2023
Cho Ði Tất Cả
27.11Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
St 1:1-6,8-203; Lc 21:1-4
Cho Ði Tất Cả
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tần bị loại ra bên lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra, người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh, có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Câu chuyện người đàn bà góa nghèo nàn đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay, gây nhiều ấn tượng cho nhiều người. Vì đồng xu nhỏ bà góa bỏ vào hòm tiền trong nhà thờ là tất cả sản nghiệp của bà. Đó là số tiền bà dành dụm để nuôi sống chính bản thân mình. Bà bỏ vào hòm tiền dâng cúng hoàn toàn khác với những đồng tiền của những người giàu dâng cúng đồng tiền dư thừa, còn bà góa bỏ vào hòm tiền đồng tiền nhỏ nhoi ít ỏi.
Chúa quan sát việc người ta dâng cúng vào thùng tiền trong đền thờ, Ngài thấy một bà góa túng thiếu bỏ hai đồng tiền kẽm như mọi người, Chúa liền gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy người đàn bà góa ấy, đã bỏ vào thùng tiền đền thờ nhiều hơn tất cả mọi người. Bà đã cho đi không phải bằng phần dư dả, nhưng đã cho đi tất cả phần sống để nuôi thân. Khi dâng cúng hai đồng cuối cùng, bà đã không nghĩ đến bữa ăn tối hôm nay sẽ ra sao. Việc làm của bà hôm nay đã được Thiên Chúa chúc phúc. Ngài đã nhận thấy nơi bà góa một tấm lòng hảo tâm tuyệt đối, cho đi nhưng không và đặt niềm tin tưởng, với lòng thành phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả.
Vấn đề đáng suy nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ. Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Với câu chuyện của bà góa hôm nay Đức Ki-tô muốn nhắc nhở ta điều gì? Đó là lòng quảng đại. Nếu giúp đỡ ai, hãy giúp một cách thành tâm, sống hết lòng, hãy dâng theo khả năng của mình. Chúa luôn yêu quý, đánh giá cao khi con người biết dâng lên Thiên Chúa với tấm lòng thành. Dù chỉ những sự đơn sơ, mộc mạc nhỏ bé dưới mắt người đời, nhưng đối với Thiên Chúa đã được ghi nhận trên trời.
Mỗi người chúng ta cũng hãy tự chất vấn lòng mình : Tôi có tinh thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng xã hội.
2023
Thứ Hai Tuần XXXIV – Mùa Thường Niên
Thứ Hai Tuần XXXIV – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 84,9
Điều Chúa phán là lời chúc bình an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu
và những ai hướng lòng trí về Người.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, xin thúc đẩy chúng con thêm hăng hái nhiệt thành cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, để nhờ đó, chúng con được Chúa ban ơn trợ lực dồi dào hơn nữa. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Đn 1,1-6.8-20
Họ không thấy đứa trẻ nào được như Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a.
Khởi đầu sách ngôn sứ Đa-ni-en.
1 Năm thứ ba, đời vua Giơ-hô-gia-kim cai trị xứ Giu-đa, vua xứ Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem. 2 Chúa trao vua xứ Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim cùng với tất cả đồ dùng của Nhà Chúa vào tay vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Ông này mang những thứ ấy về đền thờ các thần của ông ta ở xứ Sin-a và bỏ vào nhà kho của các thần.
