2021
Mở rộng kho báu
5.1 Thánh Gioan Neumann, Gm
1 Ga 3:11-21; Tv 100:1-2,3,4,5; Ga 1:43-51
MỞ RỘNG KHO BÁU
Giám mục Philadelphia, sinh tại Prachatitz, Bohemia ngày 28 tháng 3 năm 1811, con ông Philip Neumann và bà Agnes Lebis. Ngài học ở Budweis và vào chủng viện năm 1831.
Hai năm sau, ngài học thần học tại đại học Charles Ferdinand ở Prague.
Năm 1835, ngài hân hoan mong chờ được trao sứ vụ linh mục khi mà giám mục thì lại quyết định sẽ không phong chức cho ai nữa. Đây thật là điều khó tưởng tượng đối với chúng ta bây giờ, nhưng Bohemia khi ấy đã tràn ngập linh mục. Gioan viết thư đến các giám mục khắp châu Âu, nhưng đây là tình trạng chung ở khắp nơi, chẳng ai muốn có thêm giám mục nữa. Gioan chắc chắn mình có ơn gọi linh mục nhưng dường như mọi cánh cửa dẫn đến đó đều đóng trước mặt ngài.
Không bỏ cuộc. Ngài học tiếng Anh bằng cách làm việc trong một nhà máy có công nhân nói tiếng Anh để có thể viết thư cho các giám mục ở Mỹ. Cuối cùng, giám mục New York đồng ý phong chức cho ngài. Để bước theo tiếng gọi của Thiên Chúa trong chức linh mục, Gioan phải rời bỏ quê hương mãi mãi, vượt đại dương đến một vùng đất mới đầy gian khó.
Ở New York, Gio-an là một trong 36 linh mục lo cho 200 ngàn giáo dân. Giáo xứ của ngài ở phía tây New York trải dài từ hồ Ontario đến Pennsyvania. Nhà thờ không có tháp chuông cũng không có sàn. Nhưng không thành vấn đề, vì Gioan hầu như dành trọn thì giờ để đi thăm hết làng này sang làng khác, vượt núi thăm người bệnh, dạy dỗ trên gác hay trong các quán rượu, dâng lễ trên bàn trong nhà bếp.
Vì công việc và cũng vì giáo xứ của ngài lẻ loi đơn độc nên cha Gio-an mong được liên lạc và gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế, một hội dòng gồm các linh mục và tu huynh tận tụy lo cho người nghèo và những người bị bỏ rơi nhất.
Là linh mục đầu tiên vào Dòng tại Mỹ, ngài khấn dòng tại Baltimore ngày 16 tháng giêng năm 1842.
Ngay từ buổi đầu, ngài đã được anh em hết lòng kính trọng vì sự thánh thiện rõ nét, sự nhiệt thành và nhã nhặn của ngài. Khả năng biết 6 thứ tiếng khiến ngài thích ứng đặc biệt với công việc trong xã hội Mỹ đa ngôn ngữ vào thế kỷ 19.
Sau khi làm việc tại Baltimore và Pittsburgh, năm 1847, ngài được bổ nhiệm làm Vị Kinh Lược hay Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế tại Mỹ.
Các nhà ở Mỹ thuộc về tỉnh Bỉ. Cha Frederick von Held, giám tỉnh Bỉ, đã nói về ngài thế này: “Ngài là một người rất đáng kính trọng, vừa có lòng đạo đức, vừa mạnh mẽ và khôn ngoan”. Neumann cần những phẩm chất ấy trong hai năm tại vị, khi mà muốn đặt nền tảng cho Dòng Chúa Cứu Thế tại Mỹ thì phải nổ lực chỉnh đốn lại. Lúc ngài trao gánh nặng cho cha Bernard Hafkenscheid, Dòng Chúa Cứu Thế Mỹ đã được chuẩn bị tốt hơn để trở thành một tỉnh độc lập vào năm 1850.
Cha Neumann trở thành Giám mục Philadelphia, ngài được tấn phong tại Baltimore ngày 28 tháng 3 năm 1852. Giáo phận của ngài mênh mông và đang trong thời kỳ phát triển mạnh.
Ngài là vị giám mục đầu tiên tổ chức hệ thống trường Công giáo trong giáo phận, là người đặt nền tảng cho giáo dục Công giáo ở quốc gia này. Ngài nâng con số trường Công giáo trong giáo phận từ 2 lên đến 100.
Ngài lập nhóm các nữ tu dòng ba Phan-xi-cô để dạy trong các trường học.
Trong số hơn 80 nhà thờ được xây dựng trong giáo phận, phải kể đến Vương cung thánh đường Phê-rô và Phao-lô mà ngài khởi xướng.
Thánh Gio-an Neumann vóc người nhỏ bé, chẳng bao giờ thấy dồi dào sức khỏe, nhưng với cuộc sống ngắn ngủi, ngài lại làm được những việc lớn lao. Cùng với bổn phận mục vụ, ngài còn dành được thì giờ cho hoạt động văn chương đáng lưu ý.
