2021
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
lễ trọng
Ca nhập lễ
Tv 80,17
Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo,
mật ong rừng, Người cho hưởng thoả thuê.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình Và Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết một niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
Xh 24,3-8
Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em.
Bài trích sách Xuất hành.
3 Ngày ấy, khi từ núi Xi-nai xuống, ông Mô-sê thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp : “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.” 4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. 5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. 6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa : “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói : “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này.”
Đáp ca
Tv 115,12-13.15-16.17-18 (Đ. c.13)
Đ.Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
12Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ
vì mọi ơn lành Người đã ban cho ?
13Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
Đ.Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
15Đối với Chúa thật là đắt giá
cái chết của những ai trung hiếu với Người.
16Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài,
xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.
Đ.Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
17Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn,
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
18Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
Đ.Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
Bài đọc 2
Hr 9,11-15
Máu của Đức Ki-tô thanh tẩy lương tâm chúng ta.
Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri.
11 Thưa anh em, Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. 13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, 14 thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
15 Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa.
Tung hô Tin Mừng
Ga 6,51
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 14,12-16.22-26
Đây là Mình Thầy. Đây là Máu Thầy.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
12 Hôm ấy, nhằm ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su : “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu ?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ : “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà : Thầy nhắn : ‘Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở phòng nào ?’ 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng : và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
22 Đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói : “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông : “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em : chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”
26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, bao hạt lúa mới làm nên tấm bánh này, bao trái nho mới ép thành chén rượu đây, tượng trưng sự đoàn kết giữa con cái Chúa. Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và làm cho trở nên bí tích nhiệm mầu, đem lại cho Hội Thánh Chúa ơn hiệp nhất và bình an. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng Thánh Thể
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Người là Tư Tế thật và vĩnh cửu, khi thiết lập thể thức hy lễ trường tồn, Người là Ðấng đầu tiên đã dâng mình cho Chúa làm của lễ cứu độ, và đã truyền cho chúng con dâng mà tưởng nhớ đến Người. Khi chúng con rước Mình Người hiến tế vì chúng con, thì chúng con được mạnh sức. Và khi chúng con rước Máu Người đổ ra vì chúng con, thì chúng con được rửa sạch.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và Tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh Thiên quốc chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Ga 6,56
Chúa nói : “Ai ăn thịt và uống máu tôi
thì luôn kết hợp với tôi,
và tôi luôn kết hợp với người ấy.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tuy còn ở dưới thế, nhưng đã được tham dự bàn tiệc trên trời khi thông hiệp với Mình và Máu Thánh Chúa. Xin cho chúng con một khi lên cõi trời vinh hiển được cùng Chúa vui hưởng phúc trường sinh. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
2021
CHO BẰNG TẤM LÒNG
05 25 Đ Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên.
Lễ thánh Bô-ni-phát (Boniface), Giám mục, Tử đạo, lễ nhớ.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Lu-ca Vũ Bá Loan, Linh mục (U1840); Thánh Đa minh Nguyễn Văn Toái (Toại), Ngư phủ (U1862); và Thánh Đa minh Nguyễn Văn Huyện (Huyên), Ngư phủ (U1862), Tử đạo.
Tb 12,1.5-15.20; Mc 12,38-44.
CHO BẰNG TẤM LÒNG
Cuộc tử đạo của thánh giám mục thành Mayence và 52 người bạn đã diễn ra ngày 5 tháng 6 năm 754. Trong khi dâng Thánh lễ ở Dokkum, thuộc Frise miền Bắc (Hà Lan ngày nay), các Ngài đã bị dân Frisons sát hại, dẫu rằng họ đã được các ngài loan báo Tin Mừng của Chúa. Lễ nhớ thánh Boniface ca ngợi ngài là vị Tông Đồ vĩ đại của nươc Đức. Ngài hoạt động truyền giáo đến tận vương quốc dân Francs.
