2023
Nữ Vương Hoà Bình
1.1 Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Ds 6:22-27; Gl 4:4-7; Tv 67:2-3,5,6,8; Lc 2:16-21
Nữ Vương Hoà Bình
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Hoà bình là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
2023
THÁNH MA-RI-A, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
THÁNH MA-RI-A, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
lễ trọng
Ca nhập lễ
Xê-đu-li-ô
Xin kính chào Thánh Mẫu
đã sinh hạ Quân Vương
Đấng điều khiển vũ trụ
muôn thuở tới muôn đời.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
Ds 6,22-27
Khi chúng kêu cầu danh Ta cho con cái Ít-ra-en, Ta sẽ ban phúc lành.
Bài trích sách Dân số.
22 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : 23 “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng : Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này :
24‘Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em !
25Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em,
và dủ lòng thương anh em !
26Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn,
và ban bình an cho anh em !’
27 Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
Đáp ca
Tv 66,2-3.5.6 và 8 (Đ. c.2a)
Đ.Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.
2Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,3cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.
Đ.Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.
5Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.
Đ.Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.
6Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.8Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta !
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người !
Đ.Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.
Bài đọc 2
Gl 4,4-7
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ga-lát.
4 Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
Tung hô Tin Mừng
Hr 1,1-2
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 2,16-21
Các người chăn chiên gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài Nhi. Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
16 Khi ấy, các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này. 18 Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các người chăn chiên nói cho biết. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo.
21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, mọi sự tốt đẹp ở trần gian đều bắt nguồn nơi Chúa, và phải nhờ tay Chúa mới phát triển được tới mức thập toàn. Ngày hôm nay, mừng lễ Ðức Maria Thiên Chúa Thánh Mẫu, chúng con được hoan hỷ vì ơn cứu độ của chúng con đã khai mào, xin cho chúng con cũng được hạnh phúc thấy ơn ấy hoàn thành mỹ mãn. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Trong ngày lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa của Ðức Ma-ri-a diễm phúc trọn đời đồng trinh, chúng con cùng ca ngợi, chúc tụng và tung hô Chúa.
Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Ðức Maria đã thụ thai Con Một Chúa, và đã chiếu giãi vào thế gian ánh sáng vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con.
Nhờ Người, các Thiên thần ca ngợi, các Quản thần thờ lạy, các Quyền thần kính sợ uy linh Chúa. Các tầng trời cùng với các đạo binh thiên quốc, cùng với các thần Sốt mến đồng hân hoan chúc tụng Chúa. Xin cho chúng con đồng thanh với các ngài thành khẩn tuyên xưng rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Hr 13,8
Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một,
hôm qua cũng như hôm nay,
và như vậy mãi đến muôn đời.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa hoan hỷ dự tiệc Nước Trời và hãnh diện tuyên xưng Ðức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thánh Tử Giêsu và là Mẹ Giáo Hội. Xin cho yến tiệc này giúp chúng con đủ sức đạt tới phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
2023
Dân Thiên Chúa tiến bước trong hy vọng
Dân Thiên Chúa tiến bước trong hy vọng
DÂN THIÊN CHÚA TIẾN BƯỚC TRONG HY VỌNG
Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn
Hướng tới một Hội thánh hiệp hành, Hội thánh từ Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh đến phẩm giá và sứ mạng chung của mọi tín hữu khi thi hành các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ đa dạng và rất phong phú của họ. Trong bối cảnh tầm nhìn của Giáo hội học hiệp thông đó, tính hiệp hành (synodality) trở thành là phong cách sống và hành động (modus vivendi et operandi) đặc thù của Hội thánh, Dân Thiên Chúa lữ hành cùng nhau trong lịch sử đi về Quê hương. Phong cách hiệp hành biểu lộ “trong cuộc hành trình cùng nhau, qua các công nghị và trong hoàn cảnh mọi thành viên tham gia tích cực vào việc thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng”[1].
1. Ý nghĩa Kitô học và từ kinh nghiệm của Hội thánh |
1. Ý nghĩa Kitô học và từ kinh nghiệm của Hội thánh
Dân Thiên Chúa cùng nhau tiến bước trong lịch sử đi về Quê hương “mắt hướng về Đức Giêsu” (Hr 12,2), kẻ lữ hành trên trái đất loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Hội thánh là cộng đoàn những người đi trên con đường (Đạo) của Chúa (Cv 9,2). Chúa Giêsu là Đường đi (Ga 14,6) của Thiên Chúa đến với con người và của con người đến với Chúa Cha. Đức Kitô là Lữ khách, Đường đi (Đạo) và là Quê hương, dẫn chúng ta đi trên “con đường trổi vượt hơn cả” (1Cr 12,31). Chúa Giêsu phục sinh hướng dẫn Hội thánh Dân Thiên Chúa dùng Lời của Người, và nuôi dưỡng Dân bằng bánh hằng sống, mà hình ảnh mẫu tiêu biểu là trình thuật về các môn đệ Emmaus (x. Lc 24,13-35). Thánh Gioan Kim Khẩu đã xác định “Sinodo là tên của Hội thánh”, có nghĩa là một con đường được người ta bước đi trong tình hiệp thông. Trong tiếng Hi-lạp, syn nghĩa là cùng nhau, hodos là con đường. Sinodo là con đường Dân Thiên Chúa, vốn đông đảo và đa dạng được Chúa phục sinh dẫn dắt, cùng đi với nhau trong trách nhiệm thực thi đặc sủng và tác vụ của từng thành viên trong tinh thần hiệp thông và thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Từ Sinodo đang sử dụng cũng chỉ một công nghị, hay thượng hội đồng, được quy tập để cùng nhau tìm kiếm thánh ý Chúa qua cầu nguyện chung và bàn thảo theo phương pháp phân định mang tính cộng đồng và tông truyền (communitarian and apostolic discernment) dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (cf. Cv 15,28). Công đồng Giêrusalem (x. Cv 15; Gl 2,1-10) là mẫu của các công nghị, thượng hội đồng của Hội thánh. Công đồng được triệu tập trước thách đố mục vụ và giáo thuyết rằng tín hữu có buộc phải theo Do thái giáo để theo Đạo Chúa Giêsu tức Kitô giáo hay không. Trong Công đồng ấy, người ta “được nghe nhiều ý kiến ban đầu khác biệt và tranh luận rất sôi nổi. Tất cả lắng nghe nhau và nghe Chúa Thánh Thần qua những lời chứng về các việc Chúa đã làm, trao đổi với nhau những ý kiến nhận định riêng, hướng tới sự đồng thuận và thống nhất (x. 15,25) như là kết quả của sự phân định chung của cộng đồng phục vụ cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội thánh”[2]. “Diễn tiến của công đồng Giêrusalem cho thấy hành trình sống động của Dân Thiên Chúa như một thực tại được tập hợp và liên kết với nhau trong đó mọi người đều có một vị trí và một vai trò đặc biệt”[3].
Giáo phụ Ignatiô thành Antiôkia kể rằng tất cả các thành viên của các Giáo hội địa phương “σύνοδοι, những người cùng lữ hành, có phẩm giá của người đã được Thánh tẩy và là bạn hữu của Đức Kitô”. Còn Giáo phụ Cyprianô thành Cartagô thì xác định nguyên lý giám chức và công nghị phải được đem vận hành trong quản trị đời sống và sứ vụ của Hội thánh ở cấp địa phương cũng như hoàn vũ: “nếu quả thực trong Giáo hội địa phương không làm gì mà không có Giám mục (nihil sine episcopo), thì cũng thế không làm gì mà không có ý kiến của anh em (các linh mục và phó tế) (nihil sine consilio vestro) và sự ưng thuận của dân chúng (et sine consensu plebis)”[4].
Từ thế kỉ thứ III, ngoài các công đồng chung, như Nicêa (325), còn có những công nghị địa phương và tỉnh, gồm các Giám mục và trong vài trường hợp còn có sự tham dự của toàn thể cộng đoàn. Hai điểm cần lưu ý: 1) vai trò của Giáo hội Rôma; và 2) sự hiệp thông của các Giáo hội (trên đó mỗi Giáo hội địa phương là biểu lộ của Giáo hội duy nhất và phổ quát).
Công đồng Trentô đã thiết lập các công nghị giáo phận hay địa phương phải diễn ra hằng năm, và công nghị tỉnh ba năm một lần, để thực hiện những cải cách công đồng trên toàn Giáo hội, nhưng không dự kiến trong đó sự tham dự của toàn thể Dân Chúa. Đó là trong bối cảnh luận chiến hộ giáo chống phe Cải Cách, nên tính chất phẩm trật Giáo hội được nhấn mạnh: Giáo hoàng và các Giám mục là Ecclesia docens (Giáo hội thầy dạy), còn phần Dân Chúa còn lại là Ecclesia discens (Giáo hội môn đồ).
Công đồng Vaticanô I (1869-1870) chuẩn nhận quan niệm ấy hợp pháp hoàn toàn, khi ra sắc lệnh xác định tối thượng quyền và sự bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng. Nhưng Giáo hội cũng không ngừng ý thức “mình không đồng nhất chỉ với các mục tử của mình, mà Hội thánh toàn thể, bởi công trình của Chúa Thánh Thần, là chủ thể hay “cơ quan” của truyền thống, và giáo dân có vai trò chủ động thông truyền đức tin tông truyền”[5].
Công đồng Vatican II tái phát động ý tưởng Hội thánh hiệp hành (synodality) trong Hiến chế Lumen gentium (1964) nhìn Hội thánh là Hiệp thông và là “Dân Thiên Chúa đang lữ hành trong lịch sử đi về thiên quốc, trong đó mọi thành viên với ấn tích bí tích Thánh tẩy có phẩm giá là con cái Thiên Chúa được ủy thác cùng một sứ mạng”[6]. Sắc lệnh Christus Dominus (1965) sau đó còn khuyến khích thiết lập một hội đồng mục vụ trong mỗi giáo phận, phục hưng các công nghị (synods, councils) giữa các giáo hội trong vùng và thăng tiến các hội đồng Giám mục. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã giúp hồi sinh thực hành công nghị qua việc thiết lập thể chế Thượng Hội đồng Giám mục, là “Hội đồng thường trực các Giám mục cho Hội thánh hoàn vũ”[7].
2. Thần học về Hội thánh hiệp hành
Hiệp hành diễn tả hình ảnh Hội thánh như là Dân Thiên Chúa lữ hành cùng nhau và được quy tập tiến hành công nghị bởi Đức Chúa. Tiến trình bước đi cùng nhau thực hiện kế hoạch của Nước Thiên Chúa và Phúc âm hóa các dân tộc, bao gồm sự kiện hội họp với nhau để mừng Chúa phục sinh và tìm xác định điều Chúa Thánh Thần nói với Hội thánh. Các hội nghị – nhất là các Công đồng chung và Thượng Hội đồng Giám mục ở cấp Hội thánh hoàn vũ – là những thời điểm lịch sử ưu việt để sự phân định được Thần Khí hướng dẫn nhằm phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng. Như thế Hội thánh theo nhịp sống, bước đi và dừng nghỉ, hành trình và hội họp, hiệp hành và đồng nghị (synodality and synodo).
Hiệp hành là chiều kích nền tảng của Hội thánh, mà mẫu mực thể hiện là Công đồng Giêrusalem (Cv 15,4-29) với phương thức phân định thực hành có tính cộng đồng và tông truyền. […] Tính hiệp hành trước hết không chỉ đơn thuần một tiến trình hành động, nhưng chỉ thể thức mà Hội thánh sống và hành động”[8]. Nó chỉ cái phong cách đặc thù (style) của Hội thánh sống và thi hành sứ vụ, qua việc nhóm họp hội nghị các tín hữu và hoàn thành sứ vụ của mình, được diễn tả hoàn toàn như là Dân Thiên Chúa cùng bước đi hành trình trong lịch sử. Nói cách khác, tính hiệp hành trong Hội thánh được sống nhằm phục vụ chung cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tính hiệp hành còn diễn tả một Giáo hội học hiệp thông và tính chất “hành hương” của Hội thánh, Dân Thiên Chúa. “Các tín hữu là những σύνοδοι, những người bạn lữ hành cùng nhau”, Dân Thiên Chúa triệu tập từ muôn dân (Cv 2,1-9; 15,14)[9]. Thật vậy, mọi tín hữu đều nhận ơn về một bản năng đức tin – sensus fidei – giúp họ phân định cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Nói cách khác, sensus fidei (cảm thức đức tin) là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống các Kitô hữu và “ban cho toàn thể họ một bản tính đồng điệu (connaturality) nào đó với các thực tại linh thánh và sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác”[10]. Tính hiệp hành dựa trên hai cột trụ: sensus fidei của toàn dân Chúa và tính tập đoàn bí tích của hàng Giám mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Một sự hiệp thông giữa “mọi người”, “một số người”, và “một người”, liên kết với nhau các đặc sủng của dân Kitô giáo, sứ vụ của các Giám mục và sự phục vụ của vị kế nhiệm thánh Phêrô. Thể hiện phong cách tham gia và đồng trách nhiệm của toàn dân.
Nếu hiệp hành là một chiều kích nền tảng của Hội thánh, thì nó phải được biểu lộ ra trong đời sống và hành động thông thường của Hội thánh. Ba giai đoạn của tiến trình hội nghị phải là lắng nghe, quyết định và hành động hay “cộng đoàn nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, hiệp thông huynh đệ” và toàn Dân Chúa tham gia trách nhiệm vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh, ở mọi cấp bậc và trên cơ sở các thừa tác vụ và vai trò khác nhau. Cách riêng, tính hiệp hành chỉ “các cơ cấu tổ chức và quy trình của Giáo hội” liên kết Dân Chúa, bằng nhiều cách, nhiều cấp, địa phương, vùng và hoàn vũ, trong khi “phân định lộ trình của mình và những vấn đề riêng, để đưa ra những quyết định và định hướng nhằm hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng”[11]. Chiều kích hiệp hành diễn tả trong thực hành đó biểu lộ sự hiệp thông năng động khả dĩ linh hứng cho các quyết định của Hội thánh qua các sự kiện công nghị[12].
Chúng ta lưu ý khái niệm hiệp hành khác nhưng liên hệ chặt chẽ với các khái niệm hiệp thông và tính tập đoàn (các Giám mục), là những tâm điểm tư tưởng của Công đồng Vaticanô II. Đối với hiệp thông, ý niệm “hiệp hành” diễn tả cách thức sống hiệp thông cụ thể, triển khai ra trong lịch sử sự tham dự của các môn đệ thừa sai vào sự hiệp thông tình yêu của Ba ngôi, Cha, Con và Thánh Thần. Ý niệm hiệp hành cũng nói lên cái gì đó cụ thể biểu lộ ý thức và thực thi thừa tác vụ Giám mục như là thành viên của Giám mục đoàn hiệp thông phẩm trật với Giám mục Rôma, để phục vụ Hội thánh địa phương và Hội thánh hoàn vũ. Năng động hiệp hành bao hàm sự tham gia và đồng trách nhiệm của “mọi người” đã rửa tội, tất cả kết nối với nhau trong sự thực hành quyền bính tập đoàn của “một số người” dưới chủ tọa của “một người”, trong mỗi Hội thánh địa phương cũng như Hội thánh hoàn vũ[13].
Với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Hội thánh bắt đầu một tiến trình canh tân quyết liệt khởi đi từ Công đồng Vaticanô II. Đó là cải tổ theo hướng truyền giáo. Cải tổ là sự hoán cải của toàn dân Chúa và mọi người trong dân Chúa hướng về một Hội thánh hiệp hành và truyền giáo. Với ơn Thánh Thần của Chúa Kitô, tiến hành hoán cải nơi mỗi cá nhân tín hữu và nơi hướng mục vụ chung của Hội thánh làm sao để phát huy một phong cách và hành động hiệp hành ngày càng tôn trọng hơn yêu sách thông truyền niềm vui của Tin Mừng, đáp lại các dấu chỉ của thời đại. Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã thúc đẩy con đường đối thoại và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi Hội thánh trở thành nhà và trường học của hiệp thông. Ngày nay Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi Hội thánh bước vào “các tiến trình phân định, thanh tẩy và cải tổ”[14].
