai, bị đóng đinh – nhưng không gào thét.
Trong Mátthêu, một câu duy nhất Đức Giêsu nói (“Lạy Chúa, sao ngài bỏ rơi con?”) là một lời cầu xin phản ứng với các lời chế nhạo của những người chung quanh, họ cho rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi Người. Đây là những câu mở đầu của Thánh Vịnh 22, một lời cầu xin đầy khổ sở của tín hữu.
Các độc giả Tây Phương ngày nay vì những tin tưởng văn hóa nên họ thường không thấy được điểm này của bản văn. Trong văn hóa chúng ta, đau khổ là một sự phiền toái và có thể tránh đau khổ bởi sự tài giỏi hay y học, nên thật khó để thán phục sự kiên cường của người Địa Trung Hải được chứng tỏ trong sức chịu đựng. Trong văn hóa chúng ta, khoa học được coi gần như là “tôn giáo” đối với nhiều người, nên sự quan trọng của việc được Thiên Chúa nâng dậy từ cõi chết, được phục hồi danh dự sau khi nhục nhã ê chề, đã bị mất đi trong việc tìm kiếm ý nghĩa hợp lý và những chứng cớ có tích cách biện giải.
Làm thế nào chúng ta có thể noi gương sự vâng phục của Đức Giêsu trong một thế giới rất khác biệt về văn hóa?
2023
Cùng Chúa lên Giêrusalem
2.4 Chúa Nhật Lễ Lá
Mt 21:1-11; Is 50:4-7; Tv 22:8-9,17-18,19-20,23-24; Pl 2:6-11; Mt 26:1427; Mt 27:11-54
Cùng Chúa lên Giêrusalem
Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Chúa Giêsu. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giêsu, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là kinh thành của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó lòng họ chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò gian ác phản thầy.
Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Các môn sinh nghĩa thiết nhất đã vội quên mất thầy mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Chúa Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Chúa Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Chúa Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Chúa Giêsu Kitô (Phil 2,1-5).
Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Giá như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa”.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Chúa Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Giá. Chúa Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Chúa Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết.
Ngược lại, Chúa Giêsu – Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Chúa Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu phải tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) :“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”?
Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm Thập giá và cái chết. Nếu Chúa Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Chúa Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Chúa Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải.
Khi thuật lại việc Chúa vào thành hôm nay, Matthêô không những chỉ muốn giới thiệu Người là Ðấng Thiên sai cứu thế hiền từ và khiêm nhu, đến để chịu nạn; nhưng tác giả còn muốn nhắc nhở chúng ta về thân phận của Hội Thánh, của mọi cộng đoàn Dân Chúa, của mọi tín hữu hết thảy đã đến từ dân ngoại: tất cả chỉ là hiện thân của Vị Tiên tri thành Nagiarét xứ Galilê đang đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế mà vẫn bị hất hủi. Thế thì chúng ta phải xin Người cho chúng ta được những tâm tình của Người để làm công việc vào Ðền Thờ hôm nay, để rồi vào đời cứu thế như Người. Chúng ta hết thảy hãy tiến lên với những tâm tình ấy.
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
2023
Niềm tin đời sau
26.3 Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Năm Mùa Chay
Ed 37:12-14; Tv 130:1-2,3-4,5-6,7-8; Rm 8:8-11; Ga 11:1-45; Ga 11:3-7,17,20-27,33-45
Niềm tin đời sau
Càng gần ngày Lễ Lá, phụng vụ như càng muốn giới thiệu cho dân Chúa rõ hơn cây Thập Giá. Thập Giá xem ra chỉ là một cây gỗ bị đóng chéo lại, nhưng thật ra lại bao hàm cả một mầu nhiệm tình thương. Việc Chúa Giêsu làm cho Lazarô sống lại khi ông đã chết chôn được 4 ngày, cho thấy rõ chiều kích thâm sâu của ơn cứu độ. Cũng như trong sách Tiên tri Ezêkiel, tác giả đã cho độc giả thấy rằng cần phải có Thần Khí của Thiên Chúa thì con người mới sống được. Theo Thánh Phaolô tông đồ thì phải có Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, mới làm cho xác phàm hay chết của chúng ta được sống như Ngài đã khẳng định trong thư gửi Tín hữu Rôma, mà lát nữa chúng ta sẽ nghe. Tất cả đều nói lên tình thương của Thiên Chúa qua công cuộc cứu độ của Đức Kitô.
Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng.
Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu.
Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria. Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó là Martha, Maria và Lagiarô.
Sống lại đầu tiên đó là sống lại với niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: “Lạy Thầy, con tin”. Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người.
Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15).
Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18).
Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại.
Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được mộtngười đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.