2021
LỜI CHỨNG CỦA GIOAN
18Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay
– Thánh Xy-ri-lô, Giám mục Giê-ru-sa-lem, Tiến sĩ Hội Thánh.
– Các bài đọc Lời Chúa: Xh 32,7-14; Ga 5,31-47.
LỜI CHỨNG CỦA GIOAN
Cy-ri-lô nhiệt thành học kinh thánh tại Giêrusalem. Khoảng 30 tuổi, Ngài được thụ phong linh mục và sau nhiều thăng trầm Ngài trở thành giám mục Giêrusalem. Một phép lạ ghi dấu khởi đầu đời giám mục của Ngài. Chính Ngài đã kể lại phép lạ ấy trong một lá thư gửi cho các vua Constansce. Ngày 7 tháng 5 năm 351, vào buổi sáng, trên nền trời thành phố hiện ra một cây thánh giá sáng chói. Thánh giá trải dài từ đỉnh Canvê tới cây dầu. Cảm kích tột độ, đàn ông đàn bà và trẻ em bỏ nhà chạy đến nhà thờ, lớn tiếng ca ngợi Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Các khách hành hương đến viếng đất thánh loan đi khắp nơi.
Nhiều lương dân và người Do thái trở lại, Cy-ri-lô viết thư cho hoàng đế Constance biết hiện tượng lạ thường này như lời kêu gọi nhà vua trở về với đức tin công giáo.
Mục đích đầu tiên của Cy-ri-lô là nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất giữa các tâm hồn vì không có sự phân rẽ nào có thể tổn tại được trong lòng Giáo hội, lòng bác ái của Ngài bao trùm hết những người đau khổ, đến nỗi Ngài bị trách cứ là đã bán đồ thánh và nhất là những đồ trang hoàng đại đế Contastinô đã hiến dâng cho nhà thờ.
Các giáo huấn của Ngài còn giữ lại được, đã chứng tỏ rằng: trong những thế kỷ đầu, người ta đã tôn kính dấu thánh giá thế nào, Ngài khuyên : – “Hãy in dấu thánh giá Chúa Giêsu Kitô trên trán các con. Thấy dấu này quỉ ma sẽ chạy trốn. Hãy làm dấu thánh giá khi ăn uống, khi thức dậy cũng như khi ngủ. Hãy làm dấu thánh giá trong mọi hành động”.
Là mục tử gương mẫu, thánh Cy-ri-lô kiên quyết bảo vệ chân lý đức tin chống lại những kẻ lạc giáo. Ba lần Ngài bị đày khỏi Giêrusalem và ba lần Ngài được tái lập tại tòa giám mục. Dưới thời Julianô bội giáo, khi trở lại địa phận, Ngài sẽ là chứng nhân của một sự lạ nữa không thể quên được.
Nhà vua muốn đưa ra một sự phủ nhận đối với lời tuyên bố của Chúa Giêsu về việc tàn phá đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã loan báo rằng: đền thờ sẽ bị phá huỷ và không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Nhà vua muốn phủ nhận lời tiên báo, định xây lại nhà thờ tái lập lại việc thờ phượng của Do thái giáo. Các công nhân đổ về Giêrusalem. Để tái thiết đền thờ người ta đã dâng hiến mọi của cải cần thiết. Dân Do thái khắp nơi tụ tập lại. Hãnh diện vì sự bao bọc của nhà vua, họ khinh miệt và đe dọa các Kitô hữu. Đức giám mục bị tấn công cả từ phía các lương dân lẫn các tín hữu quá yếu kém lòng tin.
Giữa những nhục mạ của một số người và nước mắt của một số người khác, Ngài quả quyết rằng sự thách thức bất lương sẽ đổi thành cơn bấn loạn cho lương dân và cho người Do thái. Trong khi đó, đêm ngày triệt hạ cái nền móng cũ một cách vô tình, người Do thái đã nỗ lực hoàn thành lời tiên báo không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi họ bắt đầu thực hiện việc xây cất thì có những cơn giông thổi lửa xuống đất, thiêu đốt các công nhân, làm cho họ không ai tới nơi để thực hiện công trình được. Julianô đã nghĩ tới truyện trả thù Cy-ri-lô vì sự thất bại khủng khiếp của ông. Nhưng cái chết đã ngăn cản không cho ông thực hiện ý định.