Ngài viết nhiều bài cho các nhật báo Công giáo cũng như cho các tạp chí định kỳ. Ngài xuất bản hai quyển giáo lý. Vào năm 1849, quyển lịch sử Kinh thánh viết cho các trường học ra đời.
Ngài liên tục hoạt động cho đến hơi thở cuối cùng.
Ngày 5 tháng giêng năm 1860 (48 tuổi) ngài ngã xuống trên một con đường trong thành phố thuộc giáo phận và qua đời không kịp nhận các bí tích sau hết.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI phong Chân phúc ngày 13 tháng 10 năm 1963 và được ghi vào sổ bộ các thánh ngày 19 tháng 6 năm 1977.
Tin mừng theo Thánh Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê su và philipphê và sau đó, qua Philiphê, là cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa Nathanaen và Đức Giêsu.
Nếu như cuộc diện kiến giữa Đức Giêsu và Philipphê có nhiều thuận lợi ,Thánh Gioan ghi lại: Ông Philipphê là người Betsaida cùng quê với các ông Anrê và Phêrô ( những người đầu tiên đã đi theo làm môn đệ Chúa), để rồi sau đó, Philiphê dễ dàng tin và đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu “ Anh hãy theo tôi”.
Trường hợp theo Chúa của Nathanaen thì không phải thế, Philipphê nói về Chúa Giêsu Nadaret và trình bày cặn kẽ cho Nathanaen biết Ngài chính là Đấng mà kinh thánh đã nói đến, các tiên tri đã loan báo, muôn dân hằng mong đợi, chúng tôi đã gặp và chúng tôi đã đi theo Ngài. Dù vậy, xem ra , giữa sứ điệp được trình bày và người nghe sứ điệp cũng còn một khoảng cách khá lớn, “ từ Nadaret, làm sao có cái gì hay được ?”. Để thu hẹp khoảng cách đó, Philiphê đề nghị một cuộc gặp gỡ :” Cứ đến mà xem !”. Nathanaen đã đến và, không chỉ là để xem những “cái chi hay” mà là gặp được Đức Giêsu, tin và đi theo Người.
Chúa Giêsu kitô chính là Tin Mừng phải được loan báo cho mọi người, mọi nơi, có những mảnh đất tâm hồn màu mỡ, đã được chuẩn bị kỹ càng, nhưng cũng có những mảnh đất khô cằn, gai góc, chẳng mấy thuận lợi. Nhưng hạt giống Tin mừng cần được gieo xuống trên tất cả.
Đời sông của Hội thánh, của tất cả mọi Kitô hữu phải là lời loan báo, lời mời gọi “ hãy đến mà xem!”, không phải chỉ là đến để nghe chúng tôi rao giảng, mà còn thấy chúng tôi, những con người “mến Chúa yêu người” đang diễn tả điều đó thế nào trong cuộc sông hàng ngày, và gặp được Tin Mừng cứu độ là chính Đức Kitô. “ Cái chi hay”, cái độc đáo mà giáo xứ, cộng đoàn chúng ta muốn giới thiệu cho mọi người đến chiêm ngưỡng là gì, đó có phải là đời sống đậm nét Tin Mừng, của đời sống liên đới, của yêu thương, khiêm tốn.
Một giáo xứ nơi vùng quê, hưởng ứng lời mời gọi của Đức Cha Giáo phận,về việc thực hiện những hành động cụ thể trong năm Đức tin, nhiều người giáo dân đã chủ động chào hỏi, làm quen, thân thiết hơn với những anh chị em lương dân sống cùng địa phương với mình, những gặp gỡ đời thường đó phải chăng là khởi đầu cho việc “ quan tâm đến nhu cầu của mọi anh chị em chung quanh chúng con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời”. Thiết nghĩ, đây cũng là một “ cái chi hay”.
Tin Mừng Nước Trời chính là kho báu, Hồng ân cứu độ là viên ngọc quí, nhưng tất cả có thể đang bị vùi chôn , đang bị che lấp bởi chính đời sống thụ động, đời sống cầu an của người tin Chúa. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy cùng Chúa mở rộng kho báu,và hãy cùng nhau trao ban viên ngọc Nước Trời.
2021
Thứ Ba sau lễ Hiển Linh
Thứ Ba sau lễ Hiển Linh
Ca nhập lễ
- Tv 117,26-27
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa.
Đức Chúa là Thượng Đế,
Người chiếu toả ánh sáng trên chúng ta.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con nhận biết Ðức Kitô Con Một Chúa xuất hiện như người phàm và mặc lấy thân xác giống hệt chúng con. Xin Chúa làm cho tâm hồn chúng con được đổi mới và trở nên giống hình ảnh Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
1 Ga 4,7-10
Thiên Chúa là tình yêu.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
7Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
8Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
9Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
10Tình yêu cốt ở điều này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
Đáp ca
Tv 71,1-2.3-4ab.7-8 (Đ. x. c.11)
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
3Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
4abNgười sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
Tung hô Tin Mừng
Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 6,34-44
Khi hoá bánh ra nhiều, Đức Giê-su tỏ mình là ngôn sứ.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
34 Khi ấy, Đức Giê-su thấy một đoàn người đông đảo, thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa : “Nơi đây hoang vắng và giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp : “Chính anh em hãy cho họ ăn đi !” Các ông nói với Người : “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao ?” 38 Người bảo các ông : “Anh em có mấy cái bánh ? Đi coi xem !”. Khi biết rồi, các ông thưa : “Có năm cái bánh và hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận của lễ cộng đoàn chúng con dâng, và nhờ thánh lễ này, xin cho chúng con được hưởng những hồng ân cao cả, chúng con đang hết lòng tin tưởng cậy trông. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng Lễ Hiển Linh
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì hôm nay Chúa đã mặc khải chính mầu nhiệm cứu độ chúng con để soi sáng muôn dân, vì khi Người xuất hiện trong bản tính phải chết của chúng con, Chúa đã dùng vinh quang mới bất diệt của Người mà phục hồi chúng con.
