2020
Lương thực Thánh Thiêng
14.6.2020 Chúa Nhật
Mình Máu Thánh Chúa
Ga 6, 51-58
LƯƠNG THỰC THÁNH THIÊNG
Bí tích Thánh Thể vẫn được Giáo hội gọi là Bí tích của sự Hiệp thông (Holy Communion). Sau khi thiết lập Bí tích Thánh Thể tại nhà tiệc ly, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha ‘Xin cho họ nên một’ (Ut unum sint) như chúng ta là một. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi, như sách Tông đồ Công vụ thuật lại :‘Họ chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung.
Bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu, là trung tâm của đời sống yêu thương của con người. Vì yêu thương Chúa Kitô đã có sáng kiến thiết lập bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Thịt Máu Ngài để nuôi dưỡng loài người chúng ta. Ngày xưa dân Do Thái đi trong sa mạc sống nhờ ăn manna từ trời và uống nước từ tảng đá vọt ra nhưng họ vẫn phải chết. Còn hôm nay, con người sống trong thời đại mới, thời đại giao ước mới của Chúa Kitô, người kitô hữu được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Chúa Kitô, Thịt Máu con Vua Trời,…nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Của ăn Thịt Máu Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sự sống đời đời như Chúa giêsu đã nói “Ai ăn Thịt Ta sẽ được sự sống đời đời”. Chúng ta sẽ sống chứ không phải chết nhờ ăn uống Thịt Máu Ngài. Chính Chúa Kitô đã xác quyết mạnh mẽ: “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống” (Ga 6, 55). Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn và của uống là những thứ thường tình nhất của đời sống con người để đưa con người vào sự sống đời đời.
Toàn bộ chương VI của Tin Mừng thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (Ga 6, 1-10), rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (Ga 6, 16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharna um, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (Ga 6, 26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: “Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống”.
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy?
Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.
Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh” cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới… Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống.
Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (Cv 2, 42-47).
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài.
Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Thánh thể là Bí tích Tình Yêu. Khi mời gọi: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một mệnh lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh mục thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử hành bằng chính đời sống của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã nói: “Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”. Đây chính là bảo chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời Chúa phán hôm nay: “Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Đứng trước mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng kinh ngạc nhưng không phải vì sự cao cả uy hùng của Thiên Chúa, nhưng là vì sự chiếu cố và tình yêu của Người đối với chúng ta. Bí tích Thánh Thể trước tiên chính là việc tưởng niệm một tình yêu không thể cao cả hơn, tình yêu hy sinh mạng sống cho bạn hữu mình.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa. Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta chia sẻ tình yêu của Chúa cho người chúng ta gặp gỡ.
2020
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
lễ trọng
Ca nhập lễ
Tv 80,17
Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo,
mật ong rừng, Người cho hưởng thoả thuê.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình Và Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết một niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
Đnl 8,2-3.14b-16a
Thiên Chúa đã ban cho anh em thức ăn mà anh em cũng như cha ông anh em chưa từng biết.
Bài trích sách Đệ nhị luật.
2 Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng : “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực ; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. 3 Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra.
14b “Anh em đừng quên Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15 Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá cứng nhất chảy ra cho anh em uống. 16a Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết.”
Đáp ca
Tv 147,12-13.14-15.19-20 (Đ. c.12a)
Đ.Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
12Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
Này Xi-on, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi !
13Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc,
con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân.
Đ.Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
14Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình,
và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo.
15Người tống đạt lệnh truyền xuống đất,
lời phán ra, hoả tốc chạy đi.
Đ.Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
19Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp,
chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en.
20Chúa không đối xử với dân nào như vậy,
không cho họ biết những điều luật của Người.
Đ.Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
Bài đọc 2
1 Cr 10,16-17
Chỉ có một tấm Bánh, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
16 Thưa anh em, khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ? 17 Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.
Tung hô Tin Mừng
Ga 6,51
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 6,51-58
Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an
51 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng : “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” 53 Đức Giê-su nói với họ : “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, bao hạt lúa mới làm nên tấm bánh này, bao trái nho mới ép thành chén rượu đây, tượng trưng sự đoàn kết giữa con cái Chúa. Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và làm cho trở nên bí tích nhiệm mầu, đem lại cho Hội Thánh Chúa ơn hiệp nhất và bình an. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng Thánh Thể
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Người là Tư Tế thật và vĩnh cửu, khi thiết lập thể thức hy lễ trường tồn, Người là Ðấng đầu tiên đã dâng mình cho Chúa làm của lễ cứu độ, và đã truyền cho chúng con dâng mà tưởng nhớ đến Người. Khi chúng con rước Mình Người hiến tế vì chúng con, thì chúng con được mạnh sức. Và khi chúng con rước Máu Người đổ ra vì chúng con, thì chúng con được rửa sạch.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và Tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh Thiên quốc chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tuy còn ở dưới thế, nhưng đã được tham dự bàn tiệc trên trời khi thông hiệp với Mình và Máu Thánh Chúa. Xin cho chúng con một khi lên cõi trời vinh hiển được cùng Chúa vui hưởng phúc trường sinh. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ca hiệp lễ
Ga 6,56
Chúa nói : “Ai ăn thịt và uống máu tôi
thì luôn kết hợp với tôi,
và tôi luôn kết hợp với người ấy.”