Đang khi lo lắng cho địa phận mình, Cy-ri-lô lại nhận được sắc lệnh lưu đày mới thời Valens. Ngài bị lưu đày mười một năm và đã trở lại vĩnh viễn tại Giêrusalem dưới thời vua Gratianô. Ngài đã tham dự công đồng Constantinople. Các giám mục họp lại, viết thư cho Đức Giáo hoàng để ca tụng đức tin và thái độ anh hùng của Cy-ri-lô. Đây là chứng tích cuối cùng về con người vĩ đại đã bảo vệ đức tin Kitô giáo này.
Với trang Tin mừng hôm nay, trước sự chất vấn của người Do Thái về việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa người bại liệt đã 38 năm trong ngày Sabát (Ga 5, 5-16), Chúa Giêsu đưa ra hai ‘nhân chứng’ cho hành động của Ngài.
Ngài không nại đến nhân chứng là con người, dù người đó là Gioan. Điều Ngài nại đến chính là Chúa Cha và Sách Thánh.
Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian. Chúa Cha là ‘Đấng làm việc liên lỉ’ (Ga 5, 17) thì Ngài là Chúa Con cũng làm việc như vậy, dù đó là ngày Sabát. Các phép lạ Ngài làm, nhất là phép lạ chữa lành và làm cho người ta được sống, minh chứng Ngài là con Chúa Cha, vì Cha là Đấng làm cho người ta sống (Ga 5, 21). Hành động của Chúa Giêsu là hành động ban sự sống: người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, kẻ chết sống lại. Lời Chúa Giêsu nói và việc Ngài làm minh chứng hiển nhiên sứ vụ cứu thế của Ngài.
Quả vậy, Ngài được Chúa Cha sai đến để làm ‘công việc của Thiên Chúa’; mọi việc Ngài làm là làm theo ý Chúa Cha (x. Ga 5, 30). Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho biết Chúa Cha chứng nhận việc Ngài làm.
Những lời chứng trên đây trở nên vô ích đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42), không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44). Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này mà Ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.
Lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35) là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Chúa Giêsu (Ga 1, 8-9). Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy. Kế đến là những công việc Cha giao mà Ngài đã hoàn thành (c. 36). Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy Ngài được Cha sai. Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40). Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39). Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng, nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).
Ta thấy Kinh thánh Cựu ước loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, cũng như về sứ vụ của Ngài; và giờ đây, Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã xuất hiện với tất cả nhhững việc mà Kinh thánh cựu ước đã loan báo.
Thế nhưng, những người Do Thái lại không tin Ngài; bởi đó chính Môsê, người mà người Do Thái luôn tin tưởng, sẽ tố cáo họ.
Mùa Chay là dịp để ta nhìn lại bản thân mà hoán cải, canh tân cõi lòng cứng cỏi, mê muội của ta. Hình ảnh thiên chúa do trí óc ngập tràn đam mê, lợi lộc trần gian của ta bày vẽ ra phải được thanh lọc để ta có thể gặp gỡ vị Thiên Chúa đích thực nơi Chúa Giêsu, Đấng sẵn sàng hiến mình trên thập giá để cứu vớt ta ra khỏi bóng tối của đam mê, tội lỗi, sự ác và sự chết muôn đời.
2021
TIN CẦN PHÓ THÁC
Thứ Ba tuần IV MC
Ga 5, 1-3a. 5-16
TIN CẦN PHÓ THÁC
Chúa Giê-su đã mang lấy thân phận của con người. Người đã hiểu được nỗi đau đớn khốn khổ của ốm đau bệnh tật. Khi thi hành sứ vụ tại thế, Chúa Giê-su đã tìm đến những mảnh đời bất hạnh, đau khổ để cảm thông, an ủi, xoa dịu nỗi đau và chữa lành những bất toàn nơi thể xác lẫn tâm hồn của họ.
Hôm nay tại hồ Bết-da-tha, Chúa Giê-su đã đoái thương thân phận của người bị bại liệt nằm ở đó đã 38 năm, không có người thân bên cạnh giúp đỡ đưa xuống hồ nước, mỗi khi nước hồ khuấy động lên. Chúa Giê-su đã khơi gợi ước vọng “muốn khỏi bệnh” của anh ta. Và Người đã mang lại cho anh ta một đời sống mới: Được khỏi bệnh, trỗi dậy vác chõng và đi đứng bình thường.
