2023
Sửa lỗi
10.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Ed 33:7-9; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Rm 13:8-10; Mt 18:15-20
Sửa lỗi
Con người luôn có lầm lỗi. Ai nên khôn mà không dại một lần. Và chắc chắn là không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Phạm lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Có điều là chẳng mấy ai trong chúng ta dám nhận mình có lỗi. Chẳng mấy ai dám thú nhận về những lầm lỗi của bản thân.
Đó là điều mà chúng ta cần phải được người khác sửa lỗi. Nếu không được người khác sửa sai thì mình sẽ không bao giờ đứng lên làm lại cuộc đời. Một đứa bé để có thể nói đúng, nói không sai chính tả cần được cha mẹ sửa giọng nhiều lần mới có thể nói không bị ngọng. Về nhân bản con người cũng phải được người khác dạy bảo, sửa lỗi thì mới hoàn thiện chính mình.
Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi.
Vì thế không được phép nói cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi nhau nhằm mục đích tốt cho nhau. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu.
Sống dưới bầu trời này mọi người đều là anh em của nhau: “tứ hải giai huynh đệ”. Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia dình của Ngài.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”.
Chúa Giêsu nhắc chúng ta trách nhiệm đó. Vấn đề ở đây không có ý nói về việc tôi can thiệp vào đời tư của người khác, nhưng chúng ta phải ý thức hơn đó chính là trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em mình, giúp cho tha nhân sống tốt hơn, vì ích lợi cho chính người anh em đó, vì ích chung của Giáo Hội.
Tuy nhiên, việc sửa lỗi tha nhân, giúp đỡ anh em sửa đổi con người mình là một công việc tế nhị, khó khăn, không mấy dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng phải hy sinh và kiên nhẫn. Khi sửa lỗi tức là tôi đang can thiệp, đang đụng chạm trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: đầu tiên, cá nhân đối diện cá nhân.
Kế đến, nếu người phạm lỗi không chịu nghe những lời góp ý để sửa lỗi lầm, thì chúng ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý. Việc này sẽ thấu tình đạt lý và có sức hoán cải hơn.
Cuối cùng, nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo. Đây quả là một biện pháp khôn ngoan và hữu ích. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm lỗi. Mặt khác, biện pháp đó còn giúp cho người có lỗi có dịp hồi tâm, có cơ hội phản tỉnh để nhận ra sự thiếu sót, lỗi lầm của mình. Khi đó, không một tội nhân nào còn có lý do gì khác để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Sửa lỗi nhau để giúp nhau nên tốt là điều cần, nhưng nếu việc làm đó vì phô trương, khoe khoang, sẽ không đem lại lợi ích cho ai cả; trái lại hậu quả tai hại sẽ lớn hơn nhiều. Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta hiểu được rằng muốn sửa lỗi anh em, cần thiết phải thành tâm, yêu thương họ như Chúa, nhất là ý thức để Chúa hoán cải họ hơn là chính mình hoán cải…
Việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
2023
Con đường Chúa đã đi qua
3.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
Gr 20:7-9; Tv 63:2,3-4,5-6,8-9; Rm 12:1-2; Mt 16:21-27
Con đường Chúa đã đi qua
Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.
Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu.
Hơn nữa, trong Tin Mừng, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người.
Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.
Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” ( Mt 16, 21). Đối diện với đau khổ là cách thế mà Chúa Giêsu đã hoàn thành để thực hiện sự mạng cứu độ nhân loại. Người không kêu trách hay trốn tránh nhưng Người thực hiện với một tình yêu dành cho Thiên Chúa và nhân loại, qua sự vâng phục Thánh ý Cha.