2020
Một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến Phụng vụ Thánh lễ
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, đã nhắc nhở về tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể như là trung tâm và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội.[1] Chính vì tầm quan trọng này, cũng như vị trí và vai trò của bí tích Thánh Thể trong đời sống của Giáo Hội, trong Thông điệp của ngài, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II thấy là cần phải lưu ý mọi thành phần của Dân Chúa về những tiêu cực và lạm dụng có thể là nhân danh chính tinh thần cởi mở của Công đồng Vatican II, trong việc cử hành thánh lễ[2]: “cần phải lên tiếng một cách cương quyết, để trong cử hành thánh lễ, những quy luật phụng vụ luôn được tuân giữ một cách đúng đắn.”[3]
Thật vậy, các quy tắc phụng vụ vốn là những yếu tố rất quan trọng và cần thiết, bởi vì các quy tắc ấy sẽ bảo đảm cho sự linh thánh trổi vượt của các cử hành phụng vụ, vốn dĩ không một hành vi nào của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét về danh hiệu lẫn đẳng cấp.[4] Phụng vụ, nhất là thánh lễ, không thuộc cá nhân, nhưng là của toàn thể Giáo Hội. Các quy tắc phụng vụ được soạn thảo liên quan đến việc cử hành thánh lễ đều nhằm mục đích diễn đạt và bảo vệ mầu nhiệm Thánh Thể.[5] Kết quả là “Linh mục nào và cộng đoàn nào trung thành cử hành thánh lễ theo quy luật phụng vụ chứng tỏ tình yêu của họ đối với Giáo Hội một cách âm thầm nhưng rõ rệt”[6].
Bài viết này – chủ yếu dựa trên Huấn thị Redemptionis Sacramentum, Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma ấn bản 2002, Bộ Giáo luật 1983 và một số tài liệu khác – nhằm trình bày về một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến phụng vụ thánh lễ, để nói lên tầm quan trọng của việc cử hành thánh lễ sao cho đúng với các quy tắc được Giáo Hội quy định. Một cách tổng quát, các quy tắc này liên quan đến:
– Nơi chốn và vật dụng của việc cử hành thánh lễ
– Việc cử hành thánh lễ
– Phụng vụ Lời Chúa
– Phụng vụ Thánh Thể
– Việc rước lễ
– Việc cho rước lễ
– Việc rước lễ dưới hai hình
– Lễ phục của các thừa tác viên trong thánh lễ.
- NƠI CHỐN VÀ VẬT DỤNG CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
- Nơi chốn
Linh mục phải cử hành thánh lễ trong một nơi thánh, trong trường hợp đặc biệt, không thể cử hành trong nơi thánh, thì cũng phải cử hành ở một nơi tôn nghiêm. Thánh Thể phải được cử hành trên bàn thờ đã được cung hiến hoặc đã được làm phép. Nếu thánh lễ được cử hành ngoài nơi thánh, có thể sử dụng một bàn xứng đáng, nhưng luôn luôn phải có trải khăn bàn thờ và khăn thánh.[7]
Linh mục không bao giờ được phép cử hành thánh lễ tại một đền thờ hoặc một nơi tôn nghiêm của một tôn giáo không phải là Kitô giáo, nếu không có phép minh nhiên của Đấng bản quyền địa phương.[8]
Không được cử hành thánh lễ trên bàn ăn, tại nhà cơm, hay những nơi dành cho việc ăn uống hay bất cứ nơi nào có thức ăn, trừ những trường hợp cần thiết hay đặc biệt. Nếu phải cử hành trong nhà ăn, thì phải giữ một khoảng thời gian tách biệt sau hoặc trước bữa ăn. Cũng không dọn thức ăn ra khi đang cử hành thánh lễ.[9]
Không được dâng thánh lễ riêng cùng lúc với thánh lễ đồng tế đang được cử hành trong cùng một nhà thờ hay nhà nguyện.[10]
Không được đồng tế thánh lễ với các tư tế hay thừa tác viên thuộc các Giáo Hội hay các cộng đoàn Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo.[11]
- Vật dụng
Các mục tử phải bảo đảm các khăn thánh của bàn thánh phải luôn luôn sạch sẽ, đặc biệt những khăn có chạm đến Mình Máu Thánh Chúa. Các khăn này phải được giặt rất thường xuyên.[12]
Cần phải chuẩn bị chu đáo để thánh lễ được diễn ra một cách sốt sắng: âm nhạc, trang trí hoa đèn, khăn thánh, bàn thờ… phải đẹp đẽ và sạch sẽ xứng đáng với việc cử hành nghi lễ cực thánh.[13] Việc cử hành thánh lễ cũng cần phải được chuẩn bị kỹ càng và cẩn thận: nghi thức, bản văn phụng vụ, bản văn thánh kinh, bài diễn giải… nhằm gìn giữ và nuôi dưỡng đức tin các tín hữu.[14]
Đĩa thánh, các bình thánh, dùng để đựng Mình và Máu Thánh Chúa, phải được làm hoàn toàn đúng với các quy tắc của truyền thống và của các sách phụng vụ. Các vật dụng này phải được làm với những chất liệu quý giá, chắc chắn và có tính nghệ thuật để bày tỏ sự tôn kính Chúa, và tránh nguy cơ làm giảm lòng tôn kính và lòng tin đối với sự hiện diện thực sự của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu. Do đó, phải loại bỏ những đồ vật không có chút nào là nghệ thuật, hay chỉ là những cái giỏ thường, hay những đồ đựng bằng thuỷ tinh, đất sét, đất nung hay bằng những chất liệu khác dễ bể, dễ hỏng.[15]
Trước khi sử dụng, các bình thánh phải được linh mục làm phép, theo các nghi lễ được các Sách phụng vụ ấn định.[16] Tốt hơn nữa là để chính giám mục giáo phận làm phép, qua đó, ngài có thể đánh giá coi các bình thánh có thật đúng với công dụng dành cho chúng không.[17]
- VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
Không được thay đổi hay biến đổi các bản văn phụng vụ thánh, vì việc thay đổi này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng là làm mất tính ổn định trong việc cử hành phụng vụ thánh, làm biến mất ý nghĩa đích thực của phụng vụ.[18]
Chủ tế chỉ đọc các lời nguyện nhập lễ, tiến lễ, và hiệp lễ của thánh lễ đó mà thôi, không được đọc ghép các lời nguyện của các thánh lễ khác nhau lại với nhau.[19] Không được thay thế các bài hát trong Lễ quy bằng các bài hát khác.[20]