Hồ Bếtdatha khá lớn, những bệnh nhân đến đây để với một niềm hy vọng là được chữa khỏi bệnh. Dọc bên bờ hồ này có rất nhiều loại bệnh tật khác nhau, chờ đợi để được xuống hồ chữa cho khỏi bệnh. Anh bại liệt 38 năm cũng là một trong số những người nằm chờ để được ai đó đưa xuống hồ, nhưng chắc chẳng ai quan tâm và không ai giúp đỡ anh ta: “không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”. Có lẽ Chúa Giê-su đã quan sát quang cảnh náo động và hối hả của dân chúng tranh giành để được lành bệnh tại hồ nước Bếtdatha và hiểu thấu được tâm trạng thấp thỏm và mòn mỏi để được ai đó đem xuống hồ cho khỏi bệnh, nên dù chưa yêu cầu hay van xin, Chúa Giê-su đã hỏi anh bại liệt lâu năm: “Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c.6) Anh không trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa Giê-su “có hay không”, nhưng anh lại trả lời bằng một cách lý giải “không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”.
Anh đã mòn mỏi trông mong được chữa lành thân xác bại liệt lâu năm của anh, thế nhưng Chúa Giê-su đã đặt vấn đề “lành mạnh”, tức phục hồi thân xác bại liệt của anh và cả tinh thần lành mạnh của anh nữa. Với quyền năng của Ngài, Ngài có thể phán một lời với anh bại liệt thì anh có thể đứng lên và đi lại được…nhưng ở đây thì không! Chúa Giê-su lại bảo anh: “hãy đứng dậy, vác chõng, và đi”. Chúa Giê-su cần sự hợp tác của anh để giúp anh được lành mạnh: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Thiên Chúa không làm thay tất cả cho con người, nhưng mỗi người – để được chữa lành về thể xác lẫn tâm linh – điều đầu tiên là phải có lòng mong muốn, bày tỏ lòng khao khát, và điều quan trọng phải có can đảm làm bước bột phá vượt lên trên chính mình, là “đứng dậy! quyết tâm! Và bước đi!” như người bại liệt trong Tin Mừng hôm nay. Anh thật liều lĩnh làm theo lời Chúa Giê-su để bước ra khỏi bệnh tê bại lâu năm, để đứng thẳng và bước đi.
Trước mặt người bại liệt là một vùng trời tối, tối cả tương lai. Đã bao lần anh muốn thoát khỏi số phận nghiệt ngã, nhưng căn bệnh cứ trì kéo đeo đẳng anh. Mỗi lần anh xuống được hồ nước thì cơ hội lành bệnh lại vụt mất. Đã ba mươi tám năm nay, anh đã mòn mỏi, tuyệt vọng, cam chịu số phận rồi chăng? Cuộc trở lại của anh đã quá muộn màng chăng? Dường như Chúa Giê-su đợi đến lúc này để khơi lại cho anh niềm hy vọng, lúc mà theo như Bossis kinh nghiệm: “Khi tình hình đã tuyệt vọng xét theo nhân loại, thì đó chính là lúc hy vọng Ki-tô giáo bắt đầu”. Đối với Chúa Giê-su, không có cuộc hoán cải nào là quá muộn màng. Ngài luôn luôn mong chờ tội nhân sám hối, cho họ bắt đầu lại cuộc sống mạnh mẽ như một tạo vật mới. Chỉ muộn màng khi tội nhân chưa đặt mình đối diện với Thiên Chúa, Đấng Thánh Thiện, dù họ đã có nhận thấy quá khứ lỗi lầm của mình.
Nếu người bệnh nhân nằm liệt 38 năm trời được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay cứ khăng khăng sống theo thói quen tự nhiên, thì chẳng bao giờ anh ta đươc chữa lành. Trái lại, anh ta đã sẵn sàng làm theo điều như thể là bất thường mà Chúa truyền cho anh ta làm. Anh đang nằm liệt; ấy vậy, Chúa truyền cho anh ta cứ can đảm đứng dậy, vác chõng mà về! Đã liệt thì làm sao mà đứng dậy được! Hơn nữa, đã liệt làm sao còn có khả năng vác chõng về nhà?! Ấy thế, Chúa bảo làm sao, anh ta nghe và làm theo như vậy. Kết quả là anh đã được chữa lành.