Mãi đến năm 1874, theo lời yêu cầu của các Nghị phụ Công đồng Vaticanô I, người ta mới đưa lễ nhớ thánh Boniface vào lịch Giáo triều Rôma. Tuy nhiên thánh nhân đã được tôn kính không những tại Đức, mà còn ở Anh là quê quán của ngài. Nơi đây, một Công đồng đã ban tặng người tước hiệu Đấng Thánh Bảo Trợ, bên cạnh thánh Grégoire Cả và thánh Augustin de Cantorbéry.
Winfrid sinh khoảng năm 673 tại vương quốc Anglo-saxon Wessex, nước Anh. Ngài được giáo dục trong các Đan viện Biển Đức miền Exeter và Nutshulling và khấn dòng năm 715.
Vì mong ước ra đi loan báo chân lý đức tin cho dân ngoại, lần đầu tiên ngài đến Frise năm 716. Nhưng nỗ lực này kết thúc trong thất bại. Năm 719, Đức Giáo Hoàng Grégoire II trao ngài sứ vụ loan báo Tin Mừng cho những kẻ thờ tà thần ở Đức, và cho gọi ngài bằng tên của một vị thánh tử đạo người Rôma: Bonifacius. Năm 722, ngài được phong giám mục, trực thuộc Tòa thánh nên không có giáo phận riêng.
Sau khi loan báo Tin Mừng cho miền Hesse – nơi đây ngài đã hạ ngã Cây sồi thiêng Donar, gần Geismar vào năm 725 – ngài sang Thuringe, lưu lại nơi này bảy năm và lập nhiều Đan viện. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Grégoire III trao cho ngài một cánh đồng truyền giáo mới ở Bavière và phong ngài làm Tổng giám mục năm 732. Boniface ở lại đó 9 năm, cho đến năm 741, vào thời điểm này ngài lập các giáo phận quan trọng thuộc giáo tỉnh như Salzbourg, Freising, Ratisbonne, Passau.
Để hoàn thành tốt hơn sứ vụ loan báo Tin Mừng, thánh giám mục xin Đức Giáo Hoàng Zacharie quyền đặc miễn của Giáo Hoàng cho Đan viện Fulda mà ngài vừa thành lập năm 744: đây là quyền đặc miễn đầu tiên trong lịch sử.
Năm 747, dưới áp lực của các môi trường người Francs, xem Boniface như một người Anglo-saxon nguy hiểm, nên Pépin le Bref đã tách Boniface ra khỏi các nơi ấy. Sau cùng, vào ngày lễ Chúa Thánh Thần năm 754, ngài bị một nhóm người ngoại đạo sát hại cùng với 52 bạn, trong khi ngài đang rao giảng Tin Mừng cho miền Frise miền Bắc. Các thánh tích của ngài luôn được sùng kính tại Đan viện Fulda. Chính vì luôn trung thành tưởng nhớ đến ngài mà các giám mục Đức thường qui tụ về thành phố này.
Lời nguyện mới trong Thánh lễ được trích từ sách lễ Ambroise và Paris. Lời nguyện xin thánh giám mục Boniface chuyển cầu “cho chúng ta giữ vững lòng tin và lấy cả cuộc đời can đảm tuyên xưng lòng tin mà thánh tử đạo đã dùng lời nói rao giảng và lấy máu đào để chứng minh”. Nhờ tích cực hoạt động Tông Đồ trong nhiều vùng đất châu Âu, và cũng nhờ tiếp xúc dễ dàng với các Giáo Hoàng và các vị vua chúa, ngài đã hỗ trợ việc chuyển giao quyền Giáo Hoàng từ thời Byzantin sang thời Francs.
Phương pháp truyền giáo của Boniface dựa trên hai điểm chính: trước hết tìm kiếm sự hậu thuẫn của vua chúa và quan quyền mà không bao giờ phương hại sự tự do của Hội thánh; sau đó, kêu gọi sự hỗ trợ của các Đan viện, là những trung tâm đích thực của đời sống Kitô giáo và rao giảng Tin Mừng.