Không được tách rời phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, cũng như tách các phần khác nhau của thánh lễ để cử hành trong những thời gian và địa điểm khác nhau, cho dù trong cùng một ngày.[21]
Không được cử hành thánh lễ chung với bí tích giao hòa như một phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên, một linh mục không đồng tế có thể ngồi tòa giải tội trong khi thánh lễ đang được cử hành. Nhưng cũng cần tiến hành việc này một cách thích hợp.[22]
Không được cử hành thánh lễ đi liền với việc cử hành các bí tích và phụ tích trong các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh, các lễ trọng, các ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh, lễ Cầu cho các tín hữu qua đời, thứ Tư lễ Tro và các ngày trong Tuần thánh.[23]
Các thông báo hay trình bầy do giáo dân thực hiện phải được thực hiện ngoài thánh lễ, hoặc nếu vì lý do nghiêm trọng, thì có thể làm sau lời nguyện hiệp lễ. Không để điều này trở thành thói quen, cũng như tránh gây lầm lẫn với bài giảng hoặc làm nguyên nhân để bỏ bài giảng.[24]
Không được dâng thánh lễ theo kiểu trình diễn. Tuyệt đối không được đưa vào thánh lễ những nghi thức vay mượn từ các tôn giáo khác.[25]
Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho một linh mục lạ cử hành hay đồng tế thánh lễ, miễn là linh mục này xuất trình chứng thư (hay celebret) của Tông Toà, hay của Đấng bản quyền, hay bề trên của mình, được cấp trong năm, hoặc vị chịu trách nhiệm có thể nhận định cách khôn ngoan rằng không có gì ngăn trở vị linh mục ấy được dâng lễ.[26]
Thánh lễ được cử hành bằng tiếng La tinh hay bằng một ngôn ngữ khác, với điều kiện phải sử dụng những bản văn phụng vụ đã được phê chuẩn theo quy tắc luật định. Ngoại trừ các thánh lễ phải cử hành theo ngôn ngữ của dân chúng, theo thời khóa biểu và theo thời gian do giáo quyền ấn định, các linh mục được phép cử hành thánh lễ bằng tiếng La tinh, ở mọi nơi và mọi lúc.[27]
Khi thánh lễ được nhiều linh mục đồng tế, kinh nguyện Thánh Thể phải được đọc trong ngôn ngữ mà tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành đều biết. Có thể xảy ra trường hợp, trong số các linh mục hiện diện, có vị không biết ngôn ngữ được dùng khi cử hành và không thể đọc các phần kinh nguyện Thánh Thể dành riêng cho mình. Trong trường hợp này, các ngài không đồng tế, nhưng tốt hơn các ngài chỉ tham dự cử hành và mặc áo dành riêng, ở trong cung thánh, theo quy định.[28]
Trong các thánh lễ đồng tế, không được phép thay đổi vị chủ tế, trừ hai trường hợp ngoại lệ: Trường hợp thứ nhất, khi vị giám mục chủ tọa việc cử hành trong y phục kinh hội, nghĩa là ngài tham dự thánh lễ nhưng không cử hành thánh lễ, điều này xảy ra khi vị giám mục đến tham dự lễ ngân khánh của một linh mục. Khi đó, vị giám mục có thể giảng và ban phép lành cuối lễ. Trường hợp thứ hai xảy ra trong lễ tấn phong giám mục, sau khi được tấn phong, vị tân giám mục sẽ chủ tế thánh lễ. Những điều này liên quan đến bản chất của tác vụ giám mục.[29]
Phải dứt khoát bài trừ sự lạm dụng tùy tiện của các linh mục trong việc đình chỉ cử hành thánh lễ cho dân chúng, trái quy tắc của Sách lễ Rôma và truyền thống đúng đắn của Nghi lễ Rôma, viện cớ để khuyến khích “chay tịnh Thánh Thể”.[30]
Không được tăng số lượng thánh lễ trái với quy tắc giáo luật. Những gì liên quan đến bổng lễ, phải tuân thủ tất cả các quy tắc của giáo luật hiện hành.[31]
- PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Phải cử hành phụng vụ Lời Chúa thế nào để tạo thuận lợi cho việc suy gẫm, vì thế tuyệt đối tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi tâm. Nên có những giây phút thinh lặng ngắn, tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được tiếp nhận trong tâm hồn và lời đáp trả qua kinh nguyện. Những lúc nên giữ thinh lặng đó là sau bài đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng.[32]
Cần phải đọc đúng bản văn Thánh Kinh theo quy tắc có sẵn trong sách phụng vụ. Không được phép bỏ hay thay đổi một cách tùy tiện, nhất là không được thay thế bằng các bản văn không phải là Thánh Kinh.[33]
Không một giáo dân hay tu sĩ nào được phép công bố bài Tin Mừng trong thánh lễ.[34]
Bài giảng là một thành phần quan trọng trong phụng vụ thánh lễ, do đó, buộc phải có và không được bỏ, trừ khi có lý do quan trọng, vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc trong mọi thánh lễ cử hành có đông giáo dân tham dự.[35]
Tuyệt đối cấm giáo dân hay chủng sinh, sinh viên thần học hoặc bất cứ ai không có chức thánh giảng trong thánh lễ.[36]
Giám mục là người có trách nhiệm chăm chú theo dõi bài giảng của các thừa tác viên có chức thánh, chia sẻ cho họ những quy tắc, phương hướng cũng như những giúp đỡ khác cho việc soạn bài giảng.[37]
Không được thay thế kinh Tin Kính hoặc Tuyên xưng Đức tin bằng các bản văn khác không có trong sách phụng vụ được phê chuẩn hợp lệ.[38]
- PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Bánh dùng trong thánh lễ phải là bánh được làm bằng bột lúa mì nguyên chất và mới làm để tránh nguy cơ hư hại.[39] Những thứ bánh làm bằng các chất liệu khác hoặc bánh được làm từ bột mì có pha các chất khác không được xem là chất thể thành sự cho việc cử hành thánh lễ.[40] Ngoài ra phải biết chắc là bánh được làm ra bởi những người đứng đắn, biết cách làm và làm với dụng cụ thích hợp.