3 Nhà vua truyền cho quan đứng đầu các thái giám là Át-pơ-nát chọn trong số con cái Ít-ra-en một vài đứa trẻ thuộc dòng dõi hoàng gia và hàng quý tộc mà dẫn về. 4 Những đứa trẻ này sẽ phải đứng chầu trong điện nhà vua, vì thế, chúng phải là những đứa không khuyết tật, diện mạo khôi ngô, đã được học mọi lẽ khôn ngoan, hiểu rộng biết nhiều, trí khôn sắc sảo. Ông Át-pơ-nát còn phải dạy cho chúng biết chữ viết và tiếng nói của người Can-đê. 5 Nhà vua dành cho chúng khẩu phần hằng ngày trong thức ăn rượu uống của nhà vua. Chúng phải được nuôi dạy ba năm, và sau thời hạn đó, phải ra mắt nhà vua. 6 Trong số các trẻ ấy có Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a là những người Giu-đa. 8 Phần Đa-ni-en, vì quyết tâm không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua, nên đã xin quan cho mình khỏi bị ô uế. 9 Chúa đã khiến cho Đa-ni-en được cảm tình của quan đứng đầu các thái giám. 10 Nhưng quan này nói với Đa-ni-en rằng : “Ta sợ đức vua ; vua đã chỉ định đồ ăn thức uống cho các ngươi. Vua mà thấy mặt mũi các ngươi gầy ốm hơn các bạn cùng tuổi thì chính các ngươi sẽ khiến ta mang tội trước mặt vua.” 11 Đa-ni-en thưa với người được quan đứng đầu các thái giám chỉ định để trông coi Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a : 12 “Xin quan cứ thử các tôi tớ của quan đây trong mười ngày : cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước, 13 rồi quan nhìn sắc mặt chúng tôi và sắc mặt những đứa dùng thức ăn của nhà vua. Lúc đó quan thấy thế nào thì cứ xử với các tôi tớ của quan như vậy.” 14 Quan chấp nhận lời các cậu ấy xin và thử trong mười ngày. 15 Hết mười ngày, quan thấy các cậu sắc mặt hồng hào, da thịt đầy đặn hơn tất cả những đứa đã dùng thức ăn của nhà vua. 16 Thế là quan giám thị cất phần thức ăn rượu uống của các cậu đi và cứ cho ăn rau. 17 Bốn cậu bé này đều được Chúa ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan. Riêng Đa-ni-en còn được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng. 18 Khi đến thời hạn phải đưa bọn trẻ ra như vua đã truyền, thì quan đứng đầu các thái giám đem chúng ra trước mặt vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. 19 Nhà vua nói chuyện với chúng, và trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a. Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, 20 và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc.
Đáp ca
Đn 3,52.53-54.55-56 (Đ. c.52b)
Đ.Xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
52Lạy Chúa, chúc tụng Ngài
là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển.
Đ.Xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
53Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang,54chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng.
Đ.Xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
55Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá
mà thấu nhìn vực thẳm,56chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh.
Đ.Xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Tung hô Tin Mừng
Mt 24,42a.44
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 21,1-4
Đức Giê-su thấy một bà goá túng thiếu bỏ vào thùng tiền hai đồng tiền kẽm.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
1 Khi ấy, Đức Giê-su đang giảng dạy trong Đền Thờ. Người ngước mắt lên nhìn, thì thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. 2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. 3 Người liền nói : “Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, tuy thật túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì khi con cái bị tội ác phân tán, Chúa đã muốn nhờ máu Con Chúa và quyền năng Chúa Thánh Thần mà quy tụ nên một về với Chúa, để khi đoàn dân Chúa được hợp nhất bởi mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi mà ca tụng thượng trí vô biên của Chúa, thì đoàn dân Chúa là Hội Thánh được nhận biết là thân thể Chúa Kitô và đền thờ Chúa Thánh Thần.
Vì thế, hiệp với ca đoàn các Thiên Thần, chúng con ca ngợi Chúa, và hân hoan tuyên xưng rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, theo lời Chúa dạy, chúng con dâng những lễ vật này để chúc tụng Thánh Danh; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và giúp chúng con hằng tuân giữ luật Chúa truyền, hầu cũng được trở nên của lễ đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Tv 116,1-2
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
vì tình Chúa thương ta thật vững bền.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa vừa cho chúng con được hạnh phúc tham dự vào sự sống của Chúa, xin dủ lòng thương đến chúng con và đừng để chúng con phải lìa xa Chúa bao giờ. Chúng con cầu xin…
2023
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Âm nhạc có tầm quan trọng như thế nào đối với tôn giáo trong Kinh thánh mà ta có thể dễ dàng suy ra qua từ “ca hát”, là một trong những từ được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Trong Cựu ước từ này được nhắc đến 309 lần và trong Tân ước được nhắc đến 36 lần.