Khi phân chia vương quốc của Charles Martel năm 741; Carloman được hưởng vùng Austrasie, đã nhờ Boniface giúp loại bỏ những sự lạm dụng trong việc chuyển nhượng bổng lộc danh tước, và buông lỏng kỷ cương trong giới giáo sĩ và ngay cả các đan sĩ Celte phiêu bạt. Để đạt mục đích này, Boniface đã triệu tập một Công đồng chung các giám mục Francs tại Soisson năm 742. Công đồng này kéo dài trong ba năm và đã đưa ra sắc lệnh cải tổ quan trọng trong Giáo hội Francs.
Các Đan viện là những trung tâm sinh hoạt Phụng Vụ và cũng là trung tâm văn hóa xã hội. Việc phát triển xây dựng các Đan viện là một trong những đặc điểm quan trọng trong việc thánh nhân xây dựng và tái tổ chức các Giáo hội, như ở Bavière, Thuringe hay tại các quốc gia nói tiếng Pháp. Thánh Boniface cũng là tác giả sách ngữ pháp, hệ thống đo lường và sáng tác nhiều thơ văn.
Bài đọc – Kinh sách đề xuất một lá thư của thánh giám mục Boniface qua đó chúng ta thấy được các đặc tính của vị mục tử như ngài: “… Chúng ta chớ như những con chó câm, những lính canh thinh lặng, những kẻ chăn thuê chạy trốn sói dữ; nhưng chúng ta hãy là những mục tử chuyên chăm, biết lo lắng cho đoàn chiên Chúa Kitô, biết rao giảng mọi ý định của Thiên Chúa cho hết mọi người, thuộc mọi tầng lớp cũng như tuổi tác, cho kẻ lớn cũng như người bé, cho người giàu cũng như kẻ nghèo, trong mức độ Thiên Chúa giúp sức cho, lúc thuận tiện cũng như lúc gặp phải nghịch cảnh, theo cách thức như thánh Grégoire đã chép trong sách mục vụ” (Thư 78).
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác biệt. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức bùa chú. Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người.
Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã lên ái thái độ giả dối của Pharisêu và Người đã dạy các môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương một bà góa nghèo đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong ngày một ngày. Bà đã được Chúa Giêsu đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).
Tin Mừng theo thánh Marcô thuật lại cho chúng ta câu chuyện diễn ra trong Đền thờ Giêrusalem nơi dân chúng bỏ tiền dâng cúng. Có nhiều người giàu bỏ bao nhiêu đồng tiền, song có một góa phụ nghèo, chỉ bỏ hai đồng xu nhỏ. Chúa Giêsu quan sát kỹ lưỡng người đàn bà ấy và Người lưu ý các môn đệ về sự tương phản trong cảnh tượng này. Chúa Giêsu nói, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết, bà tuy thật túng thiếu, nhưng đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Còn những người khác rút từ túi mình tiền dư bạc thừa của họ mà dâng cúng. Vậy là thước đo không phải là số lượng nhưng là với cả tấm lòng thành. Đây không phải là vấn đề ví tiền, nhưng là con tim, là tấm lòng. Có sự khác biệt giữa ví tiền và con tim.
Những người giàu có khoa trương cho đi những điều dư thừa, trong khi bà góa, kín đáo và khiêm tốn, do sự nghèo khó cùng cực của bà, lẽ ra bà có thể chỉ cúng một đồng cho Đền thờ và một đồng kia giữ lại cho mình. Nhưng bà không muốn kiểu sống nửa với, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa nửa chừng; bà dâng tất cả. Vì thế, Chúa Giêsu nói, bà đã cho nhiều hơn tất cả những người khác. Trong sự nghèo khó của mình, bà hiểu rằng, có Chúa là có tất cả; bà cảm thấy được Chúa hoàn toàn yêu thương và đáp lại bà yêu Chúa trọn vẹn. Gương của bà già ấy mới đẹp làm sao!