Rượu nho phải là rượu tự nhiên từ trái nho, không bị hư, không được pha thêm những chất khác.[41] Trong lúc cử hành thánh lễ, người ta thêm vào rượu nho một chút nước. Tuyệt đối cấm sử dụng rượu không rõ hoặc nghi ngờ về tính xác thực và nguồn gốc. Và chắc chắn không được sử dụng một thức uống nào khác thay thế rượu nho trong thánh lễ.[42]
Việc dâng lễ vật không nhất thiết chỉ là bánh rượu, ngoài bánh rượu ra còn có thể dâng những tặng vật khác, do các tín hữu mang đến hoặc chuẩn bị sẵn, có thể là tiền bạc, nhằm mục đích thi hành bác ái dành cho người nghèo. Những tặng vật này phải để ở nơi xứng hợp ngoài bàn tiệc Thánh Thể.[43]
Không được truyền phép một chất thể mà không có chất thể kia, hoặc truyền phép cả hai chất thể ngoài lúc cử hành thánh lễ, cho dù trong trường hợp khẩn cấp và hết sức cần thiết.[44]
Không được tự biên soạn kinh nguyện Thánh Thể hoặc tự ý sửa đổi bản văn kinh nguyện Thánh Thể đã được phê chuẩn.[45]
Kinh nguyện Thánh thể phải được đọc hoàn toàn bởi linh mục, và chỉ bởi ngài mà thôi. Như vậy, thừa tác viên giáo dân hoặc một tín hữu hoặc toàn thể tín hữu, thậm chí phó tế cũng không được đọc bất cứ phần nào của kinh nguyện Thánh Thể.[46]
Khi đọc kinh nguyện Thánh Thể, không được đàn hát hay đọc kinh gì, ngoại trừ những lời tung hô, đối đáp như được ghi trong Sách lễ Rôma, hoặc đã được Hội đồng Giám mục phê chuẩn và Tòa Thánh xác nhận.[47]
Không được bỏ sót tên Đức giáo hoàng và giám mục giáo phận, để bày tỏ sự hiệp thông với giám mục của mình và với giám mục Rôma.[48]
Không được bẻ bánh khi đọc lời truyền phép.[49] Việc bẻ bánh được thực hiện sau khi chúc bình an, trong khi hát hoặc đọc kinh Agnus Dei. Chỉ có vị chủ tế bẻ bánh, hoặc nếu cần, với sự trợ giúp của phó tế hay vị đồng tế. Giáo dân không được bẻ bánh. Cần thực hiện việc này với một tấm lòng hết sức tôn kính, nhưng đơn giản, và ngắn gọn, tránh những nghi thức kéo dài không cần thiết.[50]
Bánh sau nghi thức bẻ bánh, nên được trao cho ít là một vài tín hữu rước lễ, để diễn đạt ý nghĩa “ăn chung một bánh”. Dĩ nhiên, người ta được dùng bánh nhỏ để khỏi phải bẻ ra, đáp ứng được số lượng người rước lễ đông.[51]
- VIỆC RƯỚC LỄ
- Việc rước lễ của linh mục
Mỗi khi linh mục cử hành thánh lễ, ngài sẽ rước lễ tại bàn thờ, vào lúc do Sách Lễ ấn định. Bên cạnh đó, các vị đồng tế sẽ rước lễ trước khi đi trao Mình Thánh Chúa. Linh mục chủ tế hay đồng tế không bao giờ đợi dân chúng rước lễ xong rồi mới rước lễ.[52]
Các linh mục đồng tế rước lễ bằng bánh đã được truyền phép trong chính thánh lễ cử hành[53]; vả lại, tất cả các vị đồng tế phải luôn luôn rước lễ dưới hai hình. Phải lưu ý rằng, khi linh mục hoặc phó tế trao mình thánh hay chén thánh cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh Chúa Kitô” hay “Máu Thánh Chúa Kitô”.[54]
Các linh mục không thể cử hành hay đồng tế luôn luôn được phép rước lễ dưới hai hình.[55]
- Việc rước lễ của giáo dân
Cần nhắc nhở cho giáo dân chuẩn bị tâm hồn xứng hợp khi lên rước lễ. Đặc biệt, trong những ngày lễ lớn với số đông người tham dự, cần lưu ý đừng để những người không phải Công giáo lên rước lễ, và cần tuân thủ điều này một cách chặt chẽ.[56]
Các vị mục tử phải khẩn khoản thúc giục các tín hữu lãnh bí tích giao hòa ngoài thánh lễ, nhất là vào những giờ ấn định, để họ được xưng tội một cách êm thắm và thực sự có ích cho họ, mà họ cũng không bị ngăn trở tham dự thánh lễ cách tích cực. Phải nhắc nhở những ai có thói quen rước lễ hằng ngày hoặc rất thường, sự quan trọng của việc lãnh bí tích sám hối một cách đều đặn, theo khả năng của mỗi người.[57]
Trước khi cho trẻ em rước lễ lần đầu, luôn luôn phải cho chúng lãnh nhận bí tích sám hối và lời xá giải.[58] Hơn nữa, việc cho rước lễ lần đầu luôn luôn phải do một linh mục cử hành và không bao giờ được làm ngoài thánh lễ. Cần chọn ngày thích hợp như các Chúa nhật sau lễ Phục Sinh (từ Chúa nhật thứ 2 đến thứ 6) hay lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hay các Chúa nhật “quanh năm”, vì ngày Chúa nhật được kể một cách hợp lý là ngày của phép Thánh Thể.[59]
Khi cho rước lễ xong, linh mục hoặc phó tế lau sạch đĩa thánh, chén thánh và bình thánh. Khi có nhiều bình, có thể phủ kín chúng kỹ càng, linh mục hoặc phó tế sẽ làm sạch chúng ngay sau thánh lễ, khi dân chúng đã ra về. Thầy giúp lễ có thể giúp linh mục hoặc phó tế làm sạch các bình thánh trước khi xếp gọn chúng vào chỗ đã ấn định.[60]