Ở nơi Thiên Chúa nhập cuộc để tiếp xúc với con người thì lời nói không còn đủ nữa. Những tồn tại của cuộc sống được chạm đến và tự khắc trở thành bài ca: những gì là của con người không còn đủ để con người diễn tả nữa, và vì thế, con người mời gọi tất cả các thụ tạo cùng với mình trở thành bài ca: “Thức dậy đi, hồn tôi hỡi, thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm, tôi còn đánh thức cả bình minh. Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ, giữa lòng muôn nước, con đàn hát xướng ca. Vì tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (Tv 57, 9-11). Bài hát đầu tiên được tìm thấy, trong Kinh thánh, là sau cuộc vượt qua biển đỏ. Lúc ấy dân Israel được giải phóng hoàn toàn khỏi ách nô lệ, họ đã cảm nghiệm tràn trề quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh thất vọng thê lương. Giống như Môsê từ lúc nhỏ được cứu khỏi nước sông Nil và bằng cách này ông thực sự đã được cứu sống, cũng vậy đến lượt mình dân Israel cảm thấy mình được cứu ra khỏi nước, được tự do, lần nữa được trở về với chính mình từ bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Phản ứng của dân trước biến cố nền tảng của ơn cứu độ trong trình thuật kinh thánh được diễn tả bằng những từ sau: “Họ tin vào Thiên Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ Người” (Xh 14,31). Tuy nhiên, phản ứng thứ hai tiếp sau đó cao hơn so với lần đầu, với sự thôi thúc cơ bản: “Bấy giờ ông Môsê cùng con cái Israel hát mừng Thiên Chúa…” (Xh 15,1). Trong việc cử hành đêm vượt qua các tín hữu đã cất lên bài ca này, từ năm này sang năm khác, họ ca hát như thể đó là bài ca mới của họ, vì họ cũng biết rằng, họ được “kéo ra khỏi nước” nhờ quyền năng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa giải thoát để có được cuộc sống đích thực. Sách Khải huyền của thánh Gioan tiếp tục mở rộng thêm đề tài này.
Rồi khi những kẻ thù cuối cùng của Dân Chúa đã bước vào bức màn lịch sử – bộ ba satan, bao gồm con thú, tượng của nó và con số tên tuổi của nó – nghĩa là khi mọi thứ dường như bị biến mất, đối với dân thánh Israel của Thiên Chúa, ngay trước một sức mạnh quá mức như vậy thì vị tiên tri được ban cho thị kiến về người chiến thắng: “Tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa” (Kh 15,2). Điều nghịch lý xưa kia nay càng trở nên mạnh mẽ hơn: những con thú khổng lồ hung dữ, với sức mạnh truyền thông và kỹ năng của nó lại không thắng nổi; người chiến thắng là con chiên được hiến tế. Và thế là một lần nữa âm thanh lại vang lên cách rạch ròi, bài ca của Môsê, người tôi tớ Chúa, giờ đây đã trở thành bài ca của Con Chiên.