Kinh nghiệm cho thấy có những khi chúng ta cho đi, nhưng người khác lại không đón nhận, hoặc có lúc người ta đón nhận nhưng chỉ đón lấy trong sự ép buộc chứ không mấy vui vẻ. Thành thực mà nói, nhiều khi ta trao tặng mà người kia không đón nhận, có lẽ không phải vì món quà không có giá trị, nhưng vì cách thức chúng ta cho đi có vấn đề. Chúng ta hãy cho đi bằng tất cả tấm lòng và hãy học cách cho đi như chính Chúa Giêsu đã cho đi.
Nhìn lại trong dòng lịch sử, không có ai có cách cho đi đẹp cho bằng Chúa Giêsu. Người đã cho đi tất cả kể cả mạng sống của mình chỉ vì yêu thương nhân loại. Sự trao hiến của Người là một sự cho đi đến tận cùng, một sự cho đi không tính toán. Người không những cho đi chính mình mà còn dạy cho nhân loại chúng ta biết nghệ thuật của sự cho đi. Có thể nói, cả cuộc đời Đức Giêsu là một lời giáo huấn liên tục về sự cho đi và cách thức cho đi.
Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng yêu thương. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền đã tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra mình quảng đại hơn người khác. Sau đó việc lỡ rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng bỏ vào thùng là việc ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối muốn đòi lại số tiền dư ra kia, nhưng rồi cũng do thói sĩ diện hão, cuối cùng bà đành phải chấp nhận số tiền bỏ thùng lớn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị bao nhiêu về thiêng liêng khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này vì không phát xuất từ tình yêu tha nhân.
2021
Thứ Bảy Tuần IX – Mùa Thường Niên
Thứ Bảy Tuần IX – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 24,16.18
Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con,
vì thân này cô đơn, nghèo khổ.
Xin thấy cho cảnh lầm than khổ cực
và tha thứ hết mọi tội con.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa quan phòng mọi sự và an bài thật khôn ngoan, tất cả đều xảy ra như Chúa muốn; xin đẩy xa những gì nguy hại và rộng ban muôn điều lợi ích cho chúng con. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
Tb 12,1.5-15.20
Giờ đây, hãy chúc tụng Chúa, này tôi lên cùng Thiên Chúa.
Bài trích sách Tô-bi-a.
1 Hôm đó, ông Tô-bít gọi Tô-bi-a, con ông, và nói : “Này con, con hãy lo trả công cho người bạn đồng hành của con, và trả thêm cho người ấy.” Tô-bi-a nói : “Thưa cha, biết trả anh ấy bao nhiêu bây giờ ?” 5 Sau đó Tô-bi-a gọi thiên sứ lại và nói : “Xin anh lấy một nửa tất cả những gì anh đã mang về, làm tiền công của anh. Chúc anh lên đường mạnh khoẻ !”
6 Bấy giờ, thiên sứ kín đáo gọi hai cha con lại và nói : “Hãy chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Người trước toàn thể sinh linh, về những điều tốt lành Người đã làm cho cha con ông. Hãy chúc tụng và ca ngợi danh Người ! Những việc Thiên Chúa đã làm, hãy long trọng công bố cho mọi người biết. Đừng ngần ngại xưng tụng Người ! 7 Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp ; nhưng công trình của Thiên Chúa, thì phải tỏ bày và xưng tụng cho long trọng. Hãy làm điều lành thì cha con ông sẽ không gặp điều dữ.
8 “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công ; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. 9 Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu. 10 Những ai phạm tội ăn ở bất công là kẻ thù của chính mình.
11 “Tôi sẽ tỏ cho ông và con ông biết tất cả sự thật, không giấu giếm chi. Tôi đã tỏ cho cha con ông biết rồi và đã nói : Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp, nhưng công trình của Thiên Chúa thì phải bày tỏ để tôn vinh Người. 12 Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người ; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. 13 Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. 14 Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông. 15 Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa.
20 “Giờ đây, hãy chúc tụng Đức Chúa nơi trần gian, hãy xưng tụng Thiên Chúa. Này tôi lên cùng Đấng đã sai tôi. Hãy viết ra mọi điều đã xảy đến cho cha con ông.” Nói xong, thiên sứ lên trời.