- VIỆC CHO RƯỚC LỄ
Linh mục chủ tế có nhiệm vụ cho rước lễ, các linh mục đồng tế và các phó tế khác phụ giúp ngài. Các tín hữu rước lễ liền sau khi linh mục chủ tế rước lễ.[61] Khi nào các tín hữu rước lễ xong, thánh lễ mới được tiếp diễn.[62]
Cần nhớ rằng thừa tác viên thông thường cho rước lễ là giám mục, linh mục và phó tế, vì các ngài đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh[63]; do đó, việc cho giáo dân rước lễ khi cử hành thánh lễ là thuộc quyền của các ngài.[64]
Khi số các thừa tác viên có chức thánh hiện diện trong cử hành thánh lễ là đủ cho việc rước lễ, thì không được phép cử các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong những trường hợp này, những ai được cử cho một thừa tác vụ như thế, thì không được thi hành tác vụ ấy. Vậy, phải dứt khoát bài trừ thái độ của các linh mục tuy có mặt ở buổi cử hành lại không cho rước lễ, mà để cho giáo dân đảm nhận công việc này. Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ chỉ có thể cho rước lễ trong trường hợp không có linh mục hay phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì bệnh tật, vì lớn tuổi hay vì một lý do khác nghiêm trọng, hay nữa khi số tín hữu đến rước lễ quá đông, có thể kéo dài quá đáng việc cử hành thánh lễ.[65]
Nên cho các tín hữu rước lễ với những bánh đã được truyền phép trong thánh lễ ấy, để việc rước lễ tỏ ra rõ ràng hơn là một sự tham dự vào hy tế đang cử hành.[66] Cần phải nhắc nhở người tín hữu có thái độ tôn kính khi rước lễ, nhất là theo đúng cách thức mà Hội đồng Giám mục quy định.[67]
Không được từ chối không cho một người tín hữu rước lễ khi người này đã được chuẩn bị một cách hợp lệ và không bị giáo luật cấm nhận lãnh bí tích.[68] Như vậy, tất cả các người Công giáo đã chịu phép rửa, mà không bị ngăn trở bởi giáo luật, thì phải được cho rước lễ. Do đó không được phép từ chối không cho một tín hữu rước lễ, chỉ vì, như ví dụ, người ấy muốn rước lễ quỳ gối hay đứng.[69]
Khi cho rước lễ bằng tay, thừa tác viên cần bảo đảm người tín hữu rước lễ tại chỗ, không được đem về chỗ ngồi để tránh dịp gây xúc phạm.[70] Phải duy trì việc dùng đĩa hứng khi cho các tín hữu rước lễ, để tránh bánh thánh, hay một mảnh bánh thánh, rơi xuống đất.[71]
Các tín hữu không được phép tự tay cầm lấy bánh đã được truyền phép hay chén thánh, lại cũng không được để họ chuyền tay nhau.[72] Vả lại, về vấn đề này, phải chấm dứt sự lạm dụng sau đây: trong thánh lễ hôn phối, đã xảy ra trường hợp đôi tân hôn cho nhau rước lễ.[73]
Người giáo dân đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong cùng ngày đó, nhưng chỉ ở trong cử hành thánh lễ mà họ tham dự, ngoại trừ quy định ở điều 921 §2 của giáo luật.[74]
Cần phải dứt khoát bài trừ việc phân phát những bánh chưa truyền phép hay những đồ vật khác có thể ăn được hay không ăn được giống như khi rước lễ, xảy ra trong hoặc trước khi cử hành thánh lễ. Quả nhiên, điều đó không hợp với truyền thống của nghi lễ Rôma, và có nguy cơ làm tâm trí các tín hữu lẫn lộn về giáo lý về bí tích Thánh Thể của Giáo Hội.[75]
- VIỆC RƯỚC LỄ DƯỚI HAI HÌNH
Để biểu lộ rõ ràng hơn cho các tín hữu về tính viên mãn của dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể, giáo dân cũng được rước lễ dưới hai hình trong những trường hợp mà các sách phụng vụ đã dự liệu, với điều kiện trước đó phải luôn luôn giảng dạy cách thích hợp về các nguyên tắc tín lý đã được Công đồng chung Trentô ấn định trong lãnh vực này.[76]
Để cho giáo dân rước lễ hai hình, phải để ý một cách thích hợp đến các hoàn cảnh, mà việc đánh giá trước tiên là thuộc quyền Giám mục giáo phận. Phải tuyệt đối loại bỏ việc này khi có một nguy cơ, dù là rất nhỏ, xúc phạm đến Mình Máu Thánh Chúa.[77]
Khi cho giáo dân rước Máu Thánh với chén thánh, cần tránh nguy cơ còn lại quá nhiều cần phải rước cuối buổi cử hành.[78] Ngoài việc phải biết rõ nguồn gốc và phẩm chất của rượu, việc cho giáo dân rước lễ hai hình còn cần phải có những thừa tác viên cho rước lễ được huấn luyện đầy đủ, cũng như tránh tình trạng có nhiều giáo dân từ chối rước Máu Chúa với chén thánh, vì như vậy sẽ làm mờ nhạt dấu chỉ hiệp nhất.[79]