Tâm điểm của đời sống Hội thánh hiệp hành nằm ở thái độ và tiến trình lắng nghe, đối thoại và phân định chung của cộng đồng:
“Thực hành phân định là trung tâm của các tiến trình và sự kiện hiệp hành. Đời sống hiệp hành của Hội thánh vốn luôn là như thế. Giáo hội học hiệp thông cùng linh đạo và thực hành đặc thù rút ra từ đó, vốn gắn liền với sứ vụ của toàn thể dân Chúa, ngày nay hơn bao giờ hết cần thiết phải chỉ dạy các nguyên tắc và phương pháp phân định, không những cho cá nhân mà còn có tính tập đoàn. […] Phân định tập đoàn giúp chúng ta khám phá ra một tiếng gọi Thiên Chúa cho vang lên từ một hoàn cảnh lịch sử nhất định”[15].
3. Sống linh đạo hiệp hành
Thể hiện tinh thần hiệp hành không chỉ là tiến hành việc thỉnh ý, nhưng còn là một sự tham gia tích cực của người tín hữu trong Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Tham gia tích cực theo ơn gọi của mỗi Kitô hữu, họ vốn có khả năng và được kêu gọi phục vụ lẫn nhau qua ơn riêng của mỗi người được Chúa Thánh Thần ban cho[16]. Tinh thần Hội thánh hiệp hành đòi hỏi khơi dậy các tiến trình thỉnh ý toàn dân Chúa[17]. Khi tham khảo ý kiến đề nghị và ý kiến quyết định, dù khác nhau nhưng không vì thế mà xem nhẹ tính hiệp hành sâu xa hoạt động trong toàn thể cộng đoàn, “họ được triệu tập để cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, trao đổi, nhận định và góp ý để lấy quyết định mục vụ”[18] bởi hoàn cảnh đặc thù của họ. Nhưng cũng cần lưu ý tới nhiệm vụ cai quản của mục tử, vì “tiến trình hiệp hành phải được thực hiện giữa lòng một cộng đoàn Hội thánh có cơ cấu phẩm trật”[19] và “quyền bính của các mục tử là một đặc sủng của Thần Khí Đức Kitô Thủ lãnh xây dựng toàn nhiệm thể Người, không phải là nhiệm vụ có thể ủy thác và đại diện bởi người dân”[20].
– Một cản trở sự tham gia tích cực của các tín hữu vào đời sống của Hội thánh hiệp hành là não trạng giáo sĩ trị khiến giáo dân bị dạt ra bên lề cuộc sống của Giáo hội[21]. Tinh thần giáo sĩ trị nghịch lại với tinh thần hiệp hành, nó biểu lộ sự khép kín đối với tính sáng tạo của cấu trúc hiệp hành vốn mở ra để toàn thể các tín hữu, dù có thánh chức hay không, có thể biểu lộ chính mình và đặc sủng của mình.
– Sống tinh thần hiệp hành đòi hỏi chúng ta phải hoán cải mục vụ. Phải vượt qua suy nghĩ và quan niệm coi trách nhiệm truyền giáo chỉ thuộc về các mục tử, không coi trọng cho đủ ơn gọi đời sống thánh hiến và đặc sủng, ít quý trọng đóng góp đặc biệt và có chất lượng thuộc thẩm quyền chuyên môn của các tín hữu giáo dân nói chung và của các phụ nữ nói riêng[22]. Hơn nữa, ý thức Hội thánh hiệp hành làm ta vui mừng đón nhận và thăng tiến ân thánh sủng bởi đó mọi tín hữu có khả năng và được kêu gọi làm môn đệ truyền giáo[23]. Cần thấy dòng lưu chuyển bộc phát từ các đặc sủng chảy giữa thừa tác vụ của mục tử và sự tham gia đồng trách nhiệm của giáo dân. Hoán cải này ở chiều sâu đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách nghĩ, từ cái “tôi” chủ vị cá thể tính sang “chúng ta” chủ thể giáo hội tính, sống và bước đi trên đường lữ hành cùng với anh chị em mình, có trách nhiệm và tích cực thi hành sứ vụ Loan báo Tin Mừng duy nhất của Dân Thiên Chúa[24]. Tinh thần hiệp hành đòi hỏi chúng ta có những tâm thái sâu xa: “tin tưởng và cởi mở”, cảm thức đức tin (sensus fidei) chín chắn và suy nghĩ đồng điệu với Hội thánh (sentire cum ecclesia)[25]. Và có những yếu tố đặc biệt nuôi dưỡng tình yêu hiệp hành (affectus synodalis) như: tính sáng tạo và phát triển của sự hiệp thông thánh thể, vốn là phản chiếu tự nhiên của sự hiệp thông ba ngôi; khả năng biết nhìn nhận những thất bại của mình và ước muốn hòa giải; lắng nghe Lời Chúa soi chiếu lộ trình lữ hành của chúng ta; và yêu mến sứ vụ: mọi sự kiện hiệp hành thúc đẩy Hội thánh đi ra đến với mọi người để cùng đi về với Chúa[26].
– Sống tinh thần hiệp hành cũng là biết đối thoại bạo dạn nói cũng như nghe. Không khăng khăng trong tranh luận tìm ý kiến mình vượt trội hay bác bỏ cách thô thiển quan điểm của người khác. Thái độ khiêm nhu và nguyên tắc “hiệp nhất thì lớn hơn xung đột” có thể giúp xây dựng tình hiệp thông vượt trên căng thẳng và bất đồng.
– Sau cùng, nhấn mạnh đến sự thực hành phân định là thực hành trung tâm của các tiến trình và sự kiện hiệp hành. Vượt trên tính cá nhân, sự phân định cộng đoàn giúp các Kitô hữu khám phá tiếng gọi của Thiên Chúa trong mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định[27].
4. Đánh giá và suy tư
Hiệp hành là một cách thức hiện diện mới của Hội thánh trong thế giới, tham gia nhiều hơn và đối thoại nhiều hơn, từ bi nhân ái hơn và lắng nghe nhiều hơn, đi ra xa trung tâm và đến với con người ở địa phương và vùng biên nhiều hơn, ý thức sự đa dạng và bổ túc của các đặc sủng Kitô hữu dùng để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Hiệp hành, đối với Đức Phanxicô, không chỉ là sống tình huynh đệ, qua lắng nghe và hợp tác, nhưng còn được biểu lộ qua thực hành chương trình cải tổ rộng lớn, bắt đầu từ cơ cấu cao nhất là giáo triều, các Thượng Hội đồng Giám mục và Giáo hoàng. Nhiều văn kiện Tòa thánh, ngay cả văn kiện về Giáo hội hiệp hành này, đã được xem xét nghiêm túc từ các Giáo hội địa phương. Hiệp hành đòi chương trình cải tổ từ cấp thấp nhất đến cao nhất: các Kitô hữu, gia đình, giáo xứ, giáo phận, hội đồng linh mục, ban tư vấn, tổng hội, hội đồng mục vụ, hội đồng Giám mục, thượng hội đồng, giáo triều, tất cả phải nối kết từ “cơ sở”, từ người dân và các vấn đề hằng ngày của người dân. Hình ảnh diễn tả Giáo hội hiệp hành, như Đức Phanxicô hay nói, như là một “kim tự tháp ngược”, trong đó, đỉnh nằm ở bên dưới đáy và quyền bính duy nhất là quyền bính phục vụ[28].
Trong khi triển khai ơn gọi hiệp hành đối với toàn dân Chúa, Hội thánh phải thỉnh ý và mời gọi các giáo dân, vốn là thành phần đại đa số, tham dự tích cực. Các hội nghị, công nghị, được khuyên phải quan tâm và lắng nghe cách rộng rãi cảm thức đức tin (sensus fidei) hay bản năng đức tin của Dân Chúa[29]. Họ không chỉ hòa hợp với cảm thức đức tin của người tín hữu dấn thân, mà cả với những tín hữu ở bên lề hay vùng ngoại vi Hội thánh, gồm những người nghèo, những người ở “lề trái” bất đồng với huấn quyền của Giáo hội, những người li thân, li dị, những người LGBTQ+. Sensus fidei thuộc về toàn thể các tín hữu (totius populi), nên Giáo hội phải học nhiều từ những người (tín hữu) chỉ trích, chống đối mình. Tiến hành phân định và đi đến quyết định của sensus hay consensus fidei (đồng thuận dựa trên đức tin) không thể không tránh khỏi chấp nhận có căng thẳng, bất đồng và xung đột ở một mức độ nào đó, ngay cả giữa các Giám mục tranh luận trong tinh thần cởi mở và thẳng thắn. Tiến trình hiệp hành là sự tìm kiếm chân lí của tập thể cộng đồng, chứ không phải như là dụng cụ để cai quản phần đa số Giáo hội kia.
– Trong Hội thánh, ở đâu và lúc nào cũng có những ý kiến xung khắc về giải thích, hay về thông diễn học. Công đồng Giêrusalem đầu tiên cho thấy điều đó, nhưng rốt cuộc sau nhiều tranh luận Hội thánh cũng đạt được một sự đồng thuận giữa các tín hữu (consensus fidelium). Đối thoại là phương thế nhờ đó Thánh Thần Chúa thông truyền. Làm thế nào để Hội thánh có thể thông truyền với thế giới hôm nay? Theo Đức Hồng Y Luis Tagle, các nhà lãnh đạo Hội thánh cần phải phân biệt các vấn đề (problems) vốn có thể giải quyết được, với các nan đề (dilemmas) vốn không thể giải quyết. Đứng trước các nan đề chúng ta chỉ có thể kể chuyện thôi. Kể chuyện người dân đã lội bì bõm qua những dòng nước đục ngầu của nan đề ấy như thế nào. Họ không cần được cung cấp giải pháp cho bằng một ý nghĩa, một niềm hi vọng. Nhưng mà ai có thể kể chuyện ấy? Thưa, chỉ những ai đã đi vào thế giới của câu chuyện, những người đã cởi mở với những câu chuyện đời sống người ta. Hội thánh phải mở ra với thế giới trong khi phải chấp nhận bị vấy bùn, thương tổn, mang thương tích. Cộng đoàn hiệp hành phải là câu chuyện sinh động về những gì mình loan báo. Chúng ta phải là những dấu chỉ sống động của Chúa Giêsu mà ta tuyên xưng niềm tin[30]. Các Giám mục và các nhà thần học nhất thiết phải lắng nghe các tín hữu kể câu chuyện của họ, xem họ đã đối diện với những vấn đề nan giải của họ như thế nào, tìm ra cho nó một ý nghĩa Tin Mừng, diễn tả sensus fidei của họ. Quả thật, chính trong những hoàn cảnh tương tự người ta tỏ ra không khao khát tìm giải quyết vấn đề cho bằng thấy được ý nghĩa, khích lệ và hi vọng.
– Vai trò và sự tham gia của người nữ trong đời sống của Hội thánh phải được chú ý nghiêm túc. Đức Thánh Cha Phanxicô trong khi đấu tranh vượt qua chủ nghĩa giáo sĩ trị và văn hóa lạm dụng (lạm dụng quyền lực, lương tâm và ngay cả tính dục) đã giúp phụ nữ và người trẻ có được một cái nhìn đúng đắn vị thế có trọng lượng của họ trong Hội thánh. Điều này hết sức phù hợp với triển khai thực hành tính hiệp hành và tính tập đoàn (collegiality), ngài đã đề cập nhiều lần sự tham gia tích cực của giáo dân trong các tiến trình quyết định[31]. Cách riêng, cần quan tâm đến yêu cầu ngày càng lớn phải suy xét xem có thể phong chức phó tế cho phụ nữ không và để cho người nữ có những vị trí điều hành trong các tổ chức thuộc cơ cấu giáo triều, cũng như giáo phận.
– Chú tâm nghe những tiếng nói mới và khác biệt (nhất là để thông cảm chứ không để kiểm duyệt) sẽ là điều mấu chốt trong các tiến trình hiệp hành nếu Hội thánh muốn có một tác động canh tân trên giáo huấn và thực hành của Hội thánh. Xét thấy nhiều quan điểm và tiếng nói khác nhau ta phải nhìn nhận rằng “sensus fidelium có thể là một nhân tố quyết định trong tiến trình phát triển giáo thuyết” và bởi thế, “không chỉ một mình magisterium trong toàn thể có trách nhiệm gìn giữ và thông truyền đức tin”[32]. Chúng ta có thể và nhất thiết phải thấy sensus fidelium là một cảnh vực thần học (locus theologicus) hay “lương tri của Hội thánh” như thần học Hilạp khẳng định, hay là một nguyên lí không chỉ có giá trị mục vụ mà còn có một thẩm quyền chính thức có thể thay đổi diễn tả giáo huấn của Huấn quyền Giáo hội Công giáo. Nhưng vấn đề mấu chốt là làm sao ta xác định được cái gì là thuộc sensus fidei? Ai là người tín hữu trung tín fidelis? Tinh thần hiệp hành hướng ta tìm câu trả lời cho những câu hỏi này chỉ ở cuối một quá trình dài trong thời gian đòi hỏi kiên nhẫn, không thể bị thúc ép hay phải tăng tốc. Nếu sensus fidei không đồng nghĩa với ý kiến công luận, phải là chân lí hơn là ý kiến của đa số thắng thế, thì Hội thánh phải đi sâu vào lắng nghe thực sự mọi thành viên của mình[33]. Chúng ta làm như thế “bằng cách phân định cùng với dân mình, mà không bao giờ chỉ do dân hay không cần đến dân”[34]. Điều đó bao hàm một sự tìm kiếm tiệm cận chân lí, tham gia của toàn thể và đối thoại với nhau, như thế, nói cách khác, phải chăng là chấp nhận có đa nguyên của sensus fidelium? Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho rằng Thần Khí Chúa đang hướng dẫn và quy hợp những tiếng nói dị biệt thành một hợp âm, bản giao hưởng. Giáo hội cần vượt qua sự phân cực lập trường trong nội bộ về các đề tài luân lí đạo đức. Lối đường của Giáo hội hiệp hành phải đi, vốn là một hành trình “có những lúc đầy an ủi và ân sủng” nhưng không thiếu “phiền muộn, căng thẳng và cám dỗ”[35]. Đối với Đức Giáo Hoàng, tiến trình hiệp hành đồng thời cũng là một hình thức cụ thể của Giáo hội học về hiệp thông li tâm (decentralised) và là hành trình thể hiện một phong cách tham gia (participative) và biểu quyết (deliberative) thực sự. Điều quan trọng không phải là tìm được giải đáp rốt ráo cho mọi khó khăn mà Hội thánh đang đối diện, cũng không phải là lên án những người bất đồng ý kiến với chúng ta, bởi vì “ngay cả những người có thể bị coi là đáng ngờ do những sai lầm của họ, họ cũng có phần đóng góp mà chúng ta không thể bỏ qua”[36]. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chung sống với căng thẳng và xung đột, bằng lòng với những giải đáp xuất hiện chín muồi dần theo thời gian mà không thỏa hiệp với cám dỗ chọn lựa hấp tấp.
– Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói ở cuối Thượng Hội đồng Amazzonia vừa qua rằng ngài tin tưởng ở khả năng của Giáo hội địa phương đối đầu với những vấn đề mục vụ khó khăn của họ, rằng ngài thấy Huấn quyền (Magisterium) không nhất thiết phải can thiệp vào giải quyết mọi tranh luận về giáo thuyết, luân lí và mục vụ trong lòng của cộng đồng Kitô hữu địa phương. Một quan điểm ngài đã diễn tả hết sức rõ ràng trong hai điểm qua bức thư gần đây gửi cho các Giám mục Đức, khi ấy họ đã bắt đầu làm tiến trình công nghị quốc gia: 1) Con đường hiệp hành đổi mới con người và đổi mới Giáo hội – Đức Phanxicô nói – phải phụ thuộc vào trọng tâm sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn; 2) bất cứ tiến trình đổi mới hiệp hành nào cũng phải giữ mình khỏi những nguy hiểm làm phân cực và phân mảnh đời sống Giáo hội, phải tránh nhờ tới một sensus Ecclesiae mạnh mẽ và luôn kết nối với Giáo hội hoàn vũ[37].