Chúng ta cùng tìm hiểu về lời mặc khải mà Người đã tỏ lộ cho các môn đệ thân tín: “ Người phải chịu”. “ Người phải chịu” không phải là đón nhận một cách bất lực, nhưng với lòng tự nguyện. “ Người phải chịu” để Người xác tín vào sứ mạng của Người khi đến trần gian này, dù trong đau khổ nhưng Người thổ lộ cho chúng ta thấy rõ thánh ý, quyền năng và tình yêu diệu huyền của Thiên Chúa dành cho loài người. “Người là Con Thiên Chúa hằng sống” chẳng lẽ Người không có đủ quyền năng để thoát khỏi mọi đau khổ? Nhưng Người đã chịu nhiều đau khổ bởi Người tôn trọng tự do của con người, của những kẻ làm hại Người. Người đã chịu đau khổ để muốn nói với chúng ta giá trị của những đau khổ không phải là sức mạnh để hủy diệt, nhưng là cơ hội để chúng ta thể hiện tình yêu. Đó là sức mạnh đang tiềm ẩn bên trong chúng ta.
Chúng ta đang sống trong một xã hội không ngừng phát triển, con người càng chú trọng để phát triển chất lượng cuộc sống, đặc biệt chủ nghĩa cá nhân ngày càng được đề cao. Phải chăng thông điệp mà Đức Giêsu mạc khải và mời gọi hôm nay đã quá xưa so với thời đại “4.0” của chúng ta? Trong khi mọi người tìm đủ mọi cách để khẳng định mình và hưởng thụ một cuộc sống sung túc, Đức Giêsu lại mời gọi những kẻ muốn theo Người phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.
Thật là một thách đố! Sống trên đời, ai chẳng muốn sống sung sướng, do vậy, họ tìm ra những phương thế để thoát nghèo, thoát khổ. Khi nhìn “đời là bể khổ”, Đức Phật đã chỉ cho các đồ đệ của mình và những ai muốn thoát khổ bằng cách diệt dục. Còn Chúa Giêsu không dạy chúng ta cách thoát khổ như Đức Phật, nhưng Ngài mời gọi chúng ta đón nhận và dùng chính những điều đó như những phương thế để đạt được sự sống đời đời. Thực ra, lời mời gọi hơn hai ngàn năm của Chúa Giêsu không hề lỗi thời nhưng rất thiết thực với xã hội chúng ta hôm nay.
Là người Kitô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen
2023
Đức tin và cuộc sống
Đức tin và cuộc sống
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM A
Bài đọc 1: Is 22,19-23; Bài đọc 2: Rm 11,33-36; Mt 16,13-20.
Tuyên xưng đức tin và sống đức tin, đó là đặc tính căn bản của người Kitô hữu. Nhờ tin vào Chúa, chúng ta sẽ sống thánh thiện và hoàn hảo hơn. Tuy vậy, đức tin thường bị chao đảo trước những giông bão của cuộc đời. Nhiều khi bị những đam mê trần tục lôi kéo, chúng ta quên Chúa và sống như thể Ngài không hiện diện. Tin vào Đức Kitô không dừng lại những công thức ngoài môi miệng, nhưng phải được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, bằng một cuộc sống ngay lành, chân thực và bác ái.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Người ta bảo Con Người là ai?”, các môn đệ tỏ ra lúng túng. Điều này chứng tỏ, các ông chưa hiểu rõ Thầy mình, mặc dù chấp nhận đi theo làm môn đệ Người. Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức tin vừa là một ân ban đến từ Thiên Chúa, vừa là nỗ lực cố gắng của con người để đón nhận và gìn giữ cách trung thành. Vì là ân ban của Thiên Chúa, nên người này có thể được ban, người khác lại không. Vì là nỗ lực của con người, nên người ta có thể khước từ hay đón nhận, có thể trung thành hay phản bội đức tin đã lãnh nhận.