Trong những cách thức được cho phép khi rước lễ hai hình, có thể rước Máu Chúa Kitô hoặc bằng cách uống trực tiếp với chén thánh, hoặc bằng cách chấm Mình Thánh vào Máu Thánh, hoặc dùng ống hút hay một cái muỗng,[80] luôn duy trì cách cho rước lễ bằng cách chấm. Tuy nhiên, cần lưu ý phải dùng những bánh lễ không được quá mỏng, cũng không quá nhỏ, và người rước lễ phải nhận Thánh Thể do vị linh mục trao trực tiếp vào miệng.[81]
Nếu dùng nhiều chén thánh, thì cần có một chén thánh chính lớn hơn, nổi bật hơn so với những chén phụ. Khi đã truyền phép, không được sang Máu thánh từ chén này qua chén khác.[82]
Cần tôn trọng Mình Máu Thánh Chúa. Khi cử hành thánh lễ, Máu Thánh Chúa Kitô có thể còn lại phải được chính linh mục hay, theo quy tắc, một thừa tác viên khác rước ngay lúc ấy. Cũng vậy, Mình Thánh Chúa có thể còn lại, phải được linh mục rước tại bàn thờ, hay được đem cất vào một nơi dành để lưu giữ Mình Thánh Chúa.[83]
- LỄ PHỤC CỦA CÁC THỪA TÁC VIÊN TRONG THÁNH LỄ
Cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định liên quan đến lễ phục, nhằm diễn tả cách hiệu quả và rõ ràng đặc tính của các mầu nhiệm đức tin được cử hành, và, do đó, ý nghĩa của đời sống Kitô giáo đang tiến triển qua tiến trình của năm phụng vụ.[84] Mặc đúng lễ phục còn góp phần làm tăng vẻ đẹp của hành động phụng vụ.[85] Lễ phục chung cho các thừa tác viên là áo trắng dài (alba) được sợi dây nhỏ buộc ôm sát vào thắt lưng, trừ khi nó được may vừa vặn với thân hình mà không cần có dây buộc. Phải quàng khăn vai trước khi mặc áo alba nếu áo này không hoàn toàn phủ kín áo thường quanh cổ.[86]
Ngoài ra, linh mục chủ tế, để cử hành thánh lễ hay các hành động thánh khác liên quan trực tiếp với thánh lễ, mặc áo lễ (casula), trừ trường hợp có dự trù một lễ phục khác mặc trên chồng lên áo alba và dây stola.[87] Cũng thế, khi linh mục mặc áo lễ, ngài đừng bỏ không mang dây stola.[88]
Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách lễ Rôma cho quyền các linh mục đồng tế trong thánh lễ khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola trên áo alba,[89] ví dụ như trong trường hợp các vị đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng nếu có thể tiên liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng. Về phần còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của các sách phụng vụ.[90]
Lễ phục phụng vụ riêng của phó tế là áo dalmatica mặc ngoài áo alba và dây stola. Để tôn trọng một truyền thống cao quý của Giáo Hội, việc không dùng quyền khỏi mặc áo dalmatica là điều đáng làm.[91]
Không được cử hành thánh lễ mà không mặc lễ phục phụng vụ, hay chỉ mang dây stola trên áo thụng của tu viện, hay trên áo tu sĩ thường, hay nữa trên áo thường.[92]
Thông thường “các linh mục hiện diện trong cử hành thánh lễ nên thi hành chức vụ thuộc Chức Thánh của mình, ngoại trừ những khi có một lý do chính đáng miễn cho họ làm thế, và do đó họ nên mặc y phục phụng vụ mà đồng tế. Nếu không, họ mang áo surplis trên áo soutane.”[93] Ngoại trừ những trường hợp rất đặc biệt khi có lý do chính đáng, không cho phép họ tham dự thánh lễ, mà vẻ bề ngoài như giáo dân.[94]
KẾT LUẬN
Nếu không quan tâm chú ý tuân thủ theo các quy tắc phụng vụ, người mục tử lẫn giáo dân rất dễ đi đến những lạm dụng. Những lạm dụng trong các cử hành phụng vụ nói chung và thánh lễ nói riêng là điều rất nghiêm trọng, bởi vì chúng vi phạm đến bản tính của phụng vụ và của các bí tích, và đồng thời cũng vi phạm đến truyền thống và uy quyền của Giáo Hội. Việc làm dụng như vậy còn có thể dẫn đến những sai lạc liên quan đến đức tin và giáo lý, bởi vì mối liên lạc mật thiết giữa lex orandi, lex credendi. Thậm chí, nguy hiểm hơn, khi ở trong một vài nơi, những việc làm sai trái trong lãnh vực phụng vụ đã trở nên một tập quán quen thuộc.[95] Chúng thường thường được dán những nhãn mác là canh tân, đại kết, thích nghi… một cách thiếu hiểu biết,[96] hoặc người ta cho rằng những điều đó mang lại lợi ích cho dân chúng. Nhưng thật ra, mầu nhiệm Thánh Thể quá cao trọng, “đến nỗi không ai được cảm thấy tự do hành động cách tuỳ tiện và xem nhẹ tính chất thiêng thánh và chiều kích phổ quát của mầu nhiệm này.”[97]