Có thể nói được rằng, người được Chúa Giêsu chữa lành trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người nghèo khổ nhất trong số những người nghèo bệnh tật nằm bên bờ giếng gần thành Giêrusalem, lúc mà Chúa Giêsu đi ngang qua. Anh nằm chờ từ 38 năm nay, có biết bao nhiêu người đi qua, kể cả những vị lãnh đạo trong dân Do Thái, những kẻ thuộc nằm lòng Kinh Thánh và muốn tuân giữ luật Chúa dạy cho đến tận cùng, với đủ mọi chi tiết. Họ đã đi ngang qua đó, nhưng không nhìn thấy người anh em đang cần được giúp đỡ. Nhưng, Chúa Giêsu đã nhìn thấy và Ngài đã chữa anh được lành bệnh. Ðó là việc Ngài thực hiện những dấu lạ: cho người què được đi, cho kẻ bệnh tật được lành mạnh để kêu gọi những người đang chờ dấu lạ của Ðấng Cứu Thế sắp đến hãy mở mắt ra và nhìn nhận Ngài là Ðấng Cứu Thế.
Thế nhưng, không ai mở mắt tinh thần ra để nhìn sự hiện diện của Chúa. Người được chữa lành không nhận ra Chúa và những người Do Thái khác lãnh đạo tôn giáo đang có mặt ở đó cũng không nhận ra Chúa. Họ chỉ nhìn thấy trường hợp lỗi luật ngày Sabat và muốn gây sự với Chúa, hơn là vui mừng vì một người anh em được lành bệnh.
Phần Chúa Giêsu, Ngài không dừng lại ở việc chữa lành tật bệnh thể xác, nhưng Ngài muốn tiến xa hơn nên đã kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần linh hồn quan trọng hơn: “Anh đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu đã thực hiện cả hai công tác phát triển và cứu rỗi chung cả nhân loại.
Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người nghèo khổ, là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái, an ủi. Nhờ tông đồ mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.
Mỗi người chúng ta cầu xin Chúa ban cho mình có một tâm hồn và đôi mắt như Chúa, để yêu thương và giúp đỡ khi nhìn thấy nhu cầu của anh em xung quanh đang cần đến. Công việc tông đồ của chúng ta không phải là việc làm của con người, nhưng là việc làm của Thiên Chúa, nên cần có những tâm tình của Ngài.
2021
Thứ Ba Tuần IV – Mùa Chay
Thứ Ba Tuần IV – Mùa Chay
Ca nhập lễ
- Is 55,1
Chúa phán : “Hỡi những người đang khát,
hãy đến lấy nước nguồn,
cả những ai không tiền không bạc,
cứ đến đây mà uống vui vẻ.”
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, trong thời gian chúng con ăn chay cầu nguyện, xin giúp đoàn tín hữu chúng con chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng; nhờ đó chúng con sẽ nhiệt tình đón nhận mầu nhiệm Vượt Qua, và loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thể địa cầu. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
Ed 47,1-9.12
Tôi đã thấy dòng nước từ cửa đông đền thờ tuôn ra, và tất cả những người được nước ấy thanh tẩy đều hưởng ơn cứu độ.
Bài trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en.
1 Khi ấy, thiên sứ dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này : có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ. 2 Người ấy đưa tôi ra theo lối cổng bắc và dẫn tôi đi vòng quanh theo lối bên ngoài, đến cổng ngoài quay mặt về phía đông, và này : nước từ phía bên phải chảy ra. 3 Người ấy đi ra phía đông, tay cầm dây đo, đo năm trăm thước rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến mắt cá chân. 4 Người ấy đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến ngang lưng. 5 Người ấy còn đo năm trăm thước nữa : đó là một con sông, tôi không thể đi qua được vì nước đã dâng cao, khiến không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi. 6 Người ấy bảo tôi : “Ngươi có thấy không, hỡi con người ?” Rồi người ấy dẫn tôi trở lại bờ sông. 7 Khi tôi trở lại, thì này : có rất nhiều cây cối ở hai bên bờ sông. 8 Người ấy bảo tôi : “Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hoá lành. 9 Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành ; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống. 12 Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết : mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc.”