Quan điểm xuất phát từ cái nhìn nhận thức luận: “Thực tế thì hơn ý tưởng” (câu nói của Đức Giáo Hoàng hay được trích dẫn).
5. Suy tư đại kết và xã hội
– Đức Giáo Hoàng cũng mời gọi ta hãy biết học hỏi những gì chúng ta cần từ “các anh em Kitô hữu khác”. Chẳng hạn, học với anh chị em Chính thống giáo về “ý nghĩa của tính Giám mục đoàn và kinh nghiệm của họ về tính công nghị”[38]. Chúng ta học được từ kinh nghiệm Anh giáo về tính công nghị diễn tả qua tuyên ngôn chung gần đây (ARCIC III)[39]. Phía Công giáo trong Ủy ban khẳng định Giáo hội Công giáo học rất nhiều từ thực hành của Anh giáo về cơ cấu giáo tỉnh đa dạng (148) và ý nghĩa tầm vóc của các giáo tỉnh (120), văn hóa tranh luận cởi mở và thẳng thắn có ở mọi cấp của Cộng đồng Anh giáo (157) và cho giáo dân và giáo sĩ một vai trò tham vấn có tính biểu quyết (deliberative) trong các tổ chức công nghị (122). Phía Anh giáo xác nhận học được từ Công giáo Rôma sự phát triển cơ cấu Giáo hội tản quyền và thái độ cởi mở sẵn sàng đón nhận ý kiến và yêu cầu của giới giáo dân. Nhưng kinh nghiệm để lại từ “di sản nghị viện” ở một số giáo tỉnh trong Giáo hội Anh giáo, các công nghị tỉnh của họ dễ đi đến tranh cãi gay gắt khi ý kiến không được nhận phân định bởi huấn quyền, nhất là khi liên quan đến vấn đề đạo đức (100). Nếu như bên Công giáo ý nghĩa của sự hiệp nhất có thể khiến bãi bỏ những gì khác biệt, cản trở một cuộc đối thoại thẳng thắn và đi đến chỗ tránh né bàn luận những đề tài gây tranh cãi trong đại hội công khai (96), thì bên Giáo hội Anh giáo lại cho tản quyền quá mức khiến xảy ra nguy hiểm của một thứ “chủ nghĩa địa phương trị” (parochialism), một điều mà chính anh em Anh giáo không chấp nhận sự độc lập quá đáng về pháp lí của các Giáo hội địa phương và giáo tỉnh, đó là một mối đe dọa cho sự thống nhất giáo lí và ơn gọi hiệp thông, trong sự phụ thuộc lẫn nhau (137).
Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) giáo phận Limerick đã thực hiện công nghị giáo phận năm 2016, được chuẩn bị từ hai năm trước và hướng dẫn rằng trong “một kinh nghiệm hiệp hành thì tiến trình quan trọng hơn chương trình, đường đi quan trọng hơn điểm đến, điều hành quan trọng hơn sự kiện”[40]. Kết quả là một kế hoạch hiệp hành 10 năm cho giáo phận (2016-2026) được đề ra nhằm phát huy hiệu quả biến đổi suốt một thời kì dài vẫn còn thương thảo và đều đặn có những báo cáo tổng kết về tiến bộ công việc đã làm. Trước hoàn cảnh ngày nay thiếu linh mục, giáo phận đang khảo sát các mô hình mới để làm sao điều hành cộng đoàn. Công nghị Limerick quả thực là một tiếng gọi kêu gọi một Hội thánh truyền giáo và làm sao khám phá lại “ơn gọi và trách nhiệm của mọi tín hữu đã được rửa tội”. Điều đó có nghĩa là không giới hạn Hội thánh vào “một giáo xứ chỉ gồm một số những người giáo dân dấn thân trong các vai trò, thuộc phận vụ giáo hội”[41], mà mở rộng tầm nhìn ra Giáo hội như “một cộng đoàn của các cộng đoàn” gồm cả trường học, bệnh viện, dưỡng đường, nhà tù, và cả các hội đoàn, phong trào, tổ chức tôn giáo. Có xác tín căn bản là Hội thánh chỉ là mình nếu và chỉ nếu mình phục vụ cho người khác và có khả năng ra khỏi biên giới của mình tạo nên điều mà Đức thánh cha Phanxicô gọi là “một văn hóa gặp gỡ”. Sứ mạng của Hội thánh nói tóm lại không chỉ lo cho nội bộ nhưng hướng tới làm biến đổi xã hội[42]. Hội thánh hiệp hành, vì thế, không chỉ là sự cải tổ đời sống trong Hội thánh (ad intra), nhưng là một sức lực của đà tiến ra ngoài (ad extra).
– Ngoài ra, Hội thánh hiệp hành phải chiếu sáng chứng từ của mình trong bối cảnh xã hội toàn cầu hóa ngày nay. Những thách đố gay cấn nhất mà gia đình nhân loại phải đối diện đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và vun trồng thái độ đối thoại, phục vụ và hợp tác. Trước sự vô tâm và vô tín thể hiện nơi những giải pháp đầu tư cho công ích quốc gia và quốc tế, Hội thánh cần phải mở rộng không gian và những tiến hành để xây dựng lại tinh thần tham gia có trách nhiệm và liên đới. Hội thánh bước đi trên con đường cải tổ theo hướng loan báo Tin Mừng có thể đóng góp bằng sự “phục vụ xã hội” của tính hiệp hành, giúp vun trồng công lí, bình an và chăm sóc ngôi nhà chung trái đất.
– Đức Giáo Hoàng Phanxicô không tin giải đáp cho các vấn đề của Giáo hội chỉ nằm ở những cải tổ hành chánh quản trị cơ cấu. Ngược lại, ngài thấy đôi khi những giải đáp như thế lại là một sự nhượng bộ theo tinh thần thế tục ngày nay (Zeitgeist) – một não trạng thống trị của kĩ thuật, một hình thái hiện đại của chủ nghĩa Pêlagiô. Trái lại, ngài nói Giáo hội cần phải dịch chuyển đến một sự canh tân thiêng liêng và hướng tới sứ mạng Loan báo Tin Mừng. Nếu một đàng Đức Giáo Hoàng xem thấy đáng khuyến khích cơ cấu Giáo hội “li tâm”, dựa trên việc tạo thêm sức mạnh quyền quản trị và giáo huấn cho các Hội đồng Giám mục trong vùng, thì đàng khác, ngài cũng nhắc nhở các Hội thánh địa phương là thành phần của một thân thể lớn hơn, Hội thánh hoàn vũ. Việc cải tổ Giáo hội không thực hiện được ngày một ngày hai, nhưng cần thời gian để được chín muồi dần. Đó phải là kết quả của một tiến trình hướng tới cân bằng những căng thẳng để tạo nên một Hội thánh một lòng một ý[43]. Có ý kiến của một nhà thần học nêu lên rằng lộ trình chủ đạo của tiến trình hiệp hành của Hội thánh ngày càng phải mở rộng và đi sâu hơn vào mô hình hiệp hành tham gia biểu quyết (deliberative) chứ không chỉ thỉnh vấn (consultative)[44]. Viễn tượng này còn xa xôi, nhưng cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả là một “cuộc cách mạng yên tĩnh” ngài cho sensus fidelium một sức nặng đúng đắn, và ngài xác tín “Hội thánh hiệp hành phải là Hội thánh của tương lai”[45].
THƯ MỤC
- Ủy ban Thần học Quốc tế (UBTHQT),Tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Hội thánh, 02.3.2018.
- Paolo VI, motu proprioApostolica sollicitudo.Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, ngày 15.9.1965.
- Phanxicô,Evangelii gaudium,24.11.2013.
- D. Marmion,Una Chiesa che ascolta, in A. Melloni (a cura di),Sinodalità, EDB, Bologna 2021.
- A. Spadaro – C.M. Galli,La sinodalità nella vita e nella missione della Chiesa,in A. Melloni (a cura di), Sinodalità, EDB, Bologna 2021.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 137 (Tháng 9 & 10 năm 2023)
Các bài trong Bản tin Hiệp thông của Hội đồng Giám mục Việt Nam số 137 (tháng 9 & 10 năm 2023) với chủ đề: Gia đình hiệp thông, Giáo xứ hiệp thông.
MỤC LỤC
I. CHUYÊN ĐỀ • DÂN THIÊN CHÚA TIẾN BƯỚC TRONG HY VỌNG Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn • ĐỒNG TRÁCH NHIỆM, ƠN GỌI CÁ NHÂN VÀ PHÂN ĐỊNH ĐẶC SỦNG Lm. Brent Bowen, O.P • SỰ KHÔN NGOAN ĐỐI VỚI HÀNH TRÌNH THƯỢNG HỘI ĐỒNG Tiến sĩ Jessie Rogers • SỐNG MẦU NHIỆM GIA ĐÌNH GIÁO HỘI HIỆP THÔNG Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R. • GIA ĐÌNH HIỆP THÔNG Lm. Lê Văn La Vinh, OP • PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH QUA VIỆC THỰC THI VAI TRÒ MỖI NGƯỜI VÀ TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH Sư huynh Joseph Lê Văn Phượng, fsc • CĂN CƯỚC ĐÀN ÔNG, CĂN CƯỚC ĐÀN BÀ Trích tác phẩm: Etienne Roze, Verità e splendore della differenza sessuale, Cantagalli, Siena 2014 Người dịch: Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn II. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN • TIN TỔNG HỢP GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM THÁNG 7 & 8 NĂM 2023 Lm. Giuse Tạ Minh Quý • CÙNG MẸ GÓP NHẶT YÊU THƯƠNG Maria Nguyễn Thị Kim Ngọc • THÔNG TIN Một số hoạt động của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam nhân dịp đón |
[1] UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Hội thánh, 02.3.2018, 6.
[2] Ibid., s. 21.
[3] Ibid., s. 22.
[4] Ibid., s. 25.
[5] Ibid., s. 39.
[6] Ibid., s. 40.
[7] Paolo VI, motu proprio Apostolica sollicitudo. Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, ngày 15.9.1965, giới thiệu trong AAS 57.
[8] UBTHQT, Ibid., s. 42.
[9] Cf. Ibid., ss. 49 và 55.
[10] ĐGH Phanxicô, Evangelium gaudium, s. 119.
[11] UBTHQT, Ibid., s. 70.
[12] UBTHQT, Ibid., s. 76: “Chiều kích hiệp hành của Hội thánh phải được diễn tả qua thực hành và quản trị các tiến trình tham gia khả dĩ biểu lộ sự hiệp thông năng động linh hứng cho mọi quyết định Hội thánh. Lối sống hiệp hành được diễn tả trong các tổ chức và quy trình qua các giai đoạn (chuẩn bị, cử hành, tiếp đón) dẫn đến các sự kiện công nghị Hội thánh được triệu tập ở các cấp khác nhau thực hiện tính hiệp hành nền tảng của mình”.
[13] Cf. UBTHQT, Ibid., s. 79. Tài liệu của UBTHQT phần dành riêng cho Hội thánh địa phương giải thích: “Công nghị giáo phận cũng như công nghị giáo hội Đông phương địa phương, vừa là hành động quản trị vừa là một sự kiện hiệp thông, canh tân và đào sâu ý thức đồng trách nhiệm trong Hội thánh của Dân Chúa và được kêu gọi phác thảo cụ thể sự tham gia sứ vụ của mọi thành viên theo logic “mọi người”, “một số người” và “một người”. Sự tham gia của “mọi người” cần được thể hiện qua việc thỉnh ý trong tiến trình chuẩn bị Thượng hội đồng, nhằm để có thể nghe được mọi tiếng nói diễn tả Dân Thiên Chúa trong Hội thánh địa phương. Những người tham dự công nghị giáo phận hay Thượng hội đồng với tư cách theo chức vụ, được bầu chọn hoặc được Giám mục bổ nhiệm là “một số người” được tin tưởng giao phó nhiệm vụ cử hành công nghị giáo phận. Điều căn bản là, tất cả những người tham dự cùng nhau biểu lộ một hình ảnh ý nghĩa và quân bình của Hội thánh địa phương, phản chiếu sự đa dạng của ơn gọi, thừa tác vụ, đặc sủng, khả năng chuyên môn, nguồn gốc xã hội và xuất xứ khác nhau. Giám mục, người kế nhiệm các Tông đồ và là mục tử của đoàn chiên triệu tập và chủ tọa công nghị Hội thánh địa phương, được mời gọi, với thẩm quyền của mình, thực thi tác vụ hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên”.
[14] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, 24.11.2013, s. 30.
[15] UBTHQT, Ibid., s. 113.
[16] Cf. Ibid., s. 67.
[17] Cf. Ibid., s. 64.
[18] Ibid., s. 68.
[19] Ibid., s. 69.
[20] Ibid., s. 67.
[21] Ibid., s. 73. Trích Evangelii gaudium, s. 102.
[22] Cf. Ibid., s. 105.
[23] Cf. Ibid., s. 104.
[24] Cf. Ibid., s. 107.
[25] Cf. Ibid., ss. 107-108.
[26] Cf. Ibid., s. 109.
[27] Cf. Ibid., s. 113.
[28] ĐGH Phanxicô, Diễn văn dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[29] UBTHQT, Ibid., s. 100; Lumen gentium, s. 12, 306.
[30] J.J. McElwee, “Cardinal Tagle: Church Should Not Look to “Idealized Past” with Nostalgia”, bài báo ngày 22.5.2015 trên trang mạng National Catholic Reporter, https://www.ncronline.org/news/world/cardinal-tagle-churchshould-not-look-idealized-past-nostalgia.
[31] “Người nữ là yếu tố tha tính trực tiếp của hệ thống giáo sĩ trị và họ có khao khát hợp tác giai ngẫu với người nam (reciprocity with men) để xây dựng hoàn cảnh mục vụ phong nhiêu hơn. Cùng với kinh nghiệm của các nữ tu sống đời sống cộng thể huynh đệ, thường xuyên phân định cộng đoàn, sống vâng phục qua “cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần”, phụ nữ nói chung có một vai trò nền tảng phải thể hiện để phát triển, cùng với những giáo dân khác ước muốn là thành phần của Hội thánh hiệp hành, những thực hành mới mẻ trong Hội thánh với linh đạo chủ chốt là lắng nghe, phục vụ mọi người, khiêm hạ và hoán cải, tham gia và đồng trách nhiệm” (N. Becquart, “Il ruolo delle donne per ripararer la Chiesa”, in Donne Chiesa Mondo. Mensile dell’Osservatore romano n. 81, luglio 2019, 5).
[32] UBTHQT, Il sensus fidei, s. 73.
[33] Cf. Giovanni Paolo II, Discorso ai vescovi della regione ecclesisatica di Pennsylvania et New Jersey [U.S.A.] in visita “ad limina apostolorum”, 11.9.2004: “Một Giáo hội học hiệp thông lành mạnh phải dấn mình tạo lập những cấu trúc tốt hơn phục vụ cho sự tham gia, thỉnh vấn và đồng trách nhiệm của Dân Chúa, không nên xem đó như một nhượng bộ cho kiểu mẫu “dân chủ” và quản trị trần thế, nhưng là một đòi hỏi nội tại (requisito intrinseco) của sự thực thi quyền bính giám mục và là một công cụ cần thiết để kiện toàn quyền bính ấy”.
[34] ĐGH Phanxicô, Thư gởi Đức Hồng Y Marc Oullet.
[35] ĐGH Phanxicô, Diễn văn kết thúc Đại hội Toàn thể Ngoại thường lần thứ III Thượng Hội đồng Giám mục.
[36] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 236.