Thật vậy, những việc làm sai trái trong cử hành phụng vụ không giúp ích gì trong việc canh tân phụng vụ, hay đáp ứng lòng đói khát Thiên Chúa của dân chúng. Nhưng trái lại, chúng làm tổn hại “tính cách duy nhất thuộc về bản chất của nghi chế Rôma,[98] gây chia rẽ trong việc cử hành, gây ra sự bấp bênh về mặt giáo lý, sự nghi ngờ và gương mù trong dân Thiên Chúa, đồng thời cũng gây ra nhiều sự chống đối mãnh liệt gây xáo trộn và làm buồn lòng rất nhiều tín hữu.[99] Do đó, rõ ràng rằng những việc làm sai trái này chủ yếu phát xuất từ sự thiếu hiểu biết lẫn thái độ xem thường, là những điều không thể nào được chấp nhận, và chúng cần phải được chấm dứt. Thay vào đó, người mục tử lẫn người giáo dân cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của Giáo Hội liên quan đến thánh lễ, nhờ đó, thánh lễ thực sự trở thành bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, để người lãnh nhận Đức Kitô được tràn đầy vinh quang và đón nhận bảo chứng cho vinh quang đời sau.[100]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của Huấn quyền
– Công đồng Vatican II. Bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội 2012.
– Bộ Giáo luật 1983. Bản dịch của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội 2007.
– BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT bí tích. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, về một số điều phải tuân thủ hay phải xa lánh liên quan đến phép Thánh Thể Chí Thánh (25.3.2004). Bản dịch Việt Ngữ của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Third Instruction on the Correct Implementation of the Constitution on the Sacred Liturgy. Truy cập ngày 22.9.2015; http://www.catholicliturgy. com/index.cfm/FuseAction/documentText/Index/2/SubIndex/16/ ContentIndex/376/Start/375
– GIOAN PHAOLÔ II. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Truy cập ngày 2.11.2015; http://www.giaoly.org/vn/tai–lieu/thong– diep–ecclesia–de–eucharistia/
– General Instruction Of The Roman Missal (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma), ấn bản 2002. Truy cập ngày 2.11.2015; http:// www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/ rc_con_ccdds_doc_20030317_ordinamento–messale_en.html
Sách tham khảo
– MCNAMARA, EDWARD. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập 1. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản Phương Đông 2013. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập 2. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản Phương Đông 2015.
Tuấn Việt
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 95 (tháng 7 & 8 năm 2016)
[1] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, các số 3, 8, 9.
[2] x. ibidem, số 10.
[3] Ibidem, số 52.
[4] Công đồng VATICAN II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 7.
[5] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[6] Ibidem.
[7] Bộ Giáo luật, điều 932; x. Bộ Phụng Tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 9.
[8] x. Bộ Giáo luật, điều 932; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 108–109.
[9] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 77.
[10] Bộ Giáo luật, điều 902.
[11] Ibid., điều 908.
[12] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 120.
[13] x. Ibid., số 57.
[14] x. Ibid., số 58.
[15] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 327–333; Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 117.
[16] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 333.
[17] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 118.
[18] x. Ibid., số 59.
[19] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 363.
[20] Ibid., số 366.
[21] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 60.
[22] x. Ibid., số 76.
[23] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 372.
[24] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 74.
[25] x. Ibid., số 79.
[26] x. Bộ Giáo luật, điều 903.
[27] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 36, § 1; Bộ Giáo luật, điều 928.
[28] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 114.
[29] x. BỘ PHỤNG TỰ, Thư riêng liên quan đến việc thay đổi chủ tế, trích lại trong EDWARD MCNAMARA, Giải đáp thắc mắc phụng vụ, tập 1, Nguyễn Trọng Đa dịch, Nhà xuất bản Phương Đông 2013, trang 130–131.
[30] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 115.
[31] x. Bộ Giáo luật, điều 905, 945–958.
[32] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 56.