Đáp ca
Tv 45,2-3.5-6.8-9a (Đ. c.8)
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
2Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
3Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu, ta cũng chẳng sợ gì.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
5Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời :
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
6Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển ;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
8Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
9aĐến mà xem công trình của Chúa,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
Tung hô Tin Mừng
Tv 50,12a và 14a
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ.
Tin Mừng
Ga 5,1-3a.5-16
Người ấy liền được khỏi bệnh.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
1 Nhân một dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. 2 Tại Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang. 3a Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt. 5 Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói : “Anh có muốn khỏi bệnh không ?” 7 Bệnh nhân đáp : “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi !” 8 Đức Giê-su bảo : “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !” 9 Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được.
Hôm đó lại là ngày sa-bát. 10 Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh : “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng !” 11 Nhưng anh đáp : “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : ‘Anh hãy vác chõng mà đi !’” 12 Họ hỏi anh : “Ai là người đã bảo anh: ‘Vác chõng mà đi’ ?” 13 Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14 Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói : “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước !” 15 Anh ta đi nói với người Do-thái : Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh. 16 Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, đây là bánh rượu chúng con dâng tiến, và cũng là lương thực chính Chúa thương ban, để nuôi dưỡng chúng con khi còn ở đời này. Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và làm cho trở nên bí tích đem lại cho chúng con sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng mùa chay
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa dùng chay tịnh phần xác chế ngự nết xấu, nâng cao tâm hồn chúng con và ban sức mạnh cùng phần thưởng, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Nhờ Người, các Thiên thần ca ngợi, các Quản thần thờ lạy, các Quyền thần kính sợ uy linh Chúa, các tầng trời cùng với các đạo binh thiên quốc, và các thần sốt mến đồng hân hoan chúc tụng Chúa. Xin cho chúng con được đồng thanh với các Ngài thành khẩn tuyên xưng rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 22,1-2
Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi,
Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, ước gì bí tích chúng con vừa lãnh nhận làm cho tâm hồn chúng con được thanh tẩy và đổi mới, khiến cho cả thân xác phải chết của chúng con cũng có ngày được phục sinh vinh hiển. Chúng con cầu xin …
2021
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Tôi muốn bắt đầu bằng cách hỏi một câu hỏi: bạn đã được cứu chưa? Khi trả lời câu hỏi đó, tôi giả định rằng có một số câu trả lời khác nhau. Có những người ngay lập tức trả lời, “Chưa”.
Bạn biết rằng bạn chưa được cứu, và điều đó không sao cả. Tôi rất vui vì bạn đủ thành thật để thừa nhận điều đó. Bạn chỉ cần biết rằng bạn có thể được cứu hôm nay. Cũng có những người ngay lập tức trả lời, “Rồi”. Tuy nhiên, không có bằng chứng về ơn cứu độ đang diễn ra trong cuộc sống của bạn. Ồ, bạn có thể là thành viên của một giáo xứ nào đó, có thể bạn đã được hướng dẫn trong một buổi cầu nguyện, và thậm chí bạn có thể đã chịu phép thánh tẩy rồi, nhưng bạn chưa thực sự cảm nghiệm được ơn cứu độ mà Chúa Giêsu ban tặng. Bạn cũng có thể được cứu độ hôm nay nếu bạn thành thật với bản thân và thừa nhận mình cần được cứu. Cuối cùng, có những người ngay lập tức trả lời, “Có” và họ đã thực sự nhận được ơn cứu độ.
Trong đoạn Tin Mừng Gioan 3: 1-15 chúng ta đang xem trong bài này, Nicôđêmô, một nhà lãnh đạo tôn giáo ưu tú, đến với Chúa Giêsu với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều có. Làm thế nào tôi có thể chắc chắn rằng tôi là một thành phần của vương quốc Thiên Chúa và sẽ ở với Ngài đời đời trên thiên đàng? Chúa Giêsu trả lời điều đó bằng cách nói với chúng ta rằng để chắc chắn rằng chúng ta thực sự được cứu độ, chúng ta phải được ban cho sự sống mới dẫn đến sự biến đổi cuộc đời của chúng ta.
“Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái. Ông đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông nói với Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” Chúa Giêsu trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” Ông Nicôđêmô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao? ” Chúa Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
Bạn phải được sinh ra lần nữa (câu 1 dến câu 7).