Vì thế cùng với các Thiên thần và tổng lãnh thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Ep 2,4 ; Rm 8,3
Thiên Chúa rất mực yêu mến chúng ta, nên đã sai chính Con mình đến mang xác phàm, giống xác phàm tội lỗi chúng ta.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Ðức Kitô, Chúa đã thân hành đến gặp con cái Chúa. Xin cho bí tích kỳ diệu này sinh hoa kết quả trong lòng chúng con, để hồng ân Chúa vừa ban tặng giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những hồng ân khác nữa. Chúng con cầu xin …
2021
Giới thiệu Chúa cho người khác
4.1 Thánh Elizabeth Ann Seton
1 Ga 3:7-10; Tv 98:1,7-8,9; Ga 1:35-42
GIỚI THIỆU CHÚA CHO NGƯỜI KHÁC
Mẹ Seton là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Êlidabét An Bêlê Seton quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Risa Bêlê, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho ngài 1 cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự “hủy hoại khủng khiếp” với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông Viliam Magi Seton. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elizabeth t đã là một góa phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Đồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Đức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Đức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu bà đã tẩy chay bà khi bà trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.
Để nuôi con, bà mở trường học ở Bantimo. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Seton để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Trở về với Tin Mừng hôm nay, ta thấy Tin mừng Gioan nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông Anrê. Hôm nay Anrê đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em ông là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga.1, 41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Chúa Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giêrusalem trước cuộc khổ nạn, cũng chính Anrê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (Ga 12,31-32).
Nói về Chúa Giêsu cho người khác biết. Chúng ta cũng thấy được gương tốt của Thánh Anrê tông đồ. Anrê đã đến và xem chỗ Chúa Giêsu ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy (Ga 1,39-40). Trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi này, Anrê đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô. Anrê đã không thể không nói cho người thân của mình là Simon em ông biết (Ga 1, 41). Chắc chắn hai anh em đã trao đổi với nhau về Chúa Giêsu, trước khi Anrê dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Gặp được Chúa Giêsu là đổi tên, là đổi đời: “Anh sẽ được gọi là Kêpha (là Đá Tảng) (Ga 1, 42).”.
Gioan đã có rất nhiều ảnh hưởng nơi dân chúng. Dân chúng rất ngưỡng mộ Ngài. Khi được Chúa Giêsu hỏi “Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?” (Mt 21,25), thì nhóm Pharisêu đã cảm thấy thật lúng túng. Nói bởi người thì sợ dân chúng phản đối, nói bởi trời thì sao quý vị lại không nghe lời Gioan, nghe những lời mà Gioan đã nói về nhân vật Giêsu. Nói chúng tôi không biết là cách để chữa cháy, để tránh trả lời một sự thật. Họ không dám chấp nhận sự thật.
Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu Anrê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giêsu thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phêrô. Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” với Đức Giêsu, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su.
Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh Anrê là: Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ người này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như Anrê đã gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
Hãy đến mà xem: Chúa Giêsu không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giêsu, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.
Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Chúa Giêsu không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Chúa Giêsu đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người.
Gioan đã xác tín rằng Chúa Giêsu đích thị là Minh Quân. Chắc chắn Gioan phải mừng thầm vì đồ đệ của mình đã gặp được Minh Quân, Gioan vui mừng vì đã giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác. Gioan đã đóng đúng vai trò Tiền Hô của mình và Chúa Giêsu cũng là Đấng Minh Quân của Gioan. Chẳng phải Gioan đã nhảy mừng trong bụng mẹ mình, khi chỉ mới là 6 tháng tuổi khi gặp được Đức Kitô? Gặp được Chúa là gặp được niềm vui, và niềm vui thì cần được chia sẻ, loan tỏa cho mọi người.
“Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân ? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niềm vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.
2021
Khiêm tốn tìm kiếm
3.1 L Lễ Hiển Linh
Is 60:1-6; Tv 72:1-2,7-8,10-11,12-13; Ep 3:2-3,5-6; Mt 2:1-12
KHIÊM TỐN TÌM KIẾM
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo: Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường. Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: “Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: “Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu… Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã không muốn” (Mt 23, 27-37).
Đàng khác, trái lại, sự “đón tiếp” của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy “một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau: “Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản bội.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo. Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm. Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.