[33] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 61–62; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 57.
[34] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 63.
[35] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 65 – 66.
[36] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 64–66.
[37] x. Ibid., số 68.
[38] x. Ibid., số 69.
[39] x. Ibid., số 48, đồng thời x. Bộ Giáo luật, điều 924 § 2.
[40] x. Bộ Kỷ luật bí tích, Huấn thị Dominus Salvator noster, số 1.
[41] x. Bộ Giáo luật, điều 924, §3.
[42] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 50.
[43] x. Ibid., số 70.
[44] Bộ Giáo luật, điều 927.
[45] Bộ Bí tích và Phụng tự, Huấn thị Inaestimabile donum, số 5, trích trong Huấn thị Redemptoris Sacramentum, số 51.
[46] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 52.
[47] x. Ibid., các số 53–54.
[48] x. Ibid., số 56; GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 39.
[49] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 55.
[50] x. Ibid., số 73.
[51] x. Ibid., số 49.
[52] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 158–160, 243–244, 246.
[53] x. Ibid., các số 237–249, 85, 157.
[54] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 98.
[55] x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 3/7/1999. Trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 99.
[56] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 83–84.
[57] x. Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, số 35, được trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 86.
[58] x. Bộ Giáo luật, điều 914.
[59] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 87.
[60] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 183, 192; số 119.
[61] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ Sacrosanctum Concilium, số 55.
[62] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 88.
[63] x. Bộ Giáo luật, điều 910, § 1.
[64] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 154.
[65] 72 (1980) p. 336; Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 11.7.1984, trích lại trong số 157–158.
[66] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, số 31; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 85, 157, 243.
[67] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[68] Bộ Giáo luật, điều 843 § 1; x. điều 915.
[69] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 91.
[70] x. Ibid., số 92.
[71] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 118; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 93.
[72] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[73] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 94.
[74] Bộ Giáo luật, điều 917; Đồng thời x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 11.7.1984 (trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 95).
[75] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 96.
[76] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 282–283.
[77] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 283.
[78] x. Ibid., số 285a.
[79] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 102.
[80] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 245.
[81] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 103–104.
[82] x. Ibid., các số 105–106.
[83] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 284.
[84] x. Ibid., số 345.
[85] x. Ibid., số 335.
[86] x. Ibid., số 336.
[87] x. Ibid., số 337.
[88] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 123.
[89] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 209.
[90] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 214.
[91] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 338.
[92] x. Bộ Phụng tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 8c , trích lại trong số 126.
[93] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 114, 116–117.
[94] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 217.
[95] x. Ibid., các số 4, 6, 10.
[96] x. Ibid., các số 7–9.
[97] GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[98] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 38.
[99] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 11.
[100] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 47.
2020
Truyền hình trực tiếp Lễ Mình và Máu Chúa Kitô do ĐTC Phanxicô cử hành
Thứ Hai 08/06, Phòng Báo chí Tòa thánh thông báo: Chúa nhật lễ Mình và Máu Chúa Kitô 14/06/2020, Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ.
Cũng theo thông cáo, do vẫn còn phải tuân giữ các biện pháp ngăn chặn đại dịch, nên chỉ có khoảng 50 tín hữu tham dự Thánh lễ. Vào cuối Thánh lễ sẽ có đặt Mình Thánh để chầu và phép lành Thánh Thể như trong các Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta được truyền hình trực tiếp từ ngày 09/03 đến 17/05 vừa qua, trong thời gian Ý và các quốc gia khác không thể cử hành Thánh lễ có giáo dân tham dự.
Các nơi cử hành trong những năm gần đây
Năm ngoái (2019), lễ Mình và Máu Chúa Kitô do Đức Thánh Cha chủ sự được cử hành tại sân trước nhà thờ Đức Bà An Ủi; sau đó có rước kiệu Thánh Thể qua các đường phố. Năm 2018, Đức Thánh Cha đã cử hành long trọng Lễ Mình và Máu Chúa Kitô tại giáo xứ Thánh Monica ở Ostia. Từ năm 2013 đến 2017, Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, và tiếp theo sau là rước kiệu Thánh Thể đến Đền thờ Đức Bà Cả.
Nguồn gốc lễ Mình và Máu Chúa Kitô
Nguồn gốc của lễ Mình và Máu Chúa Kitô bắt nguồn từ thế kỷ XIII. Vào năm 1215, trước việc nhiều người khẳng định sự hiện diện chỉ mang tính biểu tượng và Chúa Kitô không hiện diện thực sự trong Thánh Thể, Công đồng Latêranô IV (1215) đã khẳng định sự thật về “biến đổi bản thể” (Transustanziazione) và tiếp theo Công đồng Trento năm 1551 đã xác nhận dứt khoát một lần về điều này. Tại Bỉ, sau những trải nghiệm thần bí của Thánh Juliana de Cornillon, vào năm 1247, lễ kính Mình và Máu Chúa Kitô được thiết lập trong giáo phận Liège. Một vài năm sau, năm 1263, một linh mục người Boemia đến Bolsena, Ý để hành hương, khi dâng Thánh lễ vị linh mục này nghi ngờ về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Đến phần truyền phép, một phép lạ đã xảy ra: một vài giọt máu chảy ra từ Bánh Thánh. Sau sự kiện này, vào năm 1264, Đức Giáo hoàng Urban IV đã quyết định đưa lễ kính Mình Máu Thánh Chúa vào trong Phụng vụ của toàn Giáo hội.
Ngọc Yến – Vatican News