Bây giờ Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu, như tôi đã nói, với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều muốn có câu trả lời. Nhưng khi bạn xem câu thứ hai, bạn có thể tự hỏi câu hỏi nào? Không có câu hỏi ở đó, phải không? Không phải với chúng ta, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã trả lời một câu hỏi. Vậy câu hỏi nào được ngụ ý trong câu nói của Nicôđêmô? Làm thế nào tôi có thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa? Hay làm sao tôi có thể lên thiên đàng? Bạn thấy đấy, Nicôđêmô đã nhận ra Chúa Giêsu đến từ đâu và quyền năng của Ngài đến từ đâu. Vì vậy, ông biết rằng Chúa Giêsu sẽ biết câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nhưng Chúa Giêsu đã đi bước trước và trả lời câu hỏi trước khi nó thực sự được hỏi. Chúa Giêsu nói, “Nếu bạn muốn trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, bạn phải được sinh ra một lần nữa. Trên thực tế, không thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa nếu bạn không được sinh ra lần nữa ”. Tôi có thể thấy Nicôđêmô cười khúc khích một chút rồi nói, “Cái gì? Làm thế nào một người có thể được “sinh lại?” Chúng ta có phải bò trở lại bụng mẹ và trải qua quá trình sinh ra một lần nữa không? “ Thế thì, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích ý của Ngài khi Ngài nói “được sinh lại”. Ngài nói với Nicôđêmô rằng Ngài không nói về sự sinh nở thể lý ở đây. Trên thực tế, từ được dịch là “một lần nữa” cũng có nghĩa là “từ trên cao”. Vì vậy, Chúa Giêsu đang nói về một sự sinh ra thiêng liêng.
Chúa Giêsu nói nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần Khí thì người đó không thể vào vương quốc của Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta thấy, khi sử dụng những lời dạy trong Cựu Ước làm tài liệu tham khảo, rằng chúng ta cần được thanh tẩy. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần trở nên sống động về mặt tinh thần, mà chúng ta cũng cần được cải hóa hoàn toàn, thay đổi hoàn toàn. Và rồi, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng điều này không thể tự xảy ra. Ngài nói rằng mọi nỗ lực của chúng ta để cố gắng thay đổi theo cách này sẽ không thành công, bởi vì bất cứ nỗ lực nào chúng ta thực hiện bằng xương bằng thịt đều sẽ dẫn đến kết quả xác thịt. Để có được kết quả thiêng liêng mà chúng ta muốn, chúng ta phải có Thần Khí của Thiên Chúa hành động. Chỉ những gì được sinh ra bởi Thần Khí mới tạo ra sự thay đổi dẫn đến việc được sinh lại.
Chúng ta phải được ban cho cuộc sống thần linh. Và lưu ý rằng đây không phải là việc tùy chọn. Trong câu bảy, Chúa Giêsu nói bạn phải được sinh lại! Trong ngôn ngữ Hy Lạp, từ “phải” được sử dụng là một thuật ngữ rất mạnh nhấn mạnh sự cần thiết của những gì đang được nói đến. Vì vậy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng để trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, ông ấy phải được sinh ra bởi Thần Khí nghĩa là được sinh ra một lần nữa.
Được sinh ra lần nữa đòi hỏi sự hoán cải (câu 8).
Bây giờ như chúng ta đã nói, việc được sinh ra lần nữa tạo ra những thay đổi trong cuộc sống của một con người. Nhưng ở đây trong câu tám, chúng ta thấy rõ điều đó. Câu này, thoạt nhìn, hơi khó hiểu vì có một cách chơi chữ nào đó đang diễn ra trong ngôn ngữ Hy Lạp mà khi dịch sang tiếng khác không thể diễn đạt đầy đủ. Nhưng điều Chúa Giêsu đang nói ở đây là giống như gió thổi theo hướng này, chiều nọ và không thể điều khiển được, vì vậy đó là việc của Thần Khí. Công việc của Thần Khí trong trái tim con người không thể kiểm soát cũng như không thể đoán trước được. Khi chúng ta chia sẻ Tin Mừng với ai đó vì sự vâng lời, chúng ta không biết liệu Thần Khí có hoạt động trong hoàn cảnh đó để gieo hạt giống, gieo trồng những gì đã được nghe để đưa người đó đến với mối tương quan với Chúa Giêsu Kitô hay chưa. Công việc của Thần Khí chúng ta không thể kiểm soát hoặc dự đoán được. Cũng thế, có thể bạn đã nghe Tin Mừng trước đây nhưng không được Thần Khí khuấy động. Tuy nhiên, hôm nay bạn đang được Thần Khí khuấy động!