Đáp ca
Tb 13,2.6.7.8 (Đ. c.2a)
Đ.Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống.
2Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống,
chúc tụng vương triều Người.
Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương,
đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm,
rồi kéo ra khỏi đại hoạ tiêu vong,
chẳng có chi thoát khỏi tay Người.
Đ.Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống.
6Nếu anh em hết lòng hết dạ trở về với Chúa
mà sống theo sự thật trước tôn nhan Người,
thì Người sẽ trở lại với anh em,
không còn ngoảnh mặt làm ngơ nữa.
Đ.Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống.
7Vậy giờ đây,
hãy chiêm ngưỡng việc Chúa đã làm cho anh em
mà lớn tiếng xưng tụng Người.
Hãy chúc tụng Người, là Chúa công minh chính trực,
suy tôn Người, là vua hiển trị thiên thu.
Đ.Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống.
8Phần tôi, giữa cảnh lưu đày, xin xưng tụng Chúa
và làm cho dân tội lỗi biết rằng :
Người là Đấng cao cả quyền năng.
Tội nhân hỡi, mau quay đầu trở lại,
trước Thánh Nhan, hãy ăn ở ngay lành.
Biết đâu Người chẳng ưng chẳng nhận
mà dủ thương xót phận anh em ?
Đ.Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống.
Tung hô Tin Mừng
Mt 5,3
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 12,38-44
Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
38 Khi ấy, trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói với đám đông dân chúng rằng : “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”
41 Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói : “Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, tin tưởng vào lòng Chúa từ bi nhân hậu, chúng con cùng đến đây thành kính dâng của lễ lên bàn thờ, và tha thiết nguyện cầu Chúa ban ơn cho chúng con được thanh tẩy nhờ thánh lễ chúng con cử hành. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúng con biết rằng: vì vinh quang vô biên của Chúa, Chúa dùng thần tính mà cứu giúp chúng con là những kẻ phải chết. Hơn nữa, Chúa còn dự liệu linh dược để chữa lành bản tính phải chết của chúng con và giải thoát tất cả những ai vì mang bản tính đó mà bị hư mất, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con.
Nhờ Người, đạo binh các Thiên thần thờ lạy uy linh Chúa, muôn đời hoan hỷ trước Tôn Nhan. Xin cho chúng con được đồng thanh với các ngài hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 16,6
Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa,
vì Ngài đáp lời con.
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho chúng con dự tiệc Thánh Thể; xin ban Thánh Thần xuống hướng dẫn chúng con, để chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm hầu đáng được hưởng vinh quang thiên quốc. Chúng con cầu xin …
2021
Ðấng Kitô là Chúa
04 24 X Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Tb 11,5-17; Mc 12,35-37.
Ðấng Kitô là Chúa
Cuộc đối đầu trực diện giữa Chúa Giêsu và các đối thủ qua đi với việc họ không còn chất vấn Ngài nữa. Lúc này, tác giả Marcô lại nhớ thêm một cảnh, trong đó chính Chúa Giêsu là người chất vấn. Marcô không xác định rõ kẻ bị hỏi, chỉ ở cuối đoạn ông mới cho biết đông đảo dân chúng lắng nghe Ngài cách thích thú.
Trong lần chất vấn này, Chúa Giêsu đề cập đến tước hiệu mà các luật sĩ gán cho Ngài: con vua Ðavít. Một truyền thống Do thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (2V 7,14-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là “con vua Ðavít” (10,48; 11,10).
Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu không tự xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó quá hàm hồ, Ngài muốn tránh xa quan niệm về Ðấng Kitô theo kiểu chính trị. Ngài trưng dẫn Thánh vịnh 110, theo đó Ðấng Kitô vừa là con vua Ðavít, vừa được Ðavít gọi bằng “Chúa tôi”. Chính Kinh Thánh đã gán cho Ðấng Kitô một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu “Chúa”. Sau biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm “Chúa”. Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).
Ðức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Ðó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh tới thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: “Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa.
“Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”, thông lệ này xem ra cũng rất bình thường trong cách suy nghĩ của người Do Thái thời Chúa Giêsu. Đấng Kitô Cứu Thế họ mong đợi phải là một vị vua, mà đã là vua thì đương nhiên phải xuất thân từ dòng dõi đế vương. Nên khi được gọi là “Con Vua Đavít.” Chúa Giêsu đã không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó không diễn tả đủ mầu nhiệm về chính Ngài. Vì thế, để cho những người Do Thái hiểu hơn về bản tính Thiên Chúa nơi Ngài và để kiện toàn những lời đã hứa với Đavít, Chúa Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavít, là Chúa của Đavít.
Thế nhưng, cái khó là những người Do Thái, lúc bấy giờ không nhìn nhận được điều ấy, họ chỉ biết Ngài là con người thuộc dòng dõi Đavít, còn không nhận ra Ngài là Thiên Chúa, Chúa của Đavít. Vì theo kinh thánh, Đấng Kitô phải xuất thân từ dòng tộc vua Đavít trong vùng đất Giuđa, thuộc miền nam đất Paléttin. Mà Chúa Giêsu thì lại xuất thân từ làng Nagiarét, thuộc vùng đất Galilê. Thế nên họ đã lầm to trong sự hiểu biết về Kinh Thánh, và do đó cũng lầm về nguồn gốc của Chúa Giêsu.
Nhìn về cuộc sống, nhiều khi chúng ta cứ nghĩ là… mình biết, biết nhiều thứ. Thế nhưng khổ nỗi là lại biết sai, biết nửa vời, biết tí chút. Đôi khi, ta dám xác quyết chắc nịch là mình biết rất rõ về người này người kia, cũng như về các việc họ đã làm, để rồi phê bình, chỉ trích, lên án, chê bai… Như thế phải chăng là ta nóng vội không? Chắc hẳn ít là một lần ta đã từng là nạn nhân vì người ta nghĩ sai về mình, ta cảm thấy đau đớn biết bao.
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nêu ra một vấn đề xem ra không hợp lý mấy về cách xưng hô của vua Đavit, vì khi ông được Thánh Thần soi sáng đã nói:“ Đức Chúa đã phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con”. Chính vua Đavít gọị Đấng Kytô là Chúa Thượng, thì do đâu Đấng Kytô lại là con vua ấy được? Bởi lẽ theo Kinh Thánh thì Đấng Kytô xuất thân từ dòng tộc Đavít nên Ngài được cho là con cháu của vua Đa vít. Nhưng đó là cách nói và cách suy nghĩ của người trần gian. Vì thực ra. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã có trước từ thuở đời đời. Bởi thế chính vua Đavít cũng phả tôn thờ, phải tuyên xưng Ngài là Chúa Thượng.
Nhưng vì mầu nhiệm nhập thể, để thực hiện công trình cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã đến thế gian, mặc lấy thân phận con người, bởi vậy Ngài không chối bỏ mình là con cháu của vua Đavít. Như lời giới thiệu về Ngài của tông đồ Phao-lô: “ Đức Kytô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa…trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…”(Pl 2, 6-11)
Chỉ vì yêu thương và để cứu chuộc nhân loại Chúa Giê-su đã từ địa vị Thiên Chúa, Ngài đã khiêm hạ sinh ra trong kiếp người, chia sẻ thân phận con người nhỏ bé, thấp hèn để cảm thông, chia sẻ với những khổ đau và yếu đuối của chúng ta.
Con người dễ nhìn nhận Thiên Chúa thiêng liêng cao vời, nhưng không dễ đón nhận Thiên Chúa làm người. Dễ nói về Thiên Chúa, nhưng không dễ lắng nghe Thiên Chúa nói với mình. Đó là trường hợp của người Do thái ngày xưa gặp khó khăn trong việc nhìn nhận con người Giêsu bằng xương bằng thịt ấy là Thiên Chúa. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn xác tín rằng: chẳng những Chúa Giêsu là con người lịch sử: mà còn là Thiên Chúa. Ngài là Đấng “hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một”.