[37] ĐGH Phanxicô, Thư gửi dân Chúa đang lữ hành tại Đức quốc, 29.6.2019.
[38] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 246.
[39] ARCIC III, “Cùng bước trên đường. Học làm Giáo hội – địa phương, vùng miền, hoàn vũ”, 02.7.2018, trong Regno-documenti 64 (2019)1, 16-64. Văn kiện phát hành năm 2017 bởi Ủy ban Quốc tế Anh giáo – Công giáo Rôma.
[40] E. Fitzgibbon, “Together on the Way – Pope Francis and Synodality”, in The Furrow 68 (2017) 9, 537.
[41] B. Leahy (Giám mục Limerick), “Moving Forward Together in Hope”. Limerick Diocesan Pastoral Plan 2016-2026, 5. Cf. https://bit.ly/3u0ZtQu (19.5.2021).
[42] Cf. ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 102.
[43] ĐGH Phanxicô, Thư gửi dân Chúa đang lữ hành tại Đức quốc, ss. 5-9.
[44] G. O’Hanlon, The Quiet Revolution of Pope Francis. A Synodal Catholic Church in Ireland?, Messenger Publications, Dublin 2018, 122.123.
[45] Ibid., 159.
2023
Bài giảng Đức Thánh Cha – Lễ Đêm Giáng Sinh
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Đây là những bài giảng của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ đêm Giáng Sinh.
Các bài giảng của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ đêm Giáng Sinh:
Đức Phanxicô, Lễ đêm Giáng sinh năm 2022: Máng cỏ muốn nói với chúng ta điều gì?
Anh chị em thân mến,
Đêm nay, điều gì vẫn còn nói với cuộc sống chúng ta? Hai thiên niên kỷ sau khi Chúa Giêsu giáng sinh, sau nhiều lễ Giáng sinh được tổ chức với đồ trang trí và quà tặng, sau quá nhiều chủ nghĩa tiêu dùng che khuất mầu nhiệm mà chúng ta cử hành, có một nguy cơ rằng: chúng ta biết nhiều điều về Lễ Giáng sinh, nhưng lại quên mất ý nghĩa của nó. Vậy, làm thế nào để tìm lại ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh? Và trên hết, tìm kiếm nó ở đâu? Tin Mừng về sự giáng sinh của Chúa Giêsu dường như đã được viết để nói về điều này: để dẫn chúng ta trở lại nơi Thiên Chúa muốn.
Thật ra, Tin Mừng bắt đầu với một hoàn cảnh tương tự như của chúng ta: mọi người đều bận rộn và bận rộn với một sự kiện quan trọng sẽ được tổ chức, cuộc đại điều tra dân số, đòi hỏi nhiều sự chuẩn bị. Theo nghĩa này, bầu khí khi đó tương tự như bầu khí bao trùm chúng ta ngày nay vào dịp lễ Giáng sinh. Nhưng câu chuyện Tin Mừng tự tách ra khỏi bối cảnh thế tục đó: “tách ra” khỏi những hình ảnh để tập chú vào một thực tại khác. Câu chuyện tập trung vào một đối tượng nhỏ bé, có vẻ tầm thường, nhưng được nhắc đến ba lần, nơi đó các nhân vật chính quy tụ: đầu tiên là Đức Maria đặt Chúa Giêsu “trong máng cỏ” (Lc 2,7); sau đó là các thiên thần loan báo cho các mục đồng “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (c. 12); rồi đến các mục đồng, những người nhìn thấy “Hài nhi nằm trong máng cỏ” (c. 16). Máng cỏ: để khám phá lại ý nghĩa của Giáng sinh, chúng ta phải nhìn vào đó. Nhưng tại sao máng cỏ lại quan trọng như vậy? Bởi vì đó là dấu hiệu, không phải ngẫu nhiên, mà Chúa Kitô bước vào bối cảnh thế giới này. Đó là cách mà Người tỏ lộ để tự giới thiệu mình, cách mà Chúa sinh ra trong lịch sử để làm cho lịch sử được tái sinh. Vậy máng cỏ muốn nói với chúng ta điều gì? Ít nhất là ba điều: gần gũi, nghèo khó và cụ thể.
1. Sự gần gũi. Máng cỏ được sử dụng để đưa thức ăn đến gần miệng và để ăn nhanh hơn. Do đó, nó có thể tượng trưng cho một khía cạnh của con người: sự phàm ăn trong việc tiêu thụ. Bởi vì, trong khi những con vật trong chuồng nhai ngốn thức ăn, thì con người trên thế giới, khao khát quyền lực và tiền bạc, cũng nút chửng những người hàng xóm, anh chị em của mình. Có bao nhiêu cuộc chiến! Và ở bao nhiêu nơi, ngay cả ngày nay, nhân phẩm và tự do bị chà đạp! Và bao giờ nạn nhân chính của sự phàm ăn của con người cũng là những người mong manh, yếu đuối. Ngay cả Giáng Sinh này, một nhân loại ham mê tiền bạc, quyền lực và vui thú không dành chỗ cho những người bé nhỏ, cho biết bao trẻ thơ chưa chào đời, cho những người nghèo khổ và bị lãng quên, như đã làm đối với Chúa Giêsu (x. câu 7). Trước hết tôi nghĩ đến những trẻ em bị nút chửng bởi chiến tranh, nghèo đói và bất công. Nhưng Chúa Giêsu đến ngay tại đó, một hài nhi nằm trong máng cỏ của sự lãng phí và bị ruồng bỏ. Nơi Người, trẻ thơ của Bêlem, có mọi trẻ em. Và có một lời mời nhìn vào cuộc sống, chính trị và lịch sử qua con mắt của trẻ em.
Trong máng cỏ của sự từ chối và thiếu thốn, Thiên Chúa đã tự đặt mình: Người đến đó, bởi vì ở đó có những vấn đề của nhân loại, sự dửng dưng do sự vội vàng phàm ăn của sở hữu và tiêu thụ. Chúa Kitô được sinh ra tại đó và chúng ta tìm thấy Người ở đó trong máng cỏ. Người đến ở nơi đựng thức ăn để biến mình thành thức ăn của chúng ta. Thiên Chúa không phải là người cha phá huỷ con cái mình, nhưng là người Cha, trong Chúa Giêsu, biến chúng ta thành con cái của Người và nuôi dưỡng chúng ta bằng sự dịu dàng. Người đến để lay động trái tim chúng ta và nói với chúng ta rằng sức mạnh duy nhất có thể thay đổi dòng chảy lịch sử là tình yêu. Người không còn xa cách và uy quyền, nhưng trở nên gần gũi và khiêm nhường; Người, Đấng ngự trên trời, đã để mình nằm trong máng cỏ.
Anh chị em thân mến, đêm nay Thiên Chúa đến gần chúng ta vì Người quan tâm đến chúng ta. Từ máng cỏ, như lương thực cho cuộc sống chúng ta, Người nói với mỗi người: “Nếu con cảm thấy bị nhai ngốn bởi các sự kiện, nếu con bị cảm giác tội lỗi và bất xứng của mình nuốt chửng, nếu con khao khát công lý, thì Ta, Thiên Chúa, ở cùng con. Ta biết những gì con đang sống, Ta đã kinh nghiệm nó tại nơi máng cỏ đó. Ta biết những đau khổ của con và lịch sử của con. Ta sinh ra để nói với con rằng Ta đang và sẽ luôn ở bên cạnh con.” Máng cỏ Giáng Sinh, thông điệp đầu tiên của một Thiên Chúa bé thơ, nói với chúng ta rằng Người ở với chúng ta, yêu thương chúng ta và tìm kiếm chúng ta. Hãy can đảm lên, đừng để mình bị khuất phục bởi sợ hãi, cam chịu, nản lòng. Chúa sinh ra trong máng cỏ để tại đó chúng ta được tái sinh, tại chính nơi chúng ta nghĩ mình đã bi đát đến tận cùng. Không có sự dữ nào, không có tội lỗi nào mà Chúa Giêsu không muốn và không thể cứu mỗi người. Giáng sinh có nghĩa là Thiên Chúa đang ở gần, làm tái sinh sự tin tưởng!
2. Máng cỏ Bêlem, hơn cả sự gần gũi, còn nói với chúng ta về sự nghèo khó. Thật vậy, không có nhiều thứ xung quanh máng cỏ ngoài những cây bụi, một số động vật và một số thứ khác. Mọi người đang ở trong khách sạn ấm áp, không phải nơi chuồng vật lạnh lẽo của nhà trọ. Nhưng Chúa Giêsu đã được sinh ra ở đó và máng cỏ nhắc nhở chúng ta rằng xung quanh Người không có gì khác ngoài những người yêu mến Người: Mẹ Maria, Thánh Giuse và một số mục đồng; tất cả những người nghèo, hiệp nhất bởi tình cảm và sự ngạc nhiên, không phải bởi sự giàu có và những khả năng xuất chúng. Do đó, máng cỏ nghèo mang đến sự giàu có thực sự của cuộc sống: không phải tiền bạc và quyền lực, mà là các tương quan và con người.
Và con người đầu tiên, sự giàu có đầu tiên, chính là Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta có muốn ở bên Người không? Chúng ta có đến gần Người không, chúng ta có yêu mến sự nghèo khó của Người không? Hay chúng ta thích ở lại thoải mái trong sở thích của mình? Trên hết, chúng ta có đến thăm Người tại nơi Người ở, tức là trong máng cỏ nghèo nàn của thế giới chúng ta không? Ở đó Người hiện diện. Và chúng ta được kêu gọi để trở thành một Giáo hội thờ phượng Chúa Giêsu khó nghèo và phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo. Như một vị giám mục thánh thiện đã nói: “Giáo hội ủng hộ và chúc lành cho những nỗ lực biến đổi các cơ cấu bất công và chỉ đặt ra một điều kiện: những biến đổi xã hội, kinh tế và chính trị mang lại lợi ích đích thực cho người nghèo” (O.A. Romero, thông điệp mục vụ cho năm mới, ngày 1/1/1980). Dĩ nhiên, thật không dễ dàng để rời bỏ sự ấm áp nồng nhiệt của thế gian để ôm lấy vẻ đẹp trơ trụi của hang đá Bêlem, nhưng chúng ta hãy nhớ rằng không có một Giáng Sinh thực sự nếu không có người nghèo. Không có họ, chúng ta cử hành Giáng sinh, nhưng không phải là Giáng sinh của Chúa Giêsu. Anh chị em thân mến, Thiên Chúa nghèo trong lễ Giáng Sinh: hãy làm tái sinh lòng bác ái.
3. Như thế chúng ta đi đến điểm cuối cùng: máng cỏ nói với chúng ta về tính cụ thể. Thật vậy, một hài nhi nằm trong máng cỏ tượng trưng cho một khung cảnh ấn tượng, thậm chí là mộc mạc. Nó nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã thực sự trở nên xác phàm. Và do đó, để nói về Người, các lý thuyết, những tư tưởng đẹp đẽ và những tình cảm sùng kính thì không đủ. Chúa Giêsu sinh ra trong sự khó nghèo, sẽ sống nghèo và chết nghèo. Người không có nhiều diễn văn về cái nghèo, nhưng Người đã sống cái nghèo đó cho đến cùng vì chúng ta. Từ máng cỏ cho đến thập giá, tình yêu của Người dành cho chúng ta là hữu hình, cụ thể: từ khi sinh ra cho đến khi chết, người con của bác thợ mộc đã ôm lấy sự thô ráp của gỗ, cái xù xì của kiếp nhân sinh của chúng ta. Người không yêu chúng ta bằng lời nói, Người không yêu chúng ta như trò đùa!
Và do đó, Người không hài lòng với vẻ bề ngoài. Người không chỉ muốn những ý muốn tốt, Người đã trở nên xác thịt. Người được sinh ra trong máng cỏ, Người muốn một đức tin cụ thể, được tạo nên từ sự thờ phượng và lòng bác ái, chứ không phải những lời xầm xì và vẻ bề ngoài. Người, Đấng nằm trần trụi trong máng cỏ và sẽ nằm trần trụi trên thập giá, đòi chúng ta sự thật, để đi đến thực tại trần trụi của mọi sự, để đặt những lời bào chữa, biện minh và giả hình dưới chân máng cỏ. Người được Mẹ Maria dịu dàng quấn trong tấm tã, muốn chúng ta mặc lấy tình yêu. Thiên Chúa không muốn vẻ bề ngoài, mà muốn sự cụ thể. Chúng ta đừng để Giáng Sinh này trôi qua mà không làm điều gì tốt đẹp. Vì đây là lễ của Người, là sinh nhật của Người, chúng ta hãy cho Người những món quà mà Người yêu thích! Thiên Chúa cụ thể trong Lễ Giáng Sinh: nhân danh Người, chúng ta hãy làm sống lại một chút hy vọng nơi những người đã đánh mất nó!
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nhìn ngắm Chúa nằm trong máng cỏ. Chúng con thấy Chúa thật gần, luôn luôn gần bên chúng con: tạ ơn Chúa. Chúng con nhìn thấy Chúa nghèo, để dạy chúng con rằng sự giàu có thực sự không phải ở vật chất, mà ở con người, đặc biệt là nơi những người nghèo. Chúng con xin lỗi Chúa nếu chúng con không nhận ra Chúa và phục vụ Chúa trong họ. Chúng con thấy Chúa cụ thể, bởi vì tình yêu của Chúa dành cho chúng con là cụ thể: xin giúp chúng con dành cuộc đời và sự sống cho đức tin của chúng con. Amen.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2021: Thiên Chúa muốn hạ mình, còn chúng ta lại muốn trèo cao
Anh chị em thân mến,
Một ánh sáng bừng lên trong đêm. Một thiên thần xuất hiện, vinh quang Thiên Chúa bao phủ các mục đồng, và cuối cùng lời loan báo được mong chờ hàng thế kỷ đã thành hiện thực. “Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã ra đời, Người là Kitô Đức Chúa” (Lc 2,11). Tuy nhiên, điều thiên thần loan báo đã làm cho chúng ta ngạc nhiên. Thiên thần chỉ cho các mục đồng cách thức tìm thấy Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (c. 12). Đây là dấu chỉ: một trẻ thơ. Đây là tất cả: một trẻ thơ trong cảnh khó nghèo cùng cực của một máng cỏ. Chẳng còn ánh sáng, hào quang, hay tiếng hát của ca đoàn thiên thần. Chẳng có gì khác, ngoài điều đã được ngôn sứ Isaia loan báo từ trước: “Một trẻ thơ đã sinh ra cho chúng ta” (Is 9,5).
Tin Mừng nhấn mạnh đến sự tương phản này. Lời Chúa tường thuật về việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, khởi đầu với việc nhắc đến Cesare Augusto là người truyền kiểm tra dân số trên toàn cõi đất. Trình thuật Kinh Thánh đã phác họa sự vĩ đại của vị hoàng đế đầu tiên này. Nhưng ngay sau đó, Lời Chúa dẫn chúng ta đến Belem, nơi đó, chẳng có gì lớn lao, ngoại trừ một em bé khó nghèo được bọc trong tã, với các mục đồng xung quanh. Nơi đây có Chúa, trong sự nhỏ bé. Đây chính là sứ điệp. Thiên Chúa không ngự trị trên chốn cao sang uy quyền, nhưng đã hạ mình xuống nơi của sự nhỏ bé. Sự nhỏ bé là con đường Chúa chọn để đến với chúng ta, để chạm đến trái tim chúng ta, để cứu độ chúng ta và để đưa chúng ta trở về với những gì là cao quý.
Anh chị em thân mến, khi dừng lại trước hang đá, chúng ta cần nhìn vào trung tâm: chúng ta hãy vượt qua những ánh đèn, những đồ trang trí, và chúng ta hãy chiêm ngắm HÀI NHI. Trong sự nhỏ bé của mình, Thiên Chúa hiện diện cách trọn vẹn. Chúng ta nhìn nhận điều này: “Hài Nhi, Người là Thiên Chúa, Thiên Chúa-Hài Nhi.” Chúng ta hãy để mình trải nghiệm sự kinh ngạc đảo lộn này. Đấng ôm lấy toàn thể vũ trụ, lại cần được bồng ẵm trên tay. Đấng đã tạo nên mặt trời, lại cần được sưởi ấm. Chính sự hiền dịu lại cần được nâng niu. Tình yêu vĩnh cửu lại nhập thể trong một trái tim nhân loại với những nhịp đập. Đấng sáng tạo thế giới lại chẳng có một nơi trú ngụ. Hôm nay, mọi thứ đã bị đảo lộn.