Nhưng đây là điều quan trọng mà chúng ta cần nhận ra. Nếu Thần Khí đã thực hiện công việc của Ngài trong đời sống của một con người và người ấy thực sự được sinh lại, thì đó là bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được! Như Chúa Giêsu đã nói, bạn không thể dự đoán hoặc kiểm soát gió, nhưng bạn có thể nghe thấy âm thanh của gió. Nói cách khác, bạn có thể trải nghiệm tác động của gió. Tương tự như vậy, tác động của công việc của Thần Khí có thể được nhìn thấy trong cuộc sống được biến đổi của những người đã được tái sinh. Vì vậy, chúng ta có thể không dự đoán hoặc kiểm soát được thời gian và vị trí của Thần Khí hoạt động, nhưng chúng ta biết rằng khi Ngài tỏ hiện ra, mọi người sẽ biết. Vậy bạn có đòi hỏi được sinh lại không? Bạn có gọi mình là một Kitô hữu và mong đợi được nhìn thấy vương quốc của Thiên Chúa khi bạn chết không? Chúa Giêsu nói rằng nếu bạn được sinh lại, sẽ có bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được về sự biến đổi đời sống của bạn! Nếu không có thay đổi trong cuộc sống của bạn, thì không có gì xảy ra. Khi bạn thực sự được cứu độ, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi!
Sự biến đổi này đến bởi Chúa Con, Thập giá và Đức tin (câu 9 đến câu 15)
Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Đầu tiên, đó là do Chúa Giêsu. Không có Chúa Giêsu, sẽ không có ơn cứu độ. Chính Chúa Kitô đã đến từ Chúa Cha để tìm kiếm và cứu những gì đã mất. Bây giờ chúng ta hãy nghĩ về điều đó, sẽ không hợp lý nếu một người đến từ thiên đàng lại không biết cách làm thế nào để đến được thiên đàng? Chúa Giêsu đang phán rằng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14: 6).
Thứ hai, đó là do thập giá. Ờ đây Chúa Giêsu mong đợi thập giá. Nếu chúng ta nhìn lại khi dân Ítraen băn khoăn trong đồng vắng “Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết. Dân đến nói với ông Môsê : “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Ngài xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Dân số 21). Dân Ítraen đã có lúc họ phàn nàn về thức ăn mà Thiên Chúa cung cấp cho họ. Vì vậy, Thiên Chúa cho rắn độc đến. Điều này không tốt lành gì cho dân chúng vì chỉ một vết cắn cũng đủ giết chết họ. Vì vậy, thủ lĩnh của họ, Môsê, đã làm một con rắn bằng đồng và đặt nó trên một cây sào. Sau đó, ông truyền cho tất cả dân Ítraen rằng khi rắn cắn họ, nếu họ nhìn vào con rắn đồng, họ sẽ sống! Cũng vậy, Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tìm và cứu, sẽ phải được cất lên để mọi người nhìn thấy trên thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá đó, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta trên chính Ngài và trả lại hình phạt cho thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá, Ngài đã nói với những người có mặt ở đó và cho mọi người đến muôn đời, “Hãy nhìn lên, thì được sống”.
Thứ ba, đó là do đức tin của chúng ta. Chúa Giêsu đã đến, vâng. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá vì tội lỗi của chúng ta. Nhưng để cho điều đó được áp dụng vàolợi ích của chúng ta, chúng ta phải tin hoặc có đức tin nơi Ngài và những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Mặc dù chính nơi công trình của Chúa Kitô mà chúng ta tin tưởng và mặc dù chính nhờ tác động của Thần Khí khiến chúng ta được sinh lại, chúng ta vẫn phải tin và có đức tin. Sự cứu rỗi hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa và là công trình của Ngài, nhưng chúng ta vẫn phải nhận được những gì Ngài đang ban cho qua quyền năng cho phép của Ngài. Nhưng ngay cả lúc đó, trọng tâm không phải là niềm tin của chúng ta mà là đối tượng của niềm tin: “… bất cứ ai tin vào Ngài… ”Trong tất cả những điều này, Chúa Giêsu chỉ ra rằng chúng ta không chỉ nhận được sự sống thiêng liêng khi chúng ta được sinh lại, mà còn nhận được sự sống thiêng liêng đó cho cả cõi đời đời. Chúng ta, nhờ được sinh ra bởi Thần Khí, được trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa tới muôn đời.
