2020
Mục Tử Theo Tiêu Chuẩn Giêsu
Mục Tử Theo Tiêu Chuẩn Giêsu
Dùng lối ẩn dụ để chỉ mối tương quan mật thiết giữa mục tử và đàn chiên, vừa nhấn đến tầm quan trọng giữa những mục tử và người giữ cửa, Đức Giêsu phác họa cho chúng ta thấy rong ruổi trên những vùng đất hoang vắng, những mục tử phải tìm ra những đồng cỏ tươi tốt để nuôi chiên và không ngừng chăm sóc, bảo vệ chiên của mình. Vì chiên và mục tử cùng sống chung nên hiểu nhau, biết nhau và tạo nên mối thân tình. Các mục tử thường đặt tên cho những con chiên họ yêu quý, quan tâm đến từng con, nên chiên mến anh, nghe lời anh chứ không nghe theo người lạ.
Các mục tử thường quy tụ các đàn vật của họ vào một ràn chung mỗi tối. Ràn thường làm bằng đất đá hoặc cây cối vây quanh, che chắn an toàn, bảo đảm cho đàn vật khỏi mọi nỗi hiểm nguy. Họ cắt cử một người bảo vệ canh cửa. Mỗi sáng, khi một mục tử lên tiếng với người giữ cửa, đàn chiên của anh ta sẽ nhận ra tiếng anh và nghe theo lời hướng dẫn của anh, nhờ đó anh dễ dàng tách chiên của mình ra khỏi đàn.
Cách duy nhất để đến với chiên, chứng tỏ mình là mục tử, là phải đi qua cửa, được người giữ cửa mở ra. Chính cái cửa xác định ai là kẻ trộm cướp và ai là mục tử. Đức Giêsu xưng mình là “Cửa ràn chiên” là thế. Ai không qua cửa mà vào, nhưng lại trèo qua lối khác mà vào, tức là không đến với đàn chiên cách chính thức, kẻ ấy là trộm cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.
Đức Giêsu là cánh cửa cứu độ duy nhất mở ra để người ta đến với Thiên Chúa. Nếu người ta nhờ Đức Giêsu mà biết được Thiên Chúa chân thật và biết mình đang ở trong sự che chở quyền năng của Người là thế nào, người đó sẽ có cảm nhận về sự an toàn và đảm bảo, mọi âu lo sợ hãi đều tan biến.
Đùng lối ẩn dụ để kể câu chuyện này, tâm trí Đức Giêsu hướng đến đoàn chiên khốn khổ là dân của Thiên Chúa, đang bị cai trị bởi những mục tử giả là các nhà lãnh đạo dân, những kẻ giữ trọng trách coi sóc đoàn chiên như người giữ cửa, nhưng đã xử với đàn chiên như những kẻ trộm cướp, là giết hại và phá hủy. Họ không thực hành theo đường lối của Thiên Chúa, cũng không theo lời dạy của Người, chỉ lo cho bản thân, lo kiếm lợi lộc, chạy theo bạo quyền, mà bỏ mặc dân Chúa lầm than.
Khi Đức Giêsu bảo những kẻ đến trước đều là quân trộm cướp, Người không có ý nói đến các ngôn sứ và những người được Chúa sai đến, nhưng Người muốn ám chỉ đến những kẻ tiếm đoạt quyền hành tối cao của Thiên Chúa, dùng những mưu đồ chính trị bất lương để tranh giành địa vị, dùng bạo lực để thống trị và áp bức, gây ra những khổ đau, bất công cho dân Chúa, như đang xảy ra tại Paléttin.
Tuyên bố mình là cửa, Đức Giêsu cho thấy Người đang thực hiện đúng chức năng bảo vệ đoàn chiên. Không những thế, Người còn phân biệt và giúp mọi người nhận chân được ai là mục tử tốt, kẻ nào là trộm cướp: Ai qua cửa mà vào. Ai được Thiên Chúa sai đến. Ai nắm giáo huấn của Người. Ai có tương quan tốt đẹp với chiên người ấy là mục tử đích thật.
Đức Giêsu còn là cửa sinh tử, cửa dẫn đến ơn cứu độ, đến đồng cỏ sự sống, sự sống viên mãn. Không loại trừ ai khỏi ơn cứu độ, ai tin vào Đức Giêsu, nghĩa là ai qua Cửa thì được cứu, vì Người đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Hôm nay chúng ta đang đi theo Ai? phục vụ Ai và vào Cửa nào? Làm sao nhận ra tiếng mục tử mà theo?
Hôm nay, những mục tử được Chúa giao phó đoàn chiên có nhận ra chiên của mình mà chăn dắt, hay chỉ chăn dắt chiên của người khác? Có biết tên của từng con chiên để gọi hay chỉ biết đến cách làm cho “danh mình được cả sáng?” Có che chở và bảo vệ chiên của Chúa giữa những nanh vuốt của thú dữ hay bỏ chiên để lo cho mạng sống và địa vị mình?
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Chiên và Chủ
CHIÊN VÀ CHỦ
Tôi mới đến chỗ mới được dăm ba tháng. Nơi ở mới có con chó giữ nhà. Lần đầu lên nhận phòng nó gừ gừ vì trông thấy người lạ. Cũng là chuyện bình thường với “những kẻ giữ nhà”.
Vài hôm sau đó, nó không còn gừ gừ như khi mới đến nữa mà xem ra có “thiện cảm” hơn với khách lạ. Người em nơi sở tại bảo tôi gọi nó là “down” thử xem sao ? Hẳn nhiên lúc đầu nghe còn lạ nên nó cũng chả ngoe nguẩy đuôi. Vài ngày sau đó, cứ ngày nào cũng gọi “down” và ngạc nhiên nó không chỉ như là nghe mà còn tới khoèo chân người mới nữa.
Tò mò hỏi trước đây gọi nó là gì mà sao giờ khi gọi “down” nó hiểu. Em mới nói là em kia gọi nó là asâo. Thì ra với Jrai, con chó gọi là asâo.
Chuyện là em kia hay chơi với nó và gọi nó đi về quê có việc cũng đã lâu. Có lẽ cũng chả ai quan tâm nó và gọi nó để rồi khi có người nào đó xem ra chú tâm đến nó gọi nó thì nó theo. Chó đơn giản như vậy, nhất là khi cho nó ăn nữa thì nó càng quấm quýt. Cũng dễ hiểu vì 3 con chó nơi ở trước nó cũng đi theo người cho nó ăn như vậy.
Asâo đã được chuyển tên từ ngày ấy và nó đi theo “chủ” mới đặt tên cho nó. Thật dễ thương khi “chủ” mới đu đưa trên ghế nó cứ tới gần như thật quen biết. Dường như chú bé rất khôn để quấn quýt với người mới về và không thèm nghe ai nữa. Có lẽ nó cảm nhận được tình thương của “chủ” mới để không nghe ai khác nữa.
Hình ảnh con chó tên Down nơi ở mới dễ cho mình liên tưởng đến con chiên ở vùng Do Thái. Ở Việt Nam không có chiên thì mình có thể ví von con Down như con chiên vậy.
Con chiên là con vật rất quen thuộc với vùng đất Palestine. Chính vì thế, Chúa Giêsu mượn hình ảnh con chiên để nói về đoàn, về chủ chăn.
Chắc có lẽ không cần dông dai dài dở, ai ai trong chúng ta cũng hiểu được tâm tình mục tử của chủ chăn dành cho con chiên. Chủ chăn thật thì yêu thương và thậm chí bỏ cả tính mạng mình vì đoàn chiên. Và, Chúa Giêsu đã mất mạng vì đoàn chiên. Chiên dữ, chiên gian ác, chiên độc đã ăn thịt chủ của mình. Ngược lại, đoàn chiên nghe tiếng Chủ đã sống chết với Chủ và hy sinh cả tính mạng của mình.
Và, quy tắc hay nguyên tắc dường như bất biến với con chiên đó là nếu như nghe tiếng chủ và đi theo lời của chủ, đi theo chỉ dẫn của chủ thì không bao giờ bị ăn thịt, bị người khác bắt. Những con chiên không nghe tiếng chủ, nhữn con chiên làm theo ý mình sẽ bị bắt và bị ăn thịt là chuyện đương nhiên. Mất mạng, thương tích với những con chiên không ngoan ngùy là điều rất có thể. Kinh nghiệm đó mỗi người chúng ta đều thấy chứ không cần chú giải hay tìm hiểu cao siêu.
Thật thế, rất đơn giản trong đời thười, ai trong chúng ta cũng hơn một lần gặp được con chó, con mèo, con cá, chim trong đời sống thường ngày để rồi ít nhiều gì tâm tình của những con đó với chủ nuôi.
Một người em nuôi một hồ đầy cá, cứ sáng sáng cho chú em vuốt bàn tay và đàn cá vô tư lượn theo tay em nhìn rất đẹp. Thấy vậy, tôi cũng vuốt theo như em đã vuốt nhưng vuốt mãi đàn cá vẫn cứ như vô cảm. Đàn cá đi theo bàn tay của chủ nó và với thói quen như thế chúng sẽ được ăn mồi và no nê cùng với tâm tình của chủ.
Con vật, xem ra vô tri vô giác nhưng rồi hình như nó cũng có cái “cảm” trong cuộc sống của nó. Nó vô hồn nhưng xem ra nó cũng có chút chút gì đó cảm với chủ nó mà chúng ta không thể minh giải hay khó hiểu.
Ngày hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành cùng với Giáo Hội để rồi mỗi người chúng ta có dịp nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Có thể như con chó Down như là bài học cho ta (ví von cho vui chứ không thể nào so sánh người với chó). Nếu như trước đây nó theo em kia nhưng từ ngày có “chủ” mới về nó hoàn toàn nghe tiếng của “chủ”. Từ ngày đó, dường như nó được “ăn ngon mặc ấm” chứ không còn bơ vơ nữa. Xem ra nó rất khôn để đi theo phò “chủ” mới vì những người trong nhà không hề quan tâm nó. Nhà cũng không phải là vắng người nhưng nó chỉ nghe duy nhất người chủ cũng tên Down của nó mà thôi.
Ta cũng thế, từ ngày ta lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, ta được khoác vào mình chiếc áo mới và với tên gọi mới cùng với tên Thánh Bổn Mạng. Chuyện quan trọng là ta có biết từ bỏ cái con người cũ, cái tên gọi cũ của ta để ta nghe theo và đi theo Chủ Chăn Giêsu hay không mà thôi.
Văng vẳng bên tai của ta có rất nhiều tiếng gọi : tiếng gọi của tiền bạc, của danh vọng, của quyền lực, của cái tôi … Tất cả những tiếng gọi đó xem ra là phù du và ai nào đó lao theo những tiếng gọi đó xem chừng mất mạng sống như chơi chứ không phải giỡn. Và đó là điều chắc chắc chứ không gọi là xem chừng nữa. Chính vì thế, chỉ có một con đường duy nhất là nghe theo tiếng gọi Giêsu – Chủ Chăn Nhân Lành – chủ chăn đích thực của đời ta.
Cuộc đời này quá ồn ào, quá náo nhiệt để ta đánh mất sự lặng thinh để không nghe tiếng Chúa. Khi ta không nghe tiếng Chúa nói nữa thì ta mất phương hướng cũng như không cảm nhận được tình Chúa thương ta.
Để nghe tiếng gọi của Giêsu, cần lắm sự lặng thinh cũng như lắng đọng trong tâm hồn.
Nghe tiếng gọi Giêsu ở đâu ? Xin thưa nghe tiếng gọi Giêsu trong Thánh Kinh, trong Lời của Ngài, trong tất cả những biến cố của cuộc sống.
Thánh Kinh mãi mãi là Kim Chỉ Nam cho đời sống của chiên con để rồi là chiên thì buộc lòng phải nghiền ngẫm, nghiên cứu, lắng nghe lời Chúa trong Kinh Thánh. Lời Chủ Chăn ở đâu nữa ? Lời Chủ Chăn Giêsu được nói nơi môi miệng của các vị mục tử như đại diện Chúa Giêsu giảng dạy lời Chúa trong cuộc đời.
Cạnh đó, tất cả những biến cố trong cuộc sống như là Lời mà Thiên Chúa muốn ngỏ với con người. Chỉ những ai lắng đọng tâm hồn thì mới nghe được dấu chỉ Chúa muốn nói gì.
Thời đại ngày hôm nay, thế giới đang gặp phải Coronavirus, con chiên nhận ra rằng đó chính là sự dữ không phải do mục tử Giêsu làm mà là do những con chiên quái ác làm để tiêu diệt con chiên của mục tử Giêsu. Đứng trước những nguy khó này, con chiên của mục tử Giêsu cần phải giữ mình, cần phải bám vào Mục Tử Giêsu hơn bao giờ hết để được bình an và được cứu sống.
Con chiên của Thầy Giêsu trong lúc này cần lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe lời chỉ dẫn của các vị mục tử trong Hội Thánh để cùng nhau đi theo một Chủ Chăn duy nhất là Chủ Chăn Giêsu.
Lúc này cũng là lúc cám dỗ hơn bao giờ hết với những tiếng gọi của chủ chăn giả, chủ chăn gian ác nên là chiên, người Kitô hữu được mời gọi cân nhắc và biện phân để đừng nghe tiếng lạ khác mà đi theo. Và như vậy, trong lúc này, mỗi người chúng ta lại cố gắng, lại xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta có đủ thinh lặng, có đủ niềm tin để nghe và bước theo Chủ Chăn Giêsu đích thực. Nếu như chúng ta nghe tiếng khác và bỏ đàn thì chúng ta sẽ tự hủy đời mình thôi. Mỗi người chúng ta có quyền lựa chọn, không ai thay thế lựa chọn cho chúng ta được.
2020
Chúa Nhật Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Chúa Nhật Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Ca nhập lễ
Tv 32,5-6
Tình thương Chúa chan hoà mặt đất,
Lời Chúa sáng tạo chín tầng trời. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ðức Kitô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
Cv 2,14a.36-41
Thiên Chúa đã đặt Đức Giê-su làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
14a Trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với dân chúng rằng : 36 “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”
37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác : “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì ?” 38 Ông Phê-rô đáp : “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40 Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói : “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.
Đáp ca
Tv 22,1-3a.3b-4.5.6 (Đ. c.1)
Đ.Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
1Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.2Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành3avà bổ sức cho tôi.
Đ.Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
3bNgười dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.4Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Đ.Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
5Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Đ.Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
6Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Đ.Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
Bài đọc 2
1 Pr 2,20b-25
Anh em đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô tông đồ.
20 Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. 21 Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. 22 Người không hề phạm tội ; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. 23 Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. 24 Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. 25 Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.
Tung hô Tin Mừng
Ga 10,14
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 10,1-10
Tôi là cửa cho chiên ra vào.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng : “Thật, tôi bảo thật các ông : Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh ; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. 5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” 6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
7 Vậy, Đức Giê-su lại nói : “Thật, tôi bảo thật các ông : Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp ; nhưng chiên đã không nghe họ. 9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng vui sướng trong suốt thời gian mừng mầu nhiệm Vượt Qua; để mầu nhiệm thánh này không ngừng đem lại ơn cứu độ và trở nên nguồn vui bất tận cho mọi người tín hữu. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng Phục Sinh
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa mọi lúc, nhất là trong đêm (ngày, mùa) cực thánh này, chúng con càng hãnh diện tung hô Chúa khi Ðức Ki-tô đã được hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nhờ Người con cái sự sáng được sinh ra để sống muôn đời, và khi các cửa Nước Trời được mở ra đón các tín hữu, vì nhờ sự chết của Người, chúng con khỏi phải chết, và trong sự sống lại của Người, chúng con được phục sinh.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Vị Mục Tử nhân lành đã sống lại,
chính Người đã thí mạng vì con chiên,
và chịu chết vì đoàn chiên của Người.
Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là mục tử nhân lành, chúng con là đoàn chiên đã được Chúa cứu chuộc bằng máu châu báu của Ðức Giêsu Kitô. Cúi xin Chúa giờ đây thương đoái, dẫn đưa chúng con vào đồng cỏ Nước Trời. Chúng con cầu xin …
2020
Bánh Hằng Sống
Thứ Bảy tuần III PS
Ga 6, 52-59
BÁNH HẰNG SỐNG
Trang Tin mừng hôm nay nằm cuối trình thuật Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài chính là manna mới và đích thực, mang lại sự sống đời đời cho những ai “ăn thịt và uống máu” Ngài. Chúa Giêsu cố gắng thuyết phục người Do thái tin và đón nhận Ngài vì lợi ích của chính họ, nhưng thất bại. Lý do chủ yếu có lẽ nằm ở chỗ họ không thể vượt qua cách hiểu thông thường, vật chất về việc ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu, và cho đó là việc man rợ, mất nhân tính.
Tuy nhiên, ta cũng có thể nghĩ đến một lý do khác, đó là từ chỗ bất ngờ, họ đi đến chỗ nghi ngờ lòng yêu thương, nhân từ của Chúa Giêsu, Đấng tuyên bố hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của người khác.
Diễn từ về “Bánh Hằng Sống – Bánh Trường Sinh – Bánh Từ Trời…” khá dài nhưng nó đánh dấu một bước quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu mạc khải căn tính của Người, đúng hơn là Người vén màn cho nhân loại thấy thiên tính của Người. Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa – Một chân lý mà sau này Giáo Hội phải mất một thời gian dài, mở các công đồng để xác định và chống lại các bè rối phủ nhận Chúa Giêsu có hai bản tính và Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói và nhấn mạnh “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống” (c. 53). Hậu quả của việc không đón nhận, không chấp nhận Người làm của ăn của uống nuôi dưỡng thân xác, thì kẻ ấy ắt phải chết. Có lẽ người Do Thái cảm thấy gớm ghiếc khi nói đến ăn thịt và uống máu một con người, huống chi đây lại khẳng định có vẻ ngạo mạn là : Nếu không ăn uống máu thịt Con Người ấy, thì sẽ chết.
Khi nghe Chúa nói như vậy, họ chỉ nghĩ về cái chết thể lý, nên họ cứng lòng. Họ chỉ quan tâm đến việc ăn thịt và uống máu con người Giêsu Nagiaret, nên họ không chịu tin. Họ không đào sâu tìm hiểu về Đấng Mêsia, về một vị Thiên Chúa đã làm người, về tình yêu Thiên Chúa đang tuôn tràn Ơn Cứu Độ, nên họ đã từ chối và có những lời lẽ, tư tưởng, hành vi xúc phạm đến Người.
Và ta thấy dù sao đi chăng nữa thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn bền vững. Chúac Giêsu vẫn kiên trì giải thích và dạy dỗ họ “Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời và kẻ ấy sẽ sống lại trong ngày sau hết” (c. 54). Chúa Giêsu đưa ra một chân lý mới. Chân lý này không khác chân lý trước, nhưng chỉ nói lên điều tích cực, nói lên niềm vui ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Ơn cứu độ này chính là cuộc sống muôn đời. Vì con người ai cũng “ham sống, sợ chết” và Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống sẽ thực hiện điều ấy cho những ai mở lòng đón nhận Ngài. Thiên Chúa là Đấng Trung Thành, Ngài không lừa dối ai bao giờ “Thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (c. 55).
Ta thấy chỉ có của ăn, của uống này mới nuôi sống con ngươì mà thôi. Của ăn của uống này mới thanh tẩy vết nhơ tội lỗi nơi con người do ông bà nguyên tổ gây nên và chính của ăn của uống ấy mới đưa con người tháp nhập vào đời sống vĩnh cửu của Ba Ngôi. Của ăn của uống này là “hàng thật”, đưa đến sự sống”thật”, vì đó chính là Thịt Máu của một con người đã nói “Tôi làm chứng cho Sự Thật. Ai nghe Sự Thật đứng về phía tôi”(Ga 18, 37), “Tôi là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”(Ga 14, 6).
Hơn nữa, “nếu ai ăn thịt và uống máu, kẻ ấy sẽ ở lại trong Người và Người sẽ ở lại trong kẻ ấy”(c. 56). Như vậy, nếu chúng ta ăn và uống máu Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu sẽ sống trong ta và ta sống trong Chúa Giêsu. Lúc đó, ta và Chúa Giêsu sẽ nên một, như Đức Lang Quân kết hiệp với Hiền Thê. Thiên Chúa kết hiệp với con người. Khi đó, Chúa sẽ biến máu tội lỗi của ta sẽ trở thành máu công chính, thịt con người trở thành thịt của Con Thiên Chúa. Thân xác nhơ bẩn của ta sẽ nên sáng láng như thân xác phục sinh của Người. Trong chúng ta sẽ có giòng máu và sự sống của chính Thiên Chúa.
“Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà sống như vậy” (c. 57). Chúa Giêsu so sánh giữa việc kết hợp giữa Người với kẻ ăn thịt và uống máu Người như việc kết hợp giữa Chúa Con và Chúa Cha vậy. Nếu ta ăn thịt và uống máu Người, ta sẽ sống nhờ người như Người đã sống nhờ Cha. Từ đó, ta đi vào tương quan với Ba ngôi Thiên Chúa, được thông phần sự sống và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ba Ngôi. Vậy, khi ăn thịt và uống máu Chúa, ta không còn sống cho chính mình nữa, nhưng là “ Đức Kitô sống trong ta” (Gal 2, 20).
Thế giới mà chúng ta đang sống vẫn bị đánh giá là ngày càng ích kỷ. Con người ngày càng thu mình lại, nhiều lúc vì lợi ích của mình mà bất chấp mọi điều khác. Sống trong một xã hội như thế, có nguy cơ con người không những không làm điều tốt cho người khác, nhưng tệ hơn, còn tỏ ra nghi ngờ, dè chừng trước những việc tốt của người khác, vì cho rằng nó trái “tự nhiên” và chỉ là vỏ bọc bên ngoài.
Như vậy, nhân loại sẽ không còn là cộng đồng hiệp thông, nhưng biến mình thành ốc đảo, thành “kẻ thù” của nhau. Người môn đệ Chúa Giêsu được mời gọi đem tinh thần yêu thương của Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực tại của thế giới này, giới thiệu và giúp mọi người tiến tới Chúa Giêsu, Tình Yêu tự hiến và là khuôn mẫu của mọi tình yêu. Để làm được điều đó, người môn đệ trước hết phải cảm nhận cách sâu xa tình yêu trao ban của Chúa Giêsu qua việc siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, và lấy đó làm khuôn mẫu cho mình.
Kết thúc trang Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc lại một lần nữa về chân lý mà người Do Thái không chịu tin nhận “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 58).
Và rồi ta nhận ra lòng thương xót của Chúa Cha qua Chúa Giêsu “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một” (3, 16), nhưng chúng ta vẫn dửng dưng và từ chối “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (1, 11).
Thực tế, nếu chúng ta đón nhận Con của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ (3, 17). Như người cha hằng mong đứa con đi hoang trở về, như người mục tử đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất, như bà goá soi đèn, quét nhà tìm thấy đồng bạc bị mất (Lc 15). Thiên Chúa cũng khắc khoải đi tìm con người và Ngài bao dung, rộng lượng đón nhận chúng ta trở về với Ngài. Thật vậy, Thiên Chúa đã đi bước trước trong công cuộc hoà giải chúng ta với Ngài bằng giá máu của chính Con Một yêu dấu của Ngài. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con là kẻ có tội.