Chúng ta hãy tự hỏi, chúng ta đã biết đón nhận con đường này của Thiên Chúa không? Đó thực sự là thách đố của Giáng Sinh: Thiên Chúa tự tỏ mình, nhưng con người lại không hiểu được điều này. Người trở nên bé nhỏ theo cái nhìn con người, còn chúng ta cứ mãi tìm kiếm sự vĩ đại theo kiểu thế gian, ngay cả bằng cách nhân danh Người. Thiên Chúa thì muốn hạ mình bước xuống, trong khi chúng ta lại muốn trèo đứng trên ngai tòa. Đấng Tối Cao tìm sống trong khiêm hạ, còn chúng ta ham thích sự phô trương. Thiên Chúa đến với các mục đồng, những người vô danh, chúng ta lại tìm kiếm danh vọng. Hài Nhi Giêsu sinh ra để phục vụ, còn chúng ta sống những tháng năm chỉ để theo đuổi thành công riêng mình. Thiên Chúa không kiếm tìm uy thế và quyền lực, nhưng Người đòi hỏi sự dịu dàng và tinh thần bé nhỏ nội tâm.
Đây là điều chúng ta cần xin Chúa Giêsu trong mùa Giáng Sinh: đó là ơn trở nên bé nhỏ. “Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến sự bé nhỏ. Xin giúp chúng con hiểu được rằng, đó là con đường để đạt đến sự vĩ đại đích thực.” Nhưng, đón nhận sự bé nhỏ, điều ấy một cách cụ thể có nghĩa là gì? Trước hết, điều ấy có nghĩa là Thiên Chúa muốn đến ngang qua những điều bé nhỏ trong đời sống chúng ta; Người muốn hiện diện trong những thực tại đời sống thường ngày, những cử chỉ đơn sơ được thực hiện ở nhà, trong gia đình, nơi trường học hay chốn công sở. Chính trong khung cảnh bình thường của đời sống thường nhật mà Thiên Chúa muốn thực hiện những điều phi thường. Và đây là sứ điệp mang đến niềm hy vọng lớn lao: Thiên Chúa mời gọi chúng ta coi trọng và đánh giá cao những điều bé nhỏ trong cuộc sống này. Nếu Người ở đó với chúng ta, chúng ta còn lo thiếu sự gì? Chúng ta hãy bỏ lại phía sau bao tiếc nuối về những thứ cao cả mà chúng ta vốn dĩ không có. Hãy thôi than vãn và xệ mặt, cũng như hãy từ bỏ những tham vọng chỉ khiến chúng ta thất vọng.
Thế nhưng, vẫn còn điều đáng nói hơn. Chúa Giêsu không chỉ muốn đến ngang qua những điều nhỏ bé của đời sống chúng ta, nhưng Người còn đến ngang qua chính sự nhỏ bé của chúng ta: nơi kinh nghiệm của chúng ta về sự yếu đuối, mỏng dòn, thiếu thốn, thậm chí những sai lầm. Anh chị em thân mến, nếu bóng tối đêm đen như ở Bêlem bao phủ lấy anh chị em, nếu sự dửng dưng lãnh đạm vây quanh anh chị em, nếu những vết thương mà anh chị em đang mang trong lòng thét lên rằng: “bạn kém giá trị, bạn chẳng là gì, bạn sẽ chẳng bao giờ được yêu thương như bạn muốn”, thì đêm nay, Thiên Chúa đáp lời anh chị em. Đêm nay, Người nói với mỗi người chúng ta: “Ta yêu con như chính con là. Sự nhỏ bé của con không khiến ta sợ hãi, sự mỏng manh của con không làm ta bất an. Chính ta đã trở nên bé nhỏ vì con. Để là Thiên Chúa của con, ta đã trở nên anh em của con. Hỡi những người anh chị em đáng yêu của ta, đừng sợ hãi ta, nhưng hãy tái khám phá sự vĩ đại của các con ở nơi ta. Ta ở gần bên các con, và ta mong chờ nơi các con chỉ một điều duy nhất, đó là: hãy tín thác nơi Ta và hãy mở rộng cõi lòng với Ta.”
Đón lấy sự nhỏ bé cũng có nghĩa là: ôm lấy Chúa Giêsu nơi những con người bé nhỏ của thời đại hôm nay. Hãy yêu mến Chúa Giêsu nơi những người rốt hết, hãy phục vụ Người nơi những người nghèo khó. Họ chính là những người giống Hài Nhi Giêsu nhất, Đấng đã sinh ra trong khó nghèo. Và chính nơi họ, mà Người muốn được tôn kính. Trong đêm yêu thương này, duy chỉ một nỗi sợ có thể tấn công chúng ta, đó là: làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, làm tổn thương Người bằng việc coi thường người nghèo bởi sự dửng dưng vô cảm của chúng ta đối với họ. Người nghèo là những người được Thiên Chúa yêu mến, và một ngày nào đó, chính họ sẽ chào đón chúng ta ở trên trời. Một nữ thi sĩ từng viết: “Ai không tìm thấy Nước Trời ở dưới thế, sẽ không có được nó ở trên thiên đàng” (E. DICKINSON, Poems, XVII). Chúng ta đừng bao giờ bỏ quên không ngước nhìn về Quê Trời, chúng ta hãy chăm sóc Hài Nhi Giêsu từ bây giờ, bằng việc quan tâm đến Người nơi những người đang cần đến chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đồng hóa mình với họ.
Một lần nữa, chúng ta hãy nhìn vào Hang Đá và chiêm ngắm Đức Giêsu trong đêm Giáng Sinh, đang được bao quanh bởi những người bé nhỏ và khó nghèo. Họ là những ai? Họ là những mục đồng, là những người đơn sơ và gần gũi với Chúa nhất. Họ đã tìm thấy Người bởi vì, “suốt đêm, họ thức để canh giữ đàn vật” (Lc 2,8). Họ ở đó để làm việc, bởi vì họ nghèo và cuộc sống của họ không có thời gian biểu, nhưng phụ thuộc vào đàn vật. Họ không thể sống ở nơi và theo cách họ muốn, vì họ phải điều chỉnh bản thân theo nhu cầu của đàn vật. Và Hài Nhi Giêsu đã sinh ra ở đó, gần chỗ họ, gần với những người bị quên lãng đang sống ở những vùng ngoại biên. Thiên Chúa đến những nơi mà phẩm giá con người bị ném vào nghịch cảnh. Người đến để nâng cao phẩm giá của những con người bị loại trừ, và Người tự tỏ mình cho họ trước tiên: không phải với những nhân vật quyền cao chức trọng, nhưng là với những người lao động nghèo khổ. Đêm nay, Thiên Chúa đến để mang lại cho nhọc mệt của lao động một phẩm giá. Người nhắc chúng ta rằng: mang lại phẩm giá cho con người bằng công việc thì quan trọng dường nào, cũng như mang lại phẩm giá cho công việc của con người. Bởi vì, con người là chủ chứ không phải là đầy tớ của công việc. Trong ngày của Sự Sống, chúng ta hãy lập lại: những người phải chết vì lao động đã quá đủ rồi. Và chúng ta hãy dấn thân cho điều này.
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn vào Hang Đá, bằng việc mở rộng tầm mắt đến tận cùng để bắt gặp những nhà chiêm tinh, những người đang trên đường hành hương đến thờ lạy Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm và hãy hiểu rằng, tất cả được nối kết trong sự hiệp nhất bằng việc quây quần bên Hài Nhi Giêsu: không chỉ có những người rốt hết, những mục đồng, nhưng còn có cả những bậc thông thái, những người giàu có, và những nhà chiêm tinh. Nơi Bêlem, mọi người hiện diện cùng nhau, có người giàu và người nghèo, có người uyên bác như các nhà chiêm tinh, có người lao động như các mục đồng. Tất cả mọi người liên kết với nhau vì có Đức Giêsu ở trung tâm: không phải những tư tưởng của chúng ta về Người, nhưng là CHÍNH NGƯỜI, Đấng Hằng Sống. Bởi thế, anh chị em rất thân mến, chúng ta hãy trở lại Bêlem, hãy trở về với tận nguồn cội: đó chính là tính thiết yếu của đức tin, là tình yêu nguyên thủy, là sự tôn kính và lòng bác ái. Chúng ta hãy nhìn ngắm các nhà chiêm tinh trên đường hành hương, và như Giáo hội Hiệp hành đang tiến bước, chúng ta hãy đến Bêlem, nơi có Đấng là Thiên Chúa và là con người, nơi mà Thiên Chúa chiếm vị trí cao nhất và được tôn thờ, nơi mà người rốt hết cũng có chỗ gần bên Người, nơi mà các mục đồng và người chiêm tinh cùng hiện diện trong tình huynh đệ, vốn mạnh mẽ hơn mọi phân chia tầng lớp. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta trở nên một Giáo hội thờ phượng, khó nghèo và huynh đệ. Đây là điều thiết yếu. Chúng ta hãy trở lại Bêlêm.
Thật là tốt khi chúng ta đến đó, ngoan ngùy trước Tin Mừng Giáng Sinh đang trình bày cho chúng ta Gia Đình Thánh, các mục đồng, các nhà chiêm tinh: toàn thể nhân loại đang trên cuộc hành trình. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tiến bước lên đường, bởi vì cuộc sống là một chuyến hành hương. Chúng ta hãy trỗi dậy, hãy thức tỉnh bởi vì đêm nay một ánh sáng đã bừng lên. Đó là ánh sáng dịu hiền và ánh sáng ấy nhắc chúng ta rằng, nơi sự nhỏ bé của chúng ta, chúng ta là những người con được yêu thương, chúng ta là con cái của ánh sáng (1 Tx 5,5). Cùng nhau chúng ta hãy vui mừng! bởi vì, không một ai có thể dập tắt được ánh sáng này, Ánh Sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ đêm nay chiếu soi trên toàn thế giới.
Nguồn: vaticannews.va/vi/
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2020: Con Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái Thiên Chúa
Anh chị em thân mến,
Đêm nay ứng nghiệm lời của đại ngôn sứ Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời vì chúng ta, một người con được ban tặng cho chúng ta” (Is 9,5).
Một người con được ban tặng cho chúng ta. Người ta thường nói thế này: niềm vui lớn nhất của cuộc sống, đó là niềm vui khi một trẻ thơ chào đời. Điều ấy thật phi thường, vì điều ấy thay đổi tất cả, điều ấy mang lại sức mạnh không thể hình dung, giúp vượt thắng khó khăn vất vả, giúp đánh thức khỏi mơ ngủ, bởi vì điều ấy mang lại niềm hạnh phúc lớn lao, để thấy rằng trước mắt chẳng có chi là đáng kể. Và Giáng Sinh là thế: Cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu luôn là điều mới mẻ, giúp chúng ta mỗi năm lại được tái sinh từ bên trong, để tìm thấy nơi Người sức mạnh giúp chúng ta đối diện với mọi thử thách. Đúng thế, Người hạ sinh là vì chúng ta, là cho chúng ta: cho tôi, cho bạn, cho từng người. Và đó cũng là lời ngôn sứ Isaia chúng ta nghe đêm nay: “Một trẻ thơ chào đời vì chúng ta”, và chúng ta nhẩm đi nhắc lại trong Thánh Vịnh: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta”. Chúa Giêsu “đã trao ban chính mình Người cho chúng ta” (Tt 2,14), thánh Phaolô tuyên xưng như thế. Trong Tin Mừng, các thiên thần cũng loan báo: “Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11).
Thế nhưng, có ý gì khi nói: “cho chúng ta, vì chúng ta”? Có nghĩa là, Con Thiên Chúa, bởi bản tính đầy ơn phúc, đã đến ban ơn chúc phúc cho chúng ta, để làm cho chúng ta trở thành những người con được chúc phúc. Đúng thế, Thiên Chúa đã đi vào thế giới trong vị thế của một Người Con, để nâng chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Thật là món quà tuyệt vời! Hôm nay Thiên Chúa làm cho chúng ta phải ngạc nhiên, và Ngài nói với từng người trong chúng ta rằng: Con thật tuyệt. Anh chị em thân mến, đừng để mình bị nản lòng. Anh chị em có thể có cám dỗ nghĩ về những sai lầm của mình? Nhưng Thiên Chúa nói với anh chị em rằng: “Không, con là con của Cha!”. Anh chị em cảm thấy là sẽ không làm được, hoặc sợ là không xứng đáng, sợ là không thể thoát ra khỏi đường hầm? Nhưng Chúa nói: “Can đảm lên, vì Ta ở cùng con”. Thiên Chúa không nói với anh chị em bằng lời, nhưng chính Ngài đã trở nên một người con giống như bạn, như tôi, để giúp bạn nhớ điểm xuất phát của mọi cuộc tái sinh: đó là nhận biết rằng, bạn là con cái Thiên Chúa. Đây là tâm điểm không thể xóa nhòa của niềm hy vọng của chúng ta, đây là cốt lõi, là trụ cột nâng đỡ sự hiện hữu của chúng ta. Vượt qua tất cả những gì là phẩm chất và khiếm khuyết, vượt qua tất cả những gì là tổn thương lớn nhất và những thất bại nặng nề của quá khứ, vượt qua những gì là sợ hãi và bất an về tương lai, vượt qua tất cả những điều ấy, có một sự thật là: chúng ta là những người con được thương yêu. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không phụ thuộc và không bao giờ phụ thuộc vào chúng ta: Tình yêu thương của Ngài hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn là quà tặng, hoàn toàn là phúc lành. Đêm nay, thánh Phaolô nói với chúng ta: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2,11). Chẳng có gì đáng giá hơn thế.
Một người con được ban tặng cho chúng ta. Chúa Cha đã không ban cho chúng ta một điều gì đó, mà đã ban chính Người Con Duy Nhất của Ngài, vốn là tất cả niềm vui của Ngài. Thế nhưng, nếu chúng ta nhìn vào sự vô ơn mà con người dành cho Thiên Chúa và nhìn vào sự bất công mà con người dành cho nhau, sẽ nảy sinh nghi ngờ rằng: Thiên Chúa đã làm tất cả mọi điều tốt lành cho chúng ta, đã ban cho chúng ta như thế, liệu chúng ta có thực sự đáng tin nữa không? Thiên Chúa có đánh giá chúng ta quá cao hay không? Đúng, Thiên Chúa đánh giá chúng ta quá cao, đến nỗi Ngài yêu thương chúng ta cho đến chết. Ngài không thể không yêu thương chúng ta. Ngài là thế, Ngài khác chúng ta quá nhiều. Ngài luôn luôn yêu mến chúng ta, hơn tất cả những gì mà chúng ta có thể dành cho chính bản thân mình. Đó là bí mật của Ngài để đi vào trái tim chúng ta. Thiên Chúa biết rằng, cách thức duy nhất để cứu chúng ta, để chữa lành chúng ta, là yêu thương chúng ta. Thiên Chúa biết rằng, chúng ta có thể trở nên tốt hơn, chỉ bằng cách đón nhận tình yêu thương không mệt mỏi của Ngài, tình yêu mến ấy không bao giờ thay đổi, tình yêu mến ấy biến đổi chúng ta. Chỉ có tình yêu mến của Chúa Giêsu mới biến đổi cuộc đời, chữa lành những vết thương sâu kín nhất, giải thoát chúng ta khỏi vòng luẩn quẩn của những bất mãn, giận dữ và than phiền.