Kết luận:
Chúng ta có hai lời mời. Trước tiên, nếu bạn là một Kitô hữu, là một người đã được sinh ra bởi Thần Khí và đang sống một cuộc sống được biến đổi, tôi muốn khuyến khích bạn không chỉ ca ngợi Thiên Chúa về ơn cứu độ mà Ngài đã ban cho bạn mà hãy nói với người khác về ơn cứu độ đó. Chúng ta cần thường xuyên cầu nguyện cho những người chưa được cứu độ trong cuộc sống của chúng ta: những người trong gia đình chúng ta, bạn bè của chúng ta, đồng nghiệp của chúng ta, hàng xóm của chúng ta, bồi bàn / phục vụ bàn, nhân viên thu ngân của chúng ta. Chúng ta cần cầu xin Thiên Chúa khơi dậy niềm say mê chia sẻ Tin Mừng trong chúng ta và xin Ngài làm tan nát cõi lòng chúng ta vì những người chưa được cứu độ chung quanh chúng ta. Nếu chúng ta thực sự tin rằng tất cả những người đang sống ngoài Chúa Kitô đều không có hy vọng, không có Thiên Chúa, và đang hướng đến địa ngục đời đời, thì chúng ta nên làm tất cả những gì có thể để đảm bảo họ biết Tin Mừng rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu độ!
Penn Jillette, một người vô thần kiên quyết, là một nhà ảo thuật xuất sắc. Ông rất thẳng thắn chống lại Kitô giáo. Tuy nhiên, ông có một câu chuyện rất cảm động về cuộc gặp gỡ với một tín hữu rất chân thành với ông và chia sẻ Tin Mừng với ông. Đây là những gì ông nói trước sự chứng kiến của tín hữu này: “Nếu bạn tin rằng có thiên đàng và hỏa ngục và mọi người có thể xuống hỏa ngục — nghĩa là không nhận được sự sống vĩnh cửu hay bất cứ điều gì khác — nhưng bạn lại nghĩ rằng, ái chà, nói với họ điều này thực không đáng bởi vì chuyện đó sẽ làm cho họ ngại ngùng khó xử… Phải chăng bạn ghét ai đó nhiều lắm đến mức không giúp họ theo niềm tin của bạn? Bạn phải ghét ai đó đến mức nào thì mới có chuyện tin rằng có cuộc sống vĩnh cửu nhưng lại không nói với họ về điều đó?
Có thể bạn đã không được sinh ra lần nữa. Thậm chí có thể bạn đã đưa ra quyết định trong quá khứ rồi, nhưng vì không có gì thay đổi và bây giờ bạn nhận ra rằng bạn thực sự không được sinh lại. Tôi có một tin tuyệt vời cho bạn. Nếu bạn tiếp tục đọc Gioan 3, bạn sẽ đọc đến một trong những câu nổi tiếng nhất trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16). Bạn biết câu đó nói với chúng ta điều gì không? Trước hết, câu đó cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu bạn. Nhưng bạn, cũng như tất cả chúng ta còn lại đều có một vấn đề: đó là tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu chết trên thập giá vì tội lỗi của bạn. Cuối cùng, bạn phải tin vào Ngài và tiếp nhận Ngài qua sự ăn năn và đức tin. Sám hối có nghĩa là bạn nhận ra tội lỗi của mình, thú nhận với Thiên Chúa để xin Thiên Chúa tha thứ, sau đó bạn quay lưng lại với tội lỗi đó. Đức tin có nghĩa là bạn tin cậy vào công việc mà Chúa Kitô đã làm trên thập giá để bảo đảm ơn cứu độ của bạn. Nhưng hãy nhớ, điều này không đương nhiên có hiệu quả cho bạn, bạn phải đón nhận Ngài “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Gioan 1:12).
Phêrô Phạm Văn Trung, từ https://richardscollins.com