![]() |
Từ việc tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã trao cho ngài quyền “tài phán” hay còn gọi là “quyền ràng buộc và quyền tháo cởi”. Điều này giải thích lý do tại sao có cơ chế và quyền hành trong Giáo hội. Để thiết lập trật tự, chính Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo hội mà người đứng đầu là thánh Phêrô, quyền tha thứ hay ràng buộc. Giáo hội nhân danh Chúa Giêsu để thi hành quyền này. Tuy vậy, Giáo hội không cai trị bằng quyền lực theo kiểu thế gian, mà bằng đức yêu thương, vì yêu thương là cốt lõi của Đạo Chúa. Giáo hội luôn phải đặt đức yêu thương làm đầu, noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mình làm giá cứu chuộc con người. Trong Cựu Ước, Chúa đã trao chìa khóa nhà Đavít cho ông Eliaqim, để ông đóng và mở (Bài đọc I). Tuy vậy, quyền bính này vẫn chỉ là quyền bính thế gian. Quyền bính mà Chúa Giêsu trao cho thánh Phêrô là “chìa khóa nước trời”. Đây là một sứ mệnh cao cả, vì đó chính là sứ mệnh của Thiên Chúa, Đấng có quyền ban thưởng cho thánh nhân hay trừng phạt người tội lỗi. Hơn hai ngàn năm qua, Giáo hội vẫn thi hành quyền bính được trao phó. Mặc dù có những lạm dụng về quyền bính nơi một số cá nhân, nhưng không vì thế mà Giáo hội đánh mất căn tính và nhiệm vụ của mình, đó là phục vụ con người và đem ơn cứu độ của Chúa Giêsu cho mọi dân tộc.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình liên lỉ, trải dài trong suốt cuộc đời và có nhiều khó khăn thử thách. Tuy vậy, chúng ta không bước đi một mình mà có Chúa đi cùng, để rồi “mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người” (Bài đọc II). Xác tín điều này, sẽ thấy tâm hồn thanh thản an vui và kiên vững trên đường đời.
Thánh Phêrô trong Tin Mừng hôm nay đã bị Chúa Giêsu quở trách là “Satan”, vì ông định can ngăn Chúa khi Người thông báo cuộc khổ nạn đã gần kề. Vừa trước đó, Chúa khen ngợi ông là “người có phúc” vì ông được Chúa Cha mặc khải để có thể tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thánh Phêrô được khen ngợi vì đã nhận rõ sứ mạng thiên sai của Chúa. Ấy vậy mà sau đó Chúa lại trách ông là Satan. Satan là kẻ luôn quấy phá và làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa. Satan cũng là kẻ gian dối và là nguyên nhân của biết bao chia rẽ hận thù. Nhiều lúc chúng ta cũng có quan niệm lệch lạc như Phêrô, tức là hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu. Điều này cũng cho thấy, để duy trì và gìn giữ một đức tin tinh tuyền, cần phải luôn tỉnh thức và thận trọng, để tránh những sai lầm và ngộ nhận. Hiện nay, có nhiều nhóm tín hữu mệnh danh là “được Chúa mặc khải” để tuyên truyền những điều sai lạc về đức tin, kèm theo những lời đe dọa cho những ai khước từ điều họ tuyên truyền. Những người này nhân danh Chúa để gây chia rẽ và làm cho nhiều người lung lạc đức tin. Trước những trào lưu này, người tín hữu phải cẩn trọng và tuân giữ những gì thuộc về đức tin tinh tuyền, theo giáo huấn chính thống của Giáo Hội, vì Giáo Hội là người quản lý kho tàng đức tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm về cách thức sống đức tin của mỗi người. Có nhiều người chuyên cần trong những bổn phận đạo đức, nhưng lại gian dối và thủ đoạn trong mối tương quan với anh chị em. “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”, ước chi đó là lời tuyên xưng của mỗi cá nhân. Cùng với lời tuyên xưng này, chúng ta cố gắng thực hiện bổn phận của người Kitô hữu, để xây dựng Nước Trời ngay trên trần gian, trong cuộc sống hằng ngày.
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
2023
Tuyên xưng niềm tin
27.8 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Is 22:19-23; Tv 138:1-2,2-3,6-8; Rm 11:33-36; Mt 16:13-20
Tuyên xưng niềm tin
Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.
Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?
Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.
Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó tay chấm com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc.
Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh.
Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11, 4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63; Mc 14, 61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26, 64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22, 67-68). Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (1 Ga 4, 8).