Một người con được ban tặng cho chúng ta. Trong máng cỏ nghèo nàn của chuồng bò tối tăm, ở đó có chính Con Thiên Chúa. Câu hỏi nảy sinh là: Tại sao Ngài sinh ra trong đêm, không ở một nơi xứng đáng, nhưng trong cảnh nghèo nàn và bị bỏ mặc, trong khi Ngài xứng đáng được hạ sinh nơi vĩ đại nhất nơi đẹp nhất trong các cung điện? Tại sao? Tại vì, để làm cho chúng ta hiểu tình yêu thương của Ngài dành cho chúng ta tới đâu, Ngài yêu thương chúng ta đến mức yêu mến thân phận con người, đến nỗi chạm vào cái khổ đau tồi tệ nhất của chúng ta, bằng tình yêu thương của Ngài. Con Thiên Chúa sinh ra đã bị từ chối, bị bỏ mặc, để nói cho chúng ta rằng, tất cả những ai bị bỏ mặc, đều là con Thiên Chúa. Ngài đã đến thế gian trong vị thế của một trẻ thơ yếu đuối, để chúng ta có thể đón nhận sự mỏng dòn của bản thân bằng sự hiền lành dịu dàng. Và để khám phá ra một điều quan trọng: Cũng giống như Belem, Thiên Chúa thích làm nên những điều lớn lao qua sự khó nghèo của chúng ta. Ngài đã đặt tất cả niềm hy vọng của chúng ta nơi máng cỏ và Ngài không sợ cái nghèo của chúng ta: Chúng ta hãy để cho tình thương của Ngài, lòng thương xót của Ngài biến đổi những nỗi khốn cùng của chúng ta.
Vậy, đó là điều muốn nói “một người con được ban tặng cho chúng ta”. Nhưng vẫn còn một điều khác, đó là điều mà thiên thần nói với các mục đồng: “Đây là dấu cho anh em: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ này, Hài Nhi nằm trong máng cỏ, cũng là dành cho chúng ta, để định hướng cuộc đời chúng ta. Ở Belem, cũng có nghĩa là “Nhà của bánh”, Thiên Chúa ở trong máng cỏ, trong máng đựng thức ăn, điều ấy nhắc chúng ta nhớ rằng, để sống, chúng ta cần Ngài như cần bánh để nuôi sống. Chúng ta cần biết để cho mình được vượt thắng và đụng chạm tới tình yêu nhưng không, tình yêu không biết mệt mỏi, tình yêu cụ thể của Ngài. Biết bao lần, chúng ta chỉ dừng lại với những thú vui, những thành công và tính thế gian; những điều ấy nuôi chúng ta, nhưng cũng để lại khoảng trống trong tâm hồn! Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã than thở rằng: trong khi bò lừa còn nhận biết máng ăn, còn chúng ta là dân Chúa, thì không nhận biết Ngài là nền tảng cuộc đời (Is 1,2-3). Thực tế là: với sự sở hữu vô độ, chúng ta tự ném mình vào bao nhiêu máng cỏ của sự phù vân, trong khi quên đi máng cỏ Belem. Máng cỏ Belem nghèo nàn về mọi thứ, nhưng giàu có về tình yêu thương, điều ấy dạy chúng ta rằng, điều cần thiết của cuộc đời là để cho mình được Thiên Chúa yêu thương và yêu thương anh chị em mình. Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta: Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, là trẻ thơ, không nói, nhưng trao tặng sự sống. Còn chúng ta, chúng ta nói quá nhiều, nhưng lại mù quáng và không biết gì về lòng tốt.
Một người con được ban tặng cho chúng ta. Ai đã có một hài nhi bé nhỏ, sẽ biết được mức độ của tình yêu thương và sự kiên nhẫn mà chúng ta cần có. Biết bao điều cần làm, nào là cho ăn, chăm sóc, vệ sinh, chăm lo cho những gì là yếu ớt mong manh của trẻ thơ và những nhu cầu, thường thì rất khó để hiểu được. Một đứa trẻ khiến bạn cảm thấy được yêu thương, nhưng cũng dạy bạn cách yêu thương. Thiên Chúa hạ sinh làm trẻ thơ, để thôi thúc chúng ta biết chăm sóc tha nhân. Tiếng khóc dễ thương của trẻ thơ khiến chúng ta hiểu rằng, rất nhiều ý tưởng của chúng ta thực ra là vô ích. Tình yêu của Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, thời gian chúng ta có, không phải để khóc cho chúng ta, mà là để xoa dịu những giọt nước mắt của người khổ đau. Thiên Chúa ở gần chúng ta, nơi những người nghèo khó và thiếu thốn, để nói với chúng ta rằng, bằng cách phục vụ người nghèo, là chúng ta yêu mến Ngài. Từ đêm nay, như lời của một nhà thơ viết rằng: “Nhà của Chúa ở gần nhà tôi. Và nội thất của căn nhà là tình yêu thương” (E. DICKINSON, Poems, XVII).
Một người con được ban tặng cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu, chính là Ngài, Ngài là Người Con, đã nâng con lên làm con cái Thiên Chúa. Ngài đã yêu mến con như chính con là, chứ không như con mơ tưởng. Con xin ẵm lấy Ngài, lạy Hài Nhi bé nhỏ trong máng cỏ, xin hãy ẵm lấy cuộc đời con. Khi đón nhận Ngài là Bánh sự sống, con cũng muốn trao tặng cuộc sống của con. Lạy Chúa, Ngài đã cứu độ con, xin cũng dạy con biết sống phục vụ. Ngài chẳng khi nào bỏ mặc con, xin dạy con biết giúp đỡ và an ủi anh chị em con, bởi vì từ đêm nay tất cả chúng con đều là anh chị em.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2019: Tình yêu Thiên Chúa là ân sủng nhưng không
Anh chị em thân mến,
“Đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Lời tiên tri mà chúng ta được nghe trong Bài đọc 1 đã được hiện thực hóa nơi Tin Mừng: khi những người chăn chiên thức đêm canh giữ vùng đất của họ, ‘vinh quang của Chúa chiếu toả xung quanh’ (Lc 2,9). Nơi đêm đen của trái đất, một ánh sáng từ trời xuất hiện. Ánh sáng này xuất hiện trong bóng tối nghĩa là gì? Tông đồ Phaolô giải thích cho chúng ta: ‘ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người’. (Tt 2,11).”
Nhưng ân sủng này là gì? Đó là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu làm thay đổi cuộc đời, làm mới lịch sử, mang lại hòa bình và niềm vui. Đêm nay, tình yêu của Thiên Chúa được tỏ ra cho chúng ta: Hài Nhi Giêsu. Nơi Giêsu, Đấng tối cao tự trở nên Em Bé, để được chúng ta ôm lấy. Nhưng, chúng ta vẫn có thể tự hỏi, tại sao Thánh Phaolô gọi việc Thiên Chúa đến thế gian là “ân sủng”? Vì để nói cho chúng tôi rằng nó hoàn toàn nhưng không, miễn phí. Trong khi trên trái đất này, mọi thứ dường như theo logic cho đi là để nhận lại, thì Chúa lại đến nhưng không, miễn phí. Tình yêu của Ngài không so đo: chúng ta chưa làm gì để đáng được điều đó và chúng ta cũng sẽ không bao giờ đáp lại tương xứng.
Ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ. Đêm nay chúng ta nhận ra rằng, trong khi chúng ta không đủ tầm, Ngài đã tự trở nên nhỏ bé vì chúng ta; khi chúng ta chỉ lo cho mình thì Ngài đã đến giữa chúng ta. Giáng Sinh nhắc chúng ta rằng Chúa tiếp tục yêu mỗi người, ngay cả tồi tệ nhất. Đối với tôi, với bạn, với mỗi chúng ta hôm nay, Ngài nói: “Ta yêu con và sẽ luôn yêu con, con thật quý giá trong mắt Ta”. Chúa không yêu bạn vì bạn nghĩ đúng và cư xử chuẩn mực; nhưng Ngài yêu bạn chỉ vì tình yêu của Ngài vô điều kiện, nó không phụ thuộc vào bạn. Bạn có thể có những quan niệm sai lầm nhưng Chúa không từ bỏ yêu thương bạn.
Đã bao lần chúng ta nghĩ rằng Chúa tốt nếu chúng ta tốt và Ngài trừng phạt nếu chúng ta xấu. Không phải thế. Trong tội lỗi của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục yêu chúng ta. Tình yêu của Ngài không thay đổi; Ngài thành tín và kiên nhẫn. Đây là món quà chúng ta tìm thấy nơi Giáng Sinh: chúng ta kinh ngạc khám phá rằng Chúa là tất cả sự nhưng không, tất cả sự dịu dàng. Vinh quang của Ngài không làm chúng ta choáng váng, sự hiện diện của ngài không làm chúng ta sợ hãi. Ngài sinh ra nghèo khó về mọi thứ, để chinh phục chúng ta bằng sự phong phú của tình yêu.
Ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ. Ân sủng đồng nghĩa với vẻ đẹp. Đêm nay, nơi vẻ đẹp của tình yêu của Chúa, chúng ta cũng khám phá lại vẻ đẹp của chính mình, bởi vì chúng ta là những người được yêu của Thiên Chúa. Dù tốt hay xấu, dù sức khỏe và bệnh tật, vui hay buồn, trong mắt Ngài, chúng ta vẫn thật đẹp, không phải vì những chúng ta làm, nhưng vì những gì chúng ta là. Có một vẻ đẹp không thể xóa bỏ nơi chúng ta, một vẻ đẹp không thể thay thế, đó là cốt lõi của con người chúng ta. Hôm nay, Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta về điều đó, khi bằng tình yêu, Ngài mang lấy nhân tính của chúng ta và “kết hôn” với nó mãi mãi.
Thật vậy, “niềm vui lớn” được loan báo cho các mục đồng đêm nay là “của tất cả mọi người”. Nơi những người chăn chiên, những người chắc chắn không phải là thánh, chúng ta nhìn thấy mình, với những mong manh và yếu đuối của chúng ta. Khi Ngài gọi họ, Chúa cũng gọi chúng ta, vì Ngài yêu chúng ta. Và, vào những đêm tối của cuộc đời, Ngài nói với chúng ta như đã nói với họ: “Đừng sợ” (Lc 2,10). Hãy can đảm, đừng mất niềm tin, đừng mất hy vọng, đừng nghĩ rằng yêu thương là mất thời gian! Đêm nay tình yêu đã vượt qua nỗi sợ hãi, một hy vọng mới xuất hiện, ánh sáng dịu dàng của Thiên Chúa đã chiến thắng bóng tối kiêu ngạo của con người. Nhân loại, Thiên Chúa yêu bạn và trở thành con người vì bạn, bạn không còn cô đơn!
Anh chị em thân mến, chúng ta phải làm gì khi đứng trước với ân sủng này? Chỉ một điều duy nhất: đón nhận món quà đó. Trước khi đi tìm Thiên Chúa, chúng ta hãy để mình được Thiên Chúa tìm. Chúng ta không khởi đi từ khả năng của mình, nhưng từ ân sủng của Ngài, vì Ngài, Giêsu, là Đấng Cứu Độ. Chúng ta hãy chăm chú ngắm nhìn Hài Nhi và để mình được chiếm lấy bởi sự dịu dàng của Ngài. Chúng ta sẽ không còn lý do để từ chối, không để mình được Ngài yêu: bởi những sai lầm trong cuộc sống, những điều không ổn trong Giáo hội, những gì chưa được trên thế giới. Nó sẽ là thứ yếu, bởi vì đối diện với tình yêu điên dại của Giêsu, một tình yêu tất cả sự nhẹ nhàng và gần gũi, không còn sự lên án nữa.
Vì thế, câu hỏi của Giáng Sinh là: “Tôi có để mình được Chúa yêu không? Tôi có buông chính mình cho tình yêu của Ngài để cứu tôi không?
Một món quà tuyệt vời như thế xứng đáng có được một lòng biết ơn lớn. Đón nhận ân sủng là biết cảm ơn. Nhưng trong cuộc sống, chúng ta thường quên lòng biết ơn. Hôm nay là ngày thích hợp để đến Nhà Tạm, hang đá, máng cỏ để nói lời cảm ơn. Chúng ta đón nhận món quà là Chúa Giêsu, để rồi sau đó trở thành một món quà như Chúa Giêsu. Trở thành một món quà mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Đó là cách tốt nhất để thay đổi thế giới: chúng ta thay đổi, Giáo hội thay đổi, lịch sử thay đổi khi chúng ta bắt đầu, không phải là muốn thay đổi người khác, nhưng là thay đổi chính mình, biến cuộc sống của chúng ta thành một món quà.
Đêm nay Giêsu cho chúng ta thấy điều đó: Ngài không thay đổi lịch sử bằng cách ép uổng, nhưng bằng món quà sự sống của mình. Ngài đã không chờ đợi chúng ta trở nên tốt rồi yêu chúng ta, nhưng Ngài đã hiến mình cho chúng ta cách nhưng không, miễn phí. Chúng ta cũng vậy, đừng chờ đợi người khác trở nên tốt rồi mới làm điều tốt cho họ, hay chờ Giáo hội hoàn hảo rồi mình mới yêu. Hãy bắt đầu từ chúng ta. Đây là cách đón nhận món quà ân sủng. Và thánh thiện không gì khác hơn là bảo vệ tính nhưng không này.
Có một truyền thuyết đẹp kể rằng, khi Chúa Giêsu chào đời, các mục đồng đã chạy đến hang đá với nhiều món quà khác nhau. Mỗi người mang đến những gì họ có, nào là thành quả công việc, nào là những thứ quý giá. Nhưng, trong khi mọi người dâng lên những món quà của mình, thì có một người không có gì. Anh ấy rất nghèo, không có gì để dâng. Trong khi mọi người tranh nhau tặng quà, anh đứng tách biệt, xấu hổ. Có lúc thánh Giuse và Đức Mẹ khó khăn khi nhận tất cả những món quà, đặc biệt là Đức Mẹ phải chăm lo Hài Nhi. Nhìn thấy anh mục đồng tay không đó, Mẹ nói anh đến gần hơn, và đặt Chúa Giêsu vào tay anh. Anh chăn cừu, tay bồng Chúa, nhận ra rằng anh đã nhận điều anh không đáng được, rằng anh có được món quà lớn nhất của lịch sử trong tay mình. Anh ta nhìn đôi tay mình, đôi tay luôn có vẻ trống rỗng, để trở thành cái nôi của Chúa. Anh cảm nhận mình được yêu và vượt qua sự mặc cảm, bắt đầu cho người khác thấy Chúa Giêsu, bởi vì anh đã không thể giữ lấy cho mình Món quà của các món quà.
Anh chị em thân mến, nếu đôi tay anh chị em dường như trống rỗng, nếu anh chị em thấy trái tim mình nghèo tình yêu, thì đêm nay là đêm dành cho anh chị em. Ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ để tỏa sáng trong cuộc sống của anh chị em.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2018: Bêlem có nghĩa là ngôi nhà bánh
Anh chị em thân mến!
Cùng với Maria, người đã thành hôn với mình, Thánh Giu-se đã đi tới “thành Bêlem, là thành của vua Đavít” (xc. Lc 2,4). Đêm nay, chúng ta cũng trẩy về Bêlem để chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh.
1. Bêlem: Danh xưng này có nghĩa là ngôi nhà bánh. Hôm nay, Thiên Chúa muốn gặp gỡ nhân loại trong “ngôi nhà” ấy. Ngài biết rằng, chúng ta cần tới lương thực để sống. Nhưng Ngài cũng biết rằng, lương thự thế gian không làm cho con tim được no thỏa. Trong Kinh Thánh, tội Nguyên Tổ của nhân loại được liên kết với việc tiếp nhận lương thực: “Họ vặt lấy những trái cây và ăn” – Sách Sáng Thế thuật lại (3,6). Họ vặt và ăn. Con người đã trở nên tham lam và háu ăn. Việc chiếm hữu và gom góp mọi thứ xem ra có vẻ như là ý nghĩa đối với nhiều người. Một sự tham lam vô độ xuyên suốt lịch sử nhân loại đã dẫn tới những nghịch lý của thời đại hôm nay, mà theo đó, một số ít người thì chè chén say sưa thỏa thích đến độ nứt mỡ, trong khi rất nhiều người khác lại không có đủ lương thực để sống.
Bêlem được coi là khúc ngoặt trong quá trình lịch sử. Ở đó, Thiên Chúa được sinh ra tại ngôi nhà bánh trong một chiếc máng thức ăn. Như thể Ngài muốn nói rằng: Ta ở đây với tư cách là lương thực của các ngươi. Ngài không lấy gì, nhưng Ngài giới thiệu một điều gì đó để ăn; Ngài không cho cái gì khác ngoài bản thân Ngài. Tại Bêlem, chúng ta khám phá ra rằng, Thiên Chúa không phải là người lấy mất sự sống, nhưng là Đấng trao ban sự sống. Chúa Giêsu nói với kẻ mà ngay từ đầu đã quen với việc cầm lấy và ăn rằng: “Hãy cầm lấy mà ăn; đây là Mình Thầy” (Mt 26,26). Thân xác bé nhỏ của hài nhi Bêlem mở ra một mẫu sống mới: không ngấu nghiến và tích trữ, nhưng chia sẻ và cho đi. Thiên Chúa khiến mình trở nên bé nhỏ để trở thành lương thực cho chúng ta. Trong khi chúng ta nuôi sống bản thân mình bằng Bánh Hằng Sống, chúng ta sẽ có thể được tái sinh trong Tình Yêu cũng như có thể nghiền nát vòng xoáy của sự tham lam và sự vô độ. Từ “ngôi nhà bánh”, Chúa Giêsu tái dẫn con người đi về nhà, để con người trở thành người nhà của Thiên Chúa, và trở thành người anh em của những người chung quanh mình. Nếu chúng ta ngắm nhìn Hang Đá, chúng ta sẽ hiểu được rằng, điều nuôi dưỡng sự sống, không phải là sự sở hữu, nhưng là Tình Yêu; không phải là sự tham lam, nhưng là Đức Ái; không phải là sự thừa bứa mà người ta thích khoe ra, nhưng là sự giản dị mà người ta phải bảo vệ.
Thiên Chúa biết rằng, chúng ta cần tới lương thực mỗi ngày. Vì thế, Ngài đã trao hiến chính sự sống của Ngài cho chúng ta mỗi ngày, từ hang đá Bêlem cho tới Bữa Tiệc Ly tại Giêrusalem. Và ngay cả ngày hôm nay, trên bàn Thờ, Ngài cũng vẫn đang còn biến mình thành tấm bánh được bẻ ra cho chúng ta: Ngài gõ cửa nhà chúng ta để bước vào, để cùng dùng bữa với chúng ta (xc. Kh 3,20). Nhân dịp Đại Lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy lãnh nhận Chúa Giêsu, bánh bởi trời, trên trái đất: một lương thực mà nó không biết đến ngày hết hạn, nhưng làm cho chúng ta được thưởng nếm sự sống đời đời ngay từ bây giờ.
Tại Bêlem, chúng ta khám phá ra rằng, sự sống của Thiên Chúa chảy trong mạch máu của nhân loại. Nếu chúng ta đón nhận sự sống ấy, thì lịch sử sẽ thay đổi, khởi đi từ mỗi người chúng ta. Vì nếu Chúa Giêsu biến đổi con tim, thì trung tâm điểm của đời sống sẽ không còn phải là cái bản ngã ích kỷ và đói khát của tôi nữa, nhưng là Đấng đã đến thế gian này vì Tình Yêu. Chúng ta – những người mà đêm nay được mời gọi tuốn về Bêlem, tuốn về ngôi nhà bánh – hãy tự hỏi: Điều gì là lương thực nuôi sống tôi mà tôi không thể khước từ? Phải chăng đó là Thiên Chua hay là một điều gì khác? Nếu chúng ta bước vào hang đá và nhận ra hương thơm mới của sự sống, hương thơm của sự giản dị trong sự nghèo khó mong manh của hài nhi, chúng ta sẽ tự hỏi: Chúng ta có thực sự cần tới quá nhiều những đồ vật và những thực đơn quá phức tạp để sống hay không? Tôi có cố gắng khước từ những điều phụ tùy nhưng quá dư thừa để chọn một cuộc sống đơn giản hay không? Tại Bêlem, bên cạnh Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy những con người đã lên đường, chẳng hạn như Đức Maria, Thánh Giu-se và các Mục Đồng. Chúa Giêsu chính là lương thực cho sự lên đường. Ngài không muốn việc ngừng tiêu hóa kéo dài quá lâu và trì trệ mà trong đó không có bất cứ điều gì chuyển động, nhưng Ngài thôi thúc chúng ta hãy mau chóng đứng dậy khỏi bàn để trở nên một tấm bánh được bẻ ra cho người khác. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: Nhân dịp Đại Lễ Giáng Sinh, tôi có bẻ tấm bánh của tôi ra cho những người không có bánh hay không?
2. Tới Bêlem với tư cách là ngôi nhà bánh, giờ đây chúng ta hãy suy tư về Bêlem với tư cách là thành của vua Đavít. Ở đó, khi còn trẻ, vua Đavít là một mục đồng, và với tư cách là một mục đồng, ông đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành một mục tử và trở thành người dẫn dắt Dân Ngài. Nhân dịp Đại Lễ Giáng Sinh, tại thành Đavít, các mục đồng cũng đã nồng nhiệt chào mừng Chúa Giêsu. Trong đêm hôm ấy, Tin Mừng nói về họ rằng: “Họ rất đỗi sợ hãi” (xc. Lc 2,9), nhưng Thiên Thần nói với họ: “Đừng sợ!” (Lc 2,10). Mệnh lệnh Đừng Sợ này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng như là một điệp khúc của Thiên Chúa trên con đường kiếm tìm con người. Vì ngay từ đầu, con người đã luôn sợ hãi trước Thiên Chúa mỗi khi tái phạm tội: “Vì tôi sợ hãi […] nên tôi đã ẩn trốn” (St 3,10) – Ađam đã nói như thế sau khi đã phạm tội. Bêlem chính là phương dược khắc trị sự hãi sợ, vì bất chấp “tiếng thưa không” của con người, Thiên Chúa vẫn luôn luôn nói “có” ở đó: Ngài sẽ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mãi mãi. Và để sự hiện diện của Ngài không khơi lên nỗi sợ hãi, Ngài đã đến với tư cách là một hài nhi mỏng manh. Đừng sợ: Mệnh lệnh ấy đã không được nói với các vị Thánh, nhưng là nói với các mục đồng, những con người giản dị, tức những con người mà chắc chắn hồi đó đã không lôi kéo sự chú ý nhờ vào phong thái tốt đẹp hay nhờ vào sự đạo đức của mình. Con vua Đavít đã được sinh ra giữa các mục đồng để nói với chúng ta rằng, không ai còn phải cô đơn nữa; chúng ta có một mục tử, Đấng thắng vượt những nỗi sợ hãi của chúng ta, và yêu thương tất cả chúng ta, không trừ một ai.
Các mục đồng Bêlem cũng nói cho chúng ta biết, chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa như thế nào. Họ thức suốt đêm: họ không ngủ, nhưng thực hiện điều mà Chúa Giêsu sẽ không ngừng yêu cầu: họ tỉnh thức (xc. Mt 25,13; Mc 13,35; Lc 21,36). Họ luôn tỉnh thức, họ chờ đợi trong đêm tối, và “vinh quang của Thiên Chúa bao phủ họ” (Lc 2,9). Điều đó cũng được áp dụng cho chúng ta. Cuộc sống chúng ta có thể trở thành một sự mong chờ, nó tín thác vào Thiên Chúa và khát khao Ngài ngay cả trong những đêm thức trắng; và rồi chúng ta sẽ được nhận lãnh ánh sáng của Ngài. Nhưng cuộc sống chúng ta cũng có thể trở thành một yêu sách mà ở đó chỉ có sức riêng và những phương tiện riêng của mình là đáng kể; tuy nhiên, trong trường hợp ấy, con tim vẫn cứ đóng kín trước ánh sáng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thích được chờ đợi, nhưng không phải là chờ đợi Ngài bằng cách nằm ngủ trên những chiếc ghế tràng kỷ. Trong thực tế, các mục đồng đã chuyển động: “Họ vội vã lên đường” – Tin Mừng nói như thế (Lc 2,16). Họ không đứng lỳ ra đó như những người nghĩ rằng, mình đã tới nơi rồi, và không cần bất cứ điều gì nữa, nhưng họ ra đi, để đàn chiên lại một mình, họ đánh liều vì Thiên Chúa. Và sau khi thấy Chúa Giêsu, họ đã lên đường để loan báo Ngài, mặc dù họ không biết nói năng cách khôn khéo, đến độ “khi nghe những người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên” (Lc 2,18).
Tỉnh thức chờ đợi, lên đường, chấp nhận rủi ro, thuật lại những điều tốt đẹp: Đó là những cử chỉ Tình Yêu. Vị mục tử tốt lành đến vào ngày Lễ Giáng Sinh để trao tặng sự sống cho đoàn chiên, sẽ đặt ra cho Phêrô, và qua ông, cho tất cả chúng ta nữa, một câu hỏi có tính quyết định vào Ngày Lễ Phục Sinh: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15). Tương lai của đoàn chiên sẽ phụ thuộc vào câu trả lời. Đêm nay chúng ta được kêu gọi hãy trả lời và nói với chính Ngài rằng: “Con yêu mến Thầy”. Câu trả lời của mỗi cá nhân sẽ có ý nghĩa quyết định đối với tất cả đoàn chiên.
“Nào chúng ta hãy tới Bêlem” (Lc 2,15): Các mục đồng nói với nhau như thế, và họ cũng đã làm điều đó. Lạy Chúa, chúng con cũng muốn tới Bêlem. Con đường ngày hôm nay cũng vẫn đang còn gập ghềnh: Vì thế, ngọn đồi ích kỷ phải được thắng vượt, và ở đây, người ta không được phép trượt chân vào trong những vực thẳm của thế gian và của chủ nghĩa hưởng thụ. Con muốn tới Bêlem, lạy Chúa, vì Chúa đang đợi con ở đó. Và con muốn làm cho mình ý thức được rằng, Chúa – Đấng đang nằm trong một chiếc máng thức ăn – chính là bánh hằng sống của con. Con cần tới hương thơm thoang thoảng của Tình Yêu Chúa để cũng trở thành chính lương thực cho thế giới. Xin vác con trên đôi vai của Chúa, lạy Mục Tử tốt lành: Được Chúa yêu thương, con cũng sẽ có thể yêu thương cũng như có thể cầm lấy cánh tay của những người anh chị em con. Rồi sẽ là Đại Lễ Giáng Sinh khi con có thể thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (xc. Ga 21,17)
Nguồn: daminhtamhiep.net
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2017: Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!
Anh chị em thân mến,
Bà Maria “đã sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Với những lời đơn giản và rõ ràng này, Luca đưa chúng ta vào trọng tâm của đêm thánh ấy: Mẹ Maria sinh con; Mẹ cho chúng ta Chúa Giêsu, Ánh Sáng của trần gian. Một câu chuyện đơn giản dìm chúng ta vào trong biến cố làm thay đổi lịch sử của chúng ta mãi mãi. Mọi sự, trong đêm hôm ấy, đã trở nên nguồn hy vọng.
Chúng ta hãy trở lui lại mấy câu. Theo sắc lệnh của Hoàng đế, Maria và Giuse thấy rằng mình buộc phải lên đường. Các ngài phải rời bỏ người thân, nhà cửa và xứ sở để đi làm kiểm tra dân số. Đây là cuộc hành trình không thoải mái hay dễ dàng cho đôi vợ chồng trẻ sắp sinh con, vì phải rời khỏi xứ sở của mình. Trong lòng các ngài tràn đầy hy vọng và mong đợi vì em bé sắp sinh ra; nhưng những bước chân lại nặng trĩu vì những bất trắc và nguy hiểm đang đợi chờ những người phải rời nhà ra đi.
Và rồi các ngài thấy mình phải đối mặt với điều có lẽ là khó khăn hơn cả. Các ngài đến Bêlem và thấy rằng đó là một miền đất chẳng mong đợi mình. Một miền đất không có chỗ cho các ngài.
Và nơi đó, nơi mọi thứ đều là một thử thách, Đức Maria đã sinh ra cho chúng ta Đấng Emmanuel. Con Thiên Chúa phải sinh ra trong một chuồng bò vì người nhà của Ngài không dành chỗ cho Ngài. “Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Và nơi đó, trong tăm tối của một thành phố chẳng có phòng cũng chẳng có chỗ cho người lạ từ xa đến, trong tăm tối của một thành phố nhộn nhịp mà lúc này dường như muốn hình thành bằng cách quay lưng lại với người khác … ngay ở nơi đó, một đốm lửa cách mạng của tình yêu của Thiên Chúa đã bừng lên. Ở Bêlem, một tia hy vọng đã mở ra cho những người đã mất đất đai, quê hương, mơ ước của mình; cả cho những ai bị ngộp thở vì cuộc sống đóng kín.
Theo bước Giuse và Maria có biết bao dấu chân khác. Chúng ta thấy những cuộc hành trình của những gia đình buộc phải ra đi vào thời của chúng ta ngày nay. Chúng ta thấy những cuộc hành trình của hàng triệu người không muốn ra đi nhưng phải bỏ lại những người thân vì bị xua đuổi khỏi đất nước mình. Trong nhiều trường hợp, cuộc ra đi này đầy hy vọng, hy vọng cho tương lai; nhưng với nhiều người khác, cuộc ra đi này chỉ có thể mang một tên gọi: thoát thân. Thoát khỏi những Hêrôđê của thời nay, là những kẻ dùng quyền lực thống trị để làm giàu, và không hề áy náy khi đổ máu người vô tội.
Maria và Giuse, những người không có phòng trọ, lại là những người đầu tiên đón nhận Đấng đến để ban cho tất cả chúng ta quyền công dân. Đấng đã dùng sự nghèo khó và khiêm hạ để công bố và tỏ cho thấy quyền năng và tự do đích thực được thể hiện nơi việc tôn vinh và trợ giúp những ai yếu đuối và thấp hèn.
Đêm ấy, Đấng không có nơi để sinh ra đã được loan báo cho những người không có chỗ trên bàn ăn hay trên đường phố. Các mục đồng là những người đầu tiên nghe được Tin Mừng này. Do công việc của mình, họ là những người buộc phải sống ở rìa xã hội. Hoàn cảnh sống của họ và nơi họ phải sống không cho họ thi hành mọi nghi lễ buộc phải giữ về việc thanh tẩy; nên họ bị coi là ô uế. Da thịt, quần áo, mùi vị cơ thể, cả cách nói năng, nguồn gốc của họ, tất cả đều phản lại họ. Tất cả mọi thứ về họ đều gây ra mất tin tưởng. Họ là những người nam và nữ bị xa cách, làm cho người khác sợ hãi. Họ bị coi là những kẻ ngoại giữa những người tin, là kẻ tội lỗi giữa những người công chính, là ngoại kiều giữa các công dân. Nhưng thiên thần lại nói với họ – những người dân ngoại, tội nhân và ngoại kiều ấy: “Đừng sợ; vì tôi mang đến cho anh em một tin vui lớn lao, cũng là tin vui cho toàn dân: hôm nay Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Mêsia, là Chúa” (Lc 2,10-11).
Đây là niềm vui mà đêm nay chúng ta được mời gọi chia sẻ, cử hành và loan báo. Niềm vui mà Thiên Chúa, với lòng thương xót vô hạn của Ngài, đã ôm lấy chúng ta khi chúng ta còn là dân ngoại, là kẻ tội lỗi và người xa lạ, và Ngài đòi chúng ta cũng phải làm như vậy.