Bài ca phụng vụ được đặt trong khung cảnh của lịch sử vĩ đại đầy căng thẳng này. Đối với dân Israel biến cố cứu độ từng xảy ra ở vùng biển Canne vẫn còn là lý do để ca ngợi Thiên Chúa, là chủ đề cơ bản trong việc ca hát của họ trước mặt Thiên Chúa. Đối với các tín hữu, sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng đã vượt qua “biển đỏ” của sự chết đã bước vào thế giới tăm tối và đã phá vỡ những cánh cửa ngục tù, là cuộc xuất hành thực sự, biến mình thành một sự hiện diện mới trong bí tích rửa tội: phép rửa là cuộc sống được bén rễ trong cái đồng thời của việc Chúa Kitô đi xuống âm phủ và lên trời, qua đó Người đón nhận chúng ta bước vào trong sự hiệp thông của cuộc sống mới. Ngay trong ngày tiếp theo sau niềm vui của cuộc Xuất hành, dân tộc Israel đã nhận ra rằng họ phải đối diện với sa mạc, với những nguy hiểm của nó và các mối đe dọa không hề chấm dứt trong cuộc viễn hành hướng về Đất hứa. Nhưng luôn có những hành động của Thiên Chúa cho phép họ tiếp tục hát bài ca của Môsê và cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của quá khứ nhưng là Thiên Chúa của hiện tại và tương lai. Tất nhiên, trong mỗi bài ca mới cũng có ý thức về tính tạm thời và nhu cầu về một bài ca mới và sự dứt khoát, nhu cầu cứu độ không còn kèm theo bởi bất kỳ khoảnh khắc sợ hãi nào, mà chỉ bằng bài thánh ca ngợi khen. Những ai tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, thực sự nhận ra được ơn cứu độ viên mãn và biết rằng, người tín hữu giờ đây tìm thấy khoảnh khắc ấy trong “giao ước mới”, giờ đây họ hát lên bài ca mới, là bài ca sau cùng và thực sự mới, vì điều hoàn khác biệt đã xảy ra với sự phục sinh của Chúa Kitô. Những gì mà chúng ta đã nói trong phần đầu về giai đoạn trung gian của thực tại Kitô giáo – không còn là cái bóng, cũng không phải thực tại đầy đủ, mà là “hình ảnh” – vẫn đang có giá trị ở đây: bài ca mới sau cùng đã được cất lên, nhưng tất cả những đau khổ của lịch sử cần được thực hiện, tất cả mọi nỗi khổ được gom góp và được dâng lên trong hy lễ ngợi khen, để chúng ta được biến đổi trong bài hát ngợi khen.
“Dẫn vào tinh thần phụng vụ”, San Paolo, Cinisello Balsamo 2001, trang 132-134.
Chuyển ngữ: G. Võ Tá Hoàng
2023
Vua tình yêu
26.11 Lễ Chúa Kitô Vua
Ed 34:11-12,15-17; Tv 23:1-3,3-4,5-6; 1 Cr 15:20-26,28; Mt 25:31-46
Vua tình yêu
Ông có phải là vua không? Đó là câu hỏi Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu trong một phiên toà xét xử. Ông là Tổng Trấn đại diện cho chính quyền Rôma. Trong vụ việc này, ông là Thẩm phán và Chúa Giêsu là “bị can”. Câu trả lời không dễ. Nếu Đức Giêsu không phải là vua, thì Người cũng chỉ như mọi vĩ nhân đã từng hiện hữu trong lịch sử và đã qua đi. Nếu còn lại thì chỉ là những giáo huấn như di sản cho hậu thế. Nhưng, nếu Người là Vua thì sao? Chấp nhận Người là Vua sẽ làm đảo lộn cả thế giới. Tuyên xưng Người là Vua sẽ làm cho lòng người day dứt khôn nguôi. Bởi lẽ vị Vua ấy sẽ xét xử mỗi người chúng ta, không chỉ vào lúc tận cùng của thời gian, nhưng mỗi giây mỗi phút của cuộc đời.
Philatô chỉ lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn:“Tôi là người Do thái sao?”. Quả là một câu nói khinh thường và vô trách nhiệm. Và phải chăng đó cũng là lối sống và là cách hành động của ông? Xem ra ông là vị quan rất quyền lực, nhưng thực tế cũng chỉ là tay sai và nô lệ cho quyền thế, cố gắng giữ lấy chiếc ghế chứ không muốn xử trí mọi cái theo sự thật hay lẽ phải. Trước thái độ mập mờ của Philatô, Chúa Giêsu đã thẳng thắn xác định:“Nước tôi không thuộc về thế gian này…”.