Niềm tin mà chúng ta tuyên xưng đêm nay cho chúng ta thấy được Thiên Chúa hiện diện trong những hoàn cảnh mà chúng ta tưởng Ngài vắng mặt. Ngài hiện diện nơi người khách đến quấy rầy, mà lắm khi chúng ta không nhận ra, người khách đang đi qua các thành phố và khu xóm của chúng ta, đang đi trên những chuyến xe buýt cùng chúng ta và gõ cửa nhà chúng ta.
Chính niềm tin này cũng thôi thúc chúng ta dành chỗ cho sự sáng tạo mới về mặt xã hội, và không sợ phải sống những mối tương quan mới, trong đó không ai cảm thấy rằng không có chỗ cho mình trên trái đất này. Giáng sinh là thời gian để biến sức mạnh của sợ hãi thành sức mạnh của tình yêu, sức mạnh cho một sáng tạo mới của lòng bác ái. Lòng bác ái ấy không bằng lòng với chuyện bất công, như thể đó là điều đương nhiên, nhưng giữa những căng thẳng và mâu thuẫn, can đảm trở thành “ngôi nhà bánh”, một miền đất hiếu khách. Đó là điều mà Thánh Gioan Phaolô II đã nói với chúng ta: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (Bài giảng trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ giáo hoàng, 22 tháng Mười 1978).
Nơi Hài nhi Bêlem, Thiên Chúa đến gặp chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những người tham gia tích cực vào đời sống chung quanh chúng ta. Ngài hiến mình cho chúng ta, để chúng ta có thể bồng ẵm Ngài, nâng đỡ Ngài và ôm lấy Ngài. Để trong Ngài, chúng ta không còn sợ phải bồng ẵm, nâng đỡ và ôm lấy những người đói khát, người xa lạ, người trần trụi, đau yếu, người bị giam cầm (x. Mt 25,35-36). “Đừng sợ! Hãy mở ra, hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô”. Nơi Hài nhi này, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên những sứ giả của niềm hy vọng. Ngài mời gọi chúng ta trở nên những người lính canh cho rất nhiều người đang bị đè nén bởi nỗi tuyệt vọng vì gặp những cánh cửa đóng kín. Nơi Hài nhi này, Thiên Chúa làm cho chúng ta trở thành những người thực thi lòng mến khách của Ngài.
Hân hoan vì quà tặng là Hài nhi Bêlem, chúng con xin Chúa cho tiếng khóc của Chúa thức tỉnh chúng con ra khỏi thói thờ ơ, mở to mắt trước những ai đang đau khổ. Xin cho lòng nhân hậu của Chúa đánh thức sự nhạy cảm của chúng con và cho chúng con thấy mình được mời gọi nhận ra Chúa nơi những người đến thành phố của chúng con, bước vào lịch sử và cuộc sống của chúng con. Xin cho lòng nhân hậu cách mạng của Chúa dẫn chúng con đến chỗ cảm nghiệm được lời mời gọi trở nên những người đem lại niềm hy vọng và lòng nhân hậu cho dân tộc chúng con.
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2016: Mầu nhiệm Giáng Sinh chất vấn và khuấy đảo chúng ta
Anh chị em thân mến,
Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tit 2,11). Lời của Thánh Tông đồ Phaolô tỏ lộ mầu nhiệm của đêm thánh này: ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đó là món quà tặng không; nơi Hài nhi được ban cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình.
Đó là đêm của vinh quang, vinh quang được các thiên thần loan báo ở Bêlem và ngày nay chúng ta cũng loan báo vinh quang ấy trên khắp thế giới. Đó là đêm của niềm vui, bởi vì từ lúc ấy cho đến mãi về sau, Thiên Chúa vô biên hằng hữu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta: Ngài không ở xa, chúng ta không phải đi tìm Ngài ở trên trời hoặc trong các khái niệm thần bí; Ngài ở gần bên, Ngài đã làm người và sẽ không bao giờ xa cách nhân loại chúng ta nữa, nhân loại mà Ngài đã nhận làm của mình. Đó là đêm của ánh sáng: ánh sáng đã được tiên tri Isaia loan báo (9,1), ánh sáng sẽ soi chiếu những người đi trong bóng tối, đã xuất hiện và bao phủ các mục đồng tại Bêlem (x. Lc 2,9).
Các mục đồng chỉ nhìn thấy “một trẻ thơ được sinh ra cho chúng ta (Is 9,5) và họ hiểu rằng tất cả vinh quang này, tất cả niềm vui này, tất cả ánh sáng này đều quy vào một điểm duy nhất, đó là dấu hiệu mà các thiên thần đã chỉ cho họ: “Các ngươi sẽ thấy một em bé được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Đây vẫn luôn là dấu chỉ để tìm gặp Chúa Giêsu. Không chỉ vào thời ấy, mà cả ngày nay nữa. Nếu chúng ta muốn mừng lễ Giáng sinh một cách đích thực, chúng ta phải chiêm ngắm dấu chỉ này: nét đơn sơ mỏng manh của một em bé sơ sinh, sự êm ái của nơi em nằm, sự mềm mại dịu dàng của tấm khăn bao bọc em. Thiên Chúa ở đó.
Qua dấu chỉ này Phúc Âm cho thấy một nghịch lý: tuy nói về vị Hoàng đế, vị Thủ lãnh, là những bậc quyền thế của thời ấy, nhưng Thiên Chúa lại không tỏ ra như thế; Người không sinh ra trong cung điện hoàng gia, nhưng trong sự nghèo nàn của một chuồng bò; không phải trong phô trương trình diễn, nhưng trong sự đơn giản của cuộc sống; không tỏ ra uy quyền, nhưng lại nhỏ bé đến ngạc nhiên. Để gặp được Người, chúng ta phải đến nơi Người đang ở: chúng ta phải cúi xuống, phải hạ mình, phải trở nên bé nhỏ. Hài nhi mới sinh chất vấn chúng ta: Người kêu gọi chúng ta từ bỏ ảo tưởng phù phiếm để đi vào điều chính yếu, từ bỏ những tham vọng vô độ, những bất mãn không cùng và nỗi buồn bực vì điều gì đó chúng ta sẽ chẳng bao giờ có. Chúng ta phải bỏ đi những điều ấy để tái khám phá bình an, niềm vui và ý nghĩa của cuộc sống trong sự đơn sơ của Chúa Hài nhi.
Chúng ta hãy để cho Hài nhi trong máng cỏ chất vấn chúng ta, nhưng chúng ta cũng hãy để cho mình bị chất vấn bởi những trẻ em trong thế giới ngày nay, là những trẻ không được nằm trong nôi, không được cha mẹ yêu thương vỗ về, mà phải nằm trong “chiếc nôi phẩm giá bẩn thỉu”: trú ẩn dưới lòng đất để tránh oanh kích, nằm trên vỉa hè của một thành phố lớn, chịu nhét dưới đáy của một chiếc thuyền chở người nhập cư quá tải. Chúng ta hãy để cho mình bị chất vấn bởi những trẻ em không được sinh ra, bởi những trẻ em kêu khóc vì không ai làm thoả mãn cơn đói của chúng, bởi những trẻ em cầm trên tay không phải là đồ chơi mà là vũ khí.
Mầu nhiệm Giáng Sinh -là ánh sáng và niềm vui- chất vấn và khuấy đảo chúng ta, vì vừa là mầu nhiệm của hy vọng vừa là mầu nhiệm của đau buồn. Mầu nhiệm ấy mang theo hương vị của nỗi buồn, bởi vì tình yêu không được đón nhận và sự sống bị chối bỏ. Đó là điều xảy ra cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, các ngài chỉ gặp những cánh cửa đóng kín, nên phải đặt Chúa Giêsu trong máng cỏ “vì không có chỗ cho các ngài trong nhà trọ” (c. 7). Chúa Giêsu sinh ra trong sự từ chối của một số người và nhiều người khác dửng dưng. Ngày nay cũng có thể có sự dửng dưng ấy, khi Giáng sinh trở thành một ngày lễ mà nhân vật chính là chính chúng ta, chứ không phải là Chúa Giêsu; khi ánh đèn của thương mại đẩy ánh sáng của Thiên Chúa vào trong bóng tối; khi chúng ta chỉ quan tâm đến quà cáp mà dửng dưng với những người bị loại trừ.
Nhưng hương vị chủ yếu của Giáng sinh là hương vị hy vọng bởi vì, dù cuộc sống chúng ta nhiều u tối, ánh sáng của Thiên Chúa vẫn ngời sáng. Ánh sáng êm dịu của Ngài không làm cho chúng ta sợ hãi; Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, lôi kéo chúng ta đến với Người bằng sự dịu dàng, sinh ra nghèo hèn và mong manh giữa chúng ta, như một người trong chúng ta. Người sinh ra ở Bêlem, nghĩa là “ngôi nhà bánh”. Như thể Chúa muốn nói với chúng ta rằng Người sinh ra để làm tấm bánh cho chúng ta; Người đi vào cuộc sống để ban cho chúng ta sự sống của Người; Người đi vào thế giới của chúng ta để ban cho chúng ta tình yêu của Người. Người không đến để huỷ hoại hay chỉ huy nhưng để nuôi dưỡng và phục vụ. Như thế có một sợi chỉ xuyên suốt nối liền máng cỏ và thập giá, nơi mà Chúa Giêsu trở nên tấm bánh bị bẻ ra: đó là sợi chỉ tình yêu tự hiến và cứu độ chúng ta, mang lại ánh sáng cho cuộc đời chúng ta và bình an cho tâm hồn chúng ta.
Các mục đồng hiểu rõ điều này trong đêm ấy. Họ thuộc về số những người bị gạt ra bên lề vào thời ấy. Nhưng không ai trong số họ bị gạt ra khỏi cái nhìn của Thiên Chúa và chính họ mới là những người được mời đến gặp Hài nhi Giêsu. Những kẻ cảm thấy tự tin, tự mãn, lại đang ở nhà với tài sản của mình; còn các mục đồng thì “vội vã ra đi” (Lc 2,16). Đêm nay chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu chất vấn và kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng đến với Người, khởi đi từ chỗ chúng ta cảm thấy mình bị loại trừ, từ những giới hạn của chúng ta. Chúng ta hãy chạm vào sự dịu dàng có sức cứu thoát.
Chúng ta hãy đến gần Thiên Chúa là Đấng đang đến với chúng ta, chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm máng cỏ, và hình dung sự kiện Chúa Giêsu sinh ra: ánh sáng, bình an, nghèo đến tột cùng, và bị từ chối. Chúng ta hãy đi vào khung cảnh Giáng sinh thực sự với các mục đồng, dâng cho Chúa Giêsu tất cả những gì mà chúng ta đang là: sự tha hóa, những vết thương chưa được chữa lành. Để rồi, trong Chúa Giêsu chúng ta sẽ được hưởng nếm hương vị tinh thần Giáng sinh thực sự: đó là vẻ đẹp vì được Thiên Chúa yêu thương. Cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, chúng ta hãy dừng lại trước máng cỏ, trước Chúa Giêsu được sinh ra làm tấm bánh cho đời tôi. Khi chiêm ngắm tình yêu khiêm tốn và vô biên của Người, chúng ta hãy nói với Người: con cảm ơn Chúa, con cảm ơn Chúa vì Chúa đã làm tất cả những điều này vì con.
Đức Phanxicô, Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2015: Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực
Anh chị em thân mến,
Đêm nay, một “ánh sáng huy hoàng” đã bừng lên (Is 9,1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh chiếu soi trên tất cả chúng ta. Lời tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe thật đúng và hợp lúc biết bao: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng” (9, 2)! Tâm hồn chúng ta đã mừng vui khi chờ đợi giây phút này, giờ thì niềm vui ấy lại càng đầy tràn chan chứa, vì lời hứa cuối cùng đã được thực hiện. Niềm vui ấy là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp trong mầu nhiệm đêm nay thực sự từ Thiên Chúa mà đến. Không có chỗ cho sự nghi ngờ; hãy dành mối nghi ngờ cho những kẻ hoài nghi là những kẻ chỉ biết đi tìm nguyên do mà chẳng bao giờ gặp được chân lý. Không có chỗ cho sự thờ ơ đang thống trị trong tâm hồn của kẻ không thể yêu thương vì họ sợ mất đi điều gì đó. Mọi nỗi buồn đau phải tiêu tan, vì Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực cho mọi tâm hồn.
Hôm nay, Con Thiên Chúa đã sinh ra: mọi sự đều thay đổi. Đấng Cứu Thế đã đến chia sẻ bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn cô đơn hay bị bỏ rơi nữa. Đức Trinh nữ ban tặng cho chúng ta Người Con là khởi đầu của cuộc sống mới. Ánh sáng đã đến soi chiếu cuộc đời của chúng ta, vẫn thường bị giam hãm trong bóng tối của tội lỗi. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại khám phá để biết mình là ai! Đêm nay, chúng ta được chỉ cho biết con đường phải đi để đạt mục tiêu. Bây giờ chúng ta phải loại bỏ mọi nỗi lo lắng và khiếp sợ, vì ánh sáng đã chỉ đường cho chúng ta đến Belem. Chúng ta không được trơ lì. Chúng ta không được phép dừng lại. Chúng ta phải lên đường đi gặp Đấng Cứu Chuộc đang nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để chúng ta vui mừng: Hài nhi này được “sinh ra cho chúng ta”, được “ban tặng cho chúng ta” như Isaia đã loan báo (x. 9,5). Dân từ hai ngàn năm qua đã rong ruổi khắp các nẻo đường thế giới để làm cho mọi người được chia sẻ niềm vui này, nay lại được trao sứ vụ làm cho mọi người nhận biết “Hoàng tử Bình an” và trở thành công cụ hữu hiệu của Người giữa các dân tộc.
Thế nên, khi nghe tường thuật về cuộc giáng sinh của Hài nhi Giêsu, chúng ta hãy thinh lặng và để cho Hài nhi nói với chúng ta. Hãy in sâu vào lòng chúng ta lời của Người và luôn chiêm ngắm dung nhan Người. Nếu chúng ta bồng ẵm Người trên tay và để cho Người ôm lấy chúng ta, Người sẽ ban tặng chúng ta sự bình an vĩnh cửu cho tâm hồn. Hài nhi ấy dạy chúng ta điều gì là chính yếu thật sự trong đời sống của chúng ta. Người sinh ra trong cảnh nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong quán trọ cho Người và gia đình của Người. Người trú thân trong một chuồng bò, và được đặt nằm trong máng ăn của loài vật. Nhưng, từ chốn hư không ấy, ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa đã bừng lên. Từ nay, con đường giải thoát đích thực và ơn cứu chuộc muôn đời đã mở ra cho những con người có tấm lòng đơn sơ. Hài nhi ấy, với dung nhan rạng ngời nét từ nhân, lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa Cha, đã dạy tất cả chúng ta là các môn đệ của Người, như thánh Phaolô đã nói “từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức” (Tt 2,12).
Trong một xã hội đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ và lạc thú, say mê của cải và sa hoa, ưa chuộng vẻ bên ngoài và tự mãn, Hài nhi ấy kêu gọi chúng ta phải sống tiết độ, hay nói cách khác, sống đơn giản, quân bình, kiên định, có khả năng nhìn ra và sống điều thiết yếu. Trong một thế giới đã quá thường xuyên không tỏ lòng thương xót người có tội nhưng lại dễ dãi với tội lỗi, chúng ta phải vun trồng một ý thức mạnh mẽ về công chính, phân định và thực thi ý Chúa. Trong một nền văn hóa vô cảm thường dẫn đến chỗ tàn nhẫn, mong sao chúng ta biết sống tinh thần đạo đức, đầy lòng vị tha, cảm thông, và thương xót, được kín múc nơi nguồn suối cầu nguyện hằng ngày.
Như những mục đồng ở Belem, ước gì chúng ta cũng có được đôi mắt đầy ngạc nhiên khi chiêm ngắm Hài nhi Giêsu Con Thiên Chúa. Và đứng trước Hài nhi, xin cho con tim chúng ta bật lên lời kinh nguyện: “Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85,8).