Khi nói“Nước tôi”, Chúa Giêsu không phủ nhận mình là Vua, nhưng không phải là Vua theo kiểu người Do thái và Philatô quan niệm. Ngài là vua theo ý muốn của Thiên Chúa chứ không theo mơ ước của người đời. Rõ ràng là vương quốc của Ngài không nhắm vào mục tiêu chính trị, càng không sử dụng những phương thế trần gian như vũ khí, bạo lực, quân lực… Chúa Giêsu không phải là Đấng Mêsia theo kiểu phàm nhân, lo thực hiện công cuộc giải phóng theo kiểu phàm tục. Thật ra, Philatô biết chỉ vì ghen ghét mà người Do Thái bắt nộp Đức Giêsu. Nhưng rất tiếc, ông biết một đàng nhưng rồi làm một nẻo.
Tiếp theo đó, Chúa Giêsu còn xác định căn tính và sứ mạng của mình: “là để làm chứng cho sự thật.” vì Nước của Ngài là Nước của sự thật, vì Thiên Chúa, Cha của Ngài là Đấng Chân Thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát con người, cho con người được sống trong bình an và hạnh phúc. Tuy nhiên, không mấy ai mà ham sống thành thật? Kẻ thành thật thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá quỷ quyệt nhiều khi được coi là khôn ngoan. Khi sự thật bị bưng bít thì tất cả đều ra tối tăm và sự gian ác lan tràn. Chính trong ý nghĩa đó mà Chúa Giêsu mạnh dạn tuyên bố trước Philatô:“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đó cũng là một lời mời gọi xoáy vào tận tâm não của những ai còn chút lương tri, để họ kịp nhận ra chân lý làm người. Thực tế, không mấy ai dám đứng về phía sự thật, vì sợ bị liên lụy, có khi mất cả thanh danh, sự nghiệp. Chính vì sợ như thế mà Philatô đã giao Chúa Giêsu cho binh lính hành hình, và cuối cùng giao cho người Do Thái để tử hình. Quả thật, sự dối trá đưa đến chỗ hủy diệt người công chính.
Đức Giêsu là vua vũ trụ, Đức Giêsu là vua tình yêu, lời công bố như thế chỉ có ý nghĩa, khi người ta hiểu vua vũ trụ, vua tình yêu, khác xa vua chúa quan quyền ở trần thế này. Nếu công thành danh toại là mơ ước tự nhiên của con người, hẳn sự thật mất lòng, sẽ là sự tinh tế vừa khôn vừa khéo, cha ông ta cảnh giác con cháu trong cư xử. Biết rút kinh nghiệm, nhớ được lời răn dạy: khôn ngoan đối đáp người ngoài, sẽ thích hợp hơn trong phạm vi chính trị, ngoai giao. Đức Giêsu hỏi Philatô, và còn tiếp tục hỏi chúng ta: “Quan tự ý biết tôi là vua, hay có ai khác nói với quan về tôi” ? Căn bản của thành công, phải là nói hay, làm giỏi, lý lẽ khiến người ta cúi đầu, không phản kháng, phải rõ ràng, chặt chẽ, như xã hội vẫn nói phải là tâm phục khẩu phục.
Con đường đến thành công, con đường tới hạnh phúc, dài, ngắn, sẽ chẳng ai cân đo xuể, nhưng phải bắt đầu từ bước chân của mình, từ nỗ lực bản thân, cùng với trái tim biết rung động. Đức Giêsu thành công trong việc kêu gọi nhóm 12, không phải bằng uy quyền, nhưng là bằng sức mạnh tình yêu. Đức Giêsu ở bên Philatô không phải để cầu cạnh, phân bua, đấu tranh tư tưởng về quyền lực vật chất và tinh thần. Qua cuộc đối thoại của Philatô, dám chắc mọi người đều được Đức Giêsu khai lòng mở trí, hầu biết thế giới vạn vật này, luôn có Vị Vua tình yêu hiện diện, thôi thúc mọi người đạt tới hạnh phúc thật. Tục ngữ ca dao nói rằng: không ai yêu con bằng cha, không ai yêu con bằng mẹ; mẹ yêu con bằng dòng sữa ngọt, cha yêu con bằng giọt mặn mồ hôi. Đức Giêsu nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Cũng có nghĩa, Nước Chúa là có thật, là sự thật, là vương quốc yêu thương.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợchồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói , việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay.