2021
Ý Nghĩa và Giá Trị của Sự Đau Khổ
Ý Nghĩa và Giá Trị của Sự Đau Khổ
Đau khổ là một thực tế hiển nhiên trong đời sống của con người, dù có niềm tin hay không.
Đây là một thực trạng mà không ai có thể phủ nhận hay tránh được trong cuộc sống trên trần gian này. Nào đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bất công xã hội, vì thiên tai, động đất, bão lụt. Nào đau khổ vì bị tù đầy, tra tấn, bị kỳ thị, khinh chê và cô lập (dân Untouchable bên Ấn Độ). Sau hết, đau khổ lớn lao nhất là chết chóc đau thương.
Vì đâu có đau khổ ?
Thực khó tìm được câu trả lời thỏa đáng theo suy nghĩ của con người cho câu hỏi này..
Tuy nhiên, có điều nghịch lý đáng nói ở đây là ở khắp nơi, và ở mọi thời đại, luôn có những kẻ gian ác, làm những sự dữ, sự tội, như giết người, trộm cắp, hiếp dâm, đặc biệt là cai trị độc ác và gây ra chiến tranh khiến hàng triệu người vô tội bị giết … nhưng những kẻ đó vẫn sống phây phây với địa vị và tiền bạc dư thừa của chúng, trong khi biết bao người lành, lương thiện, đạo đức lại nghèo khó, bệnh tật nan y hay gặp tai nạn xe cộ, tầu bè. Cụ thể, năm 2008, một xe buýt chở giáo dân ở Houston, Texas đị dự Đại Hội Thánh Mẫu ở Carthage , Missouri đã gặp tai nạn khiến hàng chục người chết hoặc bị thương nặng ! trong khi những xe và phi cơ chở người đi đánh bạc ở Las Vegas, lake charles (Louisiana).. hoặc du hí ở các nơi tội lỗi như Cancun (Mexico) Thai lan, Kampuchia… thì chưa hề gặp tai nạn tương tự !! Lại nữa, những người nghiện rượu và thuốc lá thường dễ bị ung thư phổi, nhưng biết bao người không uống rượu và hút thuốc lá mà vẫn bị ung thư phổi , thi sao ? Lại nữa, phụ nữ sinh con thì dễ bị ung thư ngực, nhưng có nữ tu không hề sinh đẻ mà vẫn bị ung thư ngực !
Vậy không lẽ Chúa phạt những người bị tai nạn hay bệnh tật kia???
Chắc chắn là không. Nhưng phải giải thích thế nào cho hợp lý và tìm ra ý nghĩa của sự đau khổ với con mắt đức tin của người tín hữu Chúa Kitô trong năm Đức Tin này.
Thật vậy, đau khổ là một thực trạng không thể tránh được trong trần gian này như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa :’
“ Trong thế gian
Anh em sẽ phải gian nan khốn khó
Nhưng hãy can đảm lên
Thầy đã thắng thế gian. (Ga 16: 33)
Nhưng trước khi Chúa đến trần gian để chia sẻ thân phận con người với nhân loại, sự đau khổ , sự dữ đã đầy rẫy trong trần gian như Kinh Thánh Cựu Ước đã ghi lại. Cụ thể ông Gióp (Job) là người “ vẹn toàn, ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và tránh xa điều ác.”( G 1: 1). Vậy mà ông đã gặp hoạn nạn, đau khổ lớn lao bất ngờ, không thể tưởng tượng được : nào con cái (bảy con trai ba con gái) bỗng chốc lăn ra chết hết trong một trận cuồng phong từ sa mạc thổi đến. Nào đàn gia xúc của ông gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số đông tôi tớ cũng bỗng chốc bị giết và cướp mất khỏi tay ông ! Nhưng trước tai ương khủng khiếp này , ông Gióp chỉ biết quỳ xuống than thở với Chúa như sau :
“ Thân trần truồng
Sinh ra từ lòng mẹ
Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng
ĐỨC CHÚA đã ban cho
ĐỨC CHÚA lại lấy đi
Xin chức tụng danh ĐỨC CHÚA ! (G1 : 21)
Chính vì lòng trung kiên yêu mến, kính sợ Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, như khi được mọi điều sung sướng và nhất là khi phải đau khổ vì tai ương bất ngờ, ông Gióp đã được Thiên Chúa khen lao và ban lại cho ông gấp đôi những gì ông đã mất: ông lại sinh được bảy con trai và ba con gái xinh đẹp nhất trong xứ sở và sống thọ thêm một trăm bốn mươi năm nữa . (cf.G 42: 12-17)
Như thế , sự đau khổ, tai ương là phương tiện hữu hiệu Thiên Chúa đã dùng để thử thách các tôi tớ trung kiên của Người như các ông Mô- sê, Ap-bra-ham Gióp và Tô-bia.
Ngươc lai, đôi khi Thiên Chúa cũng dùng tai ương, đau khổ để trừng phạt con người vì tội lỗi và ngoan cố không muốn ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó là hinh phạt Đại hồng thủy trong thời Cựu Ước, đã cuốn đi vào lòng đai dương tất cả mọi người, mọi sinh vật trên mặt đất, trừ gia đình ông Nô-e và các sinh vật được ông đem vào tàu trước khi mưa tuôn đổ xuống địa cầu. ( St 6: & 7)
Lại nữa, Thiên Chúa đã dùng lửa và mưa sinh diêm từ trời xuống để hủy diệt thành Xô-đôm , vì ông Ap-bra-ham không tìm được người ngay lành nào trong thành tội lỗi đó, để xin Chúa tha chết cho thành ấy. ( Sđd : 19)
Nhưng khi dân thành Ni-ni-vê nghe theo lời kêu gọi của ngôn sứ Giô-na ăn chay , cầu nguyện và xám hối thì Thiên Chúa đã tha không đánh phạt họ như Người đã ngăm đe. (. Gn 3: 1-10)
Như vậy , trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng đau khổ , gian nan khốn khó để thử thách các tôi tớ trung thành và cũng để đánh phạt những kẻ làm những sự dữ , tội lỗi mà không chiu xám hối và từ bỏ con đường gian ác.
Dân Do Thái, cho đến thời Chúa Giêsu xuống trần và đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, vẫn quen nghĩ rằng sự khó, sự đau khổ và tai ương xảy ra cho ai thì tại tội lỗi của người đó hay của cha mẹ nạn nhân. Cho nên khi thấy một người mù từ bé, các môn đệ của Chúa Giêsu đã hỏi Người như sau :
“ Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?( Ga 9 : 2). Chúa Giêsu đã trả lời họ như sau : “không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” ( Sđd 9; 3)
Việc của Thiên Chúa được tỏ hiện là Chúa Giêsu đã chữa cho anh mù được xem thấy để minh chứng Người là quả thực là Đấng Thiên Sai ( Mê-si-a ) đã đến trong trần gian để “ cho người mù được thấy. kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng..” ( Lc 7 : 22 ) .
Nhưng cũng trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu cũng nói với một người đã đau ốm lâu năm và Chúa đã chữa lành cho anh ta. Nhưng khi gặp lại anh này trong Đền Thờ sau đó, Chúa đã nói với anh điều đáng chú ý như sau :
“ Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước.” ( Ga 5: 14)
Như thế có nghĩa là tội lỗi cũng có thể là nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người như Chúa đã nói trên đây. Kinh nghiệm thực tế ngày nay cũng chứng minh điều này. Kẻ trộm cắp cứ quen sống bất lương như vậy, sẽ có ngày gặp tai họa khi vào nhà ai để ăn trộm và có thể bị chủ nhà bắn chết. (ở Mỹ rất nhiều người dân có súng trong nhà để tự vệ). Người ngoai tình cũng có thể bị tình địch giết chết vì đã gian díu với vợ hay chồng của người khác. Lái xe ẩu, vượt đèn đỏ có thể gây ra án mạng cho người khác và cho chính người lái xe ẩu. Đúng là tội đâu vạ đấy như người Việt Nam chúng ta thường nói.
Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta được dạy dỗ để tin rằng sự đau khổ về thể lý hay tâm hồn cũng là phương tiện mà Thiên Chúa dùng để cho chúng ta được thông phần sự thương khó đau khổ với Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi sự khốn khó cho đến chết đau thương trên thập giá để cho chúng ta được cứu độ và có hy vọng được hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa sau hành trình đức tin trên trần thế này.
Thật vậy, Chúa Giê-su Kitô là Đấng Thiên Sai (Messaih) đã đến trần gian làm Con Người, đã chiu khốn khó ngay từ khi sinh ra trong cảnh cực kỳ khó nghèo nơi hang lừa máng cỏ, bị đe dọa giết chết bởi Hêrôđê khiến Đức Mẹ và Thánh Giuse phải mang chậy trốn sang Ai Cập lúc đêm khuya.. Lớn lên, Người đi rao giảng Tin Mừng trong điều kiện rất khó nghèo, lang thang đó đây như kẻ vô gia cư đúng như Chúa đã nói với các môn đệ :“ con chồn có hang, chim trời có tổ , nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” ( Mt 8 : 20)
Là Đấng Thiên Sai, Chúa Kitô sẽ “phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục , các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.” ( Sđd 16: 21)
Phêrô, môn đệ được Chúa khen ngợi vì đã tuyên xưng đúng Người là “ Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.”. Nhưng khi nghe Chúa nói đến những đau khổ mà Người sắp phải chịu trước khi chết, sống lại và lên trời vinh hiển, Phêrô đã tìm cách can ngăn Chúa như sau : “ Xin Thiên Chúa thương đừng để cho Thầy gặp chuyên đó.”.( Sđd 16: 22)
Để trả lời cho Phêrô và cũng để dạy cho chúng ta biết giá trị của đau khổ, Chúa đã quở trách ông như sau: “Xa tan , hãy lui lại đàng sau Thầy ! anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” .( Sđd 16: 23)
Phêrô can ngăn Chúa vì đã hành động đúng với suy tư của mọi người trần thế là không ai muốn chiu sự gì khốn khó, đau khổ. Ai cũng muốn được luôn khỏe mạnh, sung sướng , an nhàn, có nhiều tiền của và danh vọng ở đời. Không ai muốn bệnh tật, nghèo đói và bị khinh chê, tù đầy hay bắt bớ . Ước vọng được khỏe mạnh cũng rất chính đáng và đẹp lòng Chúa, như tác giả Sách Huấn Ca đã viết:
“ Người đã chết thì hết xưng tụng vì nó không còn nữa
Chỉ người đang sống và khỏe mạnh mới ca ngợi Đức Chúa.” ( Hc 17 : 28)
Vì thế, người đau ốm cầu xin Chúa cho được lành bệnh tật của thân xác:
“Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho vì gân cốt rã rời
Toàn thân con rã rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ ? “. ( Tv 6 : 3-4)
Cầu xin cho được khỏe mạnh và bình an trong cuộc sống là điều tốt phải xin Chúa và không có gì đáng chê trách. Nhưng bệnh tật và rủi ro thì không ai tránh được trong cuộc sống ở đời này. Người đạo đức, lương thiện và kẻ bất lương gian ác đều không ít thì nhiều phải đau khổ như bệnh tật, tai nạn bất ngờ, tang chế trong gia đình vì người thân mất đi…. Tuy nhiên, cứ xem gương Chúa Giêsu , Đức Mẹ và các Thánh thì người có đức tin phải hiểu rằng đau khổ có giá trị cứu rỗi và là phương thế hiệu nghiệm mà Thiên Chúa dùng để thánh hóa và cải hóa con người, cũng như để thử thách lòng tin yêu của các tôi tớ trung kiên như trường hợp các ngôn sứ Mô-Sê, Abraham, Gióp và Tôbia đã nói ở trên.
Vì đau khổ có giá trị xin tha tội, nên ông Mô-sê đã xin hiến mạng sống mình làm của lễ để xin Thiên Chúa tha tội cho dân Do Thái xưa:
“ Ông Mô-sê trở lại với ĐỨC CHÚA và thưa : “than ôi dân này đã phạm một tội lớn. Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng. Nhưng giờ đây ước gì Ngài miễn chấp tội họ. Bằng không, thì xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn Sách Ngài đã viết.” ( Xh 32 : 31-32)
Chính vì giá trị cứu chuộc của đau khổ mà Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai, Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, đã vui lòng “uống chén đắng” là vác thập giá, chịu mọi cực hình cho đến khi chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ, không phải vì sự đau khổ của Chúa Kitô chưa đủ cho con người được cứu rỗi, mà vì con người còn có tự do để cộng tác với ơn Chúa để được cứu chuộc hay bị loại vì đã tự ý khước từ ơn cứu rỗi đó để sống buông thả theo tính hư nết xấu của xác thịt và chậy theo những quyến rũ của thế gian đang tràn ngập với “văn hóa của sự chết” mà những kẻ không có niềm tin đang ngụp lặn trong đó.
Nếu con người không có thiện chí muốn cộng tác với ơn Chúa để sông theo đường lối của Chúa, thì Chúa không thể cứu ai được , mặc dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá và đủ cho con người được cứu rỗi.
Tóm lại, không ai có thể tránh được đau khổ trong cuộc sống trên trần gian này. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, với người có niềm tin nơi Chúa thì đau khổ là phương thế tốt nhất cho ta được trở nên giống Chúa Kitô , Người đã đi vào vinh quang phục sinh qua khổ hình thập giá để dẫn đưa chúng ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta cũng vui lòng vác thập giá theo Người. Nghĩa là chúng ta phải vui lòng chấp nhận những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta không kiêu căng đi tìm kiếm nhưng không hậm hực kêu trách Chúa khi gặp phải trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là cách chấp nhận đau khổ đẹp lòng Chúa, đúng theo lời dạy của chính Chúa Kitô, là “ ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16: 24).
Vác thập giá theo Chúa có nghĩa là vui lòng chịu mọi sự khó Chúa gửi đến trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Vậy chúng ta hãy can đảm và bằng lòng chịu những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta không ai muốn kiếm tìm nhưng không tránh được, vì Chúa đã tha phép cho xảy ra để cho ta được thông phần sự thương khó của Chúa Kitô để đền tội mình và tội của người khác, cũng như để cầu xin cho nhiều người chưa biết Chúa được nhân biết và tin yêu Chúa để cùng hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Màu sắc lễ phục của các linh mục trong thánh lễ đồng tế
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Liệu các linh mục đồng tế một Thánh Lễ buộc phải mang lễ phục cùng màu với lễ phục của vị chủ tế không? Có ba ví dụ mà tôi đã nhìn thấy dẫn tôi đến việc đặt ra câu hỏi này. Trong ba ví dụ, các vị đồng tế mang dây stola mà không mang áo lễ. Ví dụ đầu tiên xảy ra tại một Thánh Lễ an táng: vị chủ tế mang lễ phục đen, các vị đồng tế mang dây stola trắng, và tấm đậy chén thánh cũng màu trắng. Ví dụ thứ hai cũng xảy ra tại một Thánh Lễ an táng: vị chủ tế và hai vị đồng tế mặc lễ phục màu trắng; vị đồng tế thứ ba mang dây stola màu tím. Ví dụ thứ ba xảy ra trong thánh lễ chủ nhật Gaudete (Mừng vui lên, Chủ nhật III Mùa Vọng): vị chủ tế mang lễ phục màu hồng; vị đồng tế mang dây stola màu tím. Sự gì thích hợp hơn? Sự gì được cho phép? – T.N., Arlington, Virginia (Mỹ).
Đáp: Đề tài này được nói trong Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma (GIRM, bản Việt ngữ do linh mục P.X. Nguyễn Chí Cần, GP Nha Trang, dịch) và trong Huấn thị Bí tích Cứu độ (Redemptionis Sacramentum, bản Việt ngữ của Hội đồng Giám mục Việt Nam).
“Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma” nói:
“Số 209. Các vị đồng tế mặc lễ phục nơi phòng thánh hay một nơi khác xứng hợp, như thường mặc khi làm lễ một mình. Tuy nhiên khi có lý do chính đáng, chẳng hạn: đông số đồng tế quá mà thiếu lễ phục, thì các vị đồng tế, luôn luôn trừ vị chủ tế, có thể bỏ áo lễ, chỉ mang dây stola trên áo alba”.
Luật này được nói rõ hơn trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum:
“Số 124. Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách Lễ Rôma cho quyền các linh mục đồng tế trong Thánh Lễ “khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola trên áo alba”, trước một lý do chính đáng, ví dụ như số các vị đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng mà, nếu người ta có thể tiên liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng nữa. Về phần còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của những sách phụng vụ”.
Điều này nói rõ rằng thật là thích hợp hơn khi mọi vị đồng tế mang áo lễ, và nên mang áo lễ màu trắng chứ không theo màu của ngày ấy.
Nếu không có đủ áo lễ màu trắng, thì tôi có thể nói rằng sự thích hợp kế tiếp là các vị đồng tế mang dây stola theo đúng màu của ngày hôm đó. Nếu dây stola cùng màu cũng không đủ cho các vị, các vị nên dùng dây stola màu trắng
Mặc dù quy chế chỉ đề cập đến việc vị chủ tế phải mang áo lễ theo đúng màu của ngày hôm đó, tôi tin rằng một sự kết hợp có trật tự các màu sắc hợp pháp của các vị đồng tế cũng đúng với luật.
Ví dụ, mới đây tôi tham dự một lễ truyền chức linh mục trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó màu đỏ là màu sắc của ngày. Vì có hơn 120 vị đồng tế, nên phòng thánh của vương cung thánh đường đáng kính không thể cung cấp áo lễ màu đỏ cho đủ cho dịp này. Do đó, 80 vị đồng tế mang áo lễ màu đỏ, và số các vị đồng tế còn lại mang dây stola màu đỏ.
Để duy trì sự trang nghiêm, các linh mục mang đúng lễ phục cần được xếp đứng gần bàn thờ nhất, trong khi các vị khác được bố trí đứng ở một nơi khác thích hợp.
Sự sắp xếp cơ bản này cũng có thể được áp dụng trên một quy mô nhỏ hơn. Ví dụ, nếu một giáo xứ có bốn hoặc năm bộ lễ phục phù hợp, ngoài áo lễ của vị chủ tế, chúng có thể được sử dụng bởi các linh mục đứng gần nhất bàn thờ trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể.
Việc sử dụng các lễ phục phù hợp cho các vị đồng tế, và không là lễ phục cùng màu, không phải là một yêu cầu nghiêm ngặt của luật, nhưng rõ ràng là thích hợp hơn cho trật tự chung và sự trang nghiêm của thánh lễ.
Nếu các vị đồng tế phải mang dây stola, thì tôi nghĩ tốt nhất nên sử dụng một màu duy nhất. Ví dụ thứ hai được cung cấp bởi độc giả của chúng tôi về một thánh lễ an táng, trong đó vị chủ tế mặc áo lễ màu trắng, còn một vị đồng tế mang dây stola tím, minh họa cho trường hợp tương phản màu sắc không cần thiết. Sẽ là thích hợp hơn nếu các vị đều mang màu trắng. Các ví dụ khác của việc vị chủ tế mang áo lễ đen hoặc hồng, trong khi các vị đồng tế mang dây stola thích hợp, là phù hợp với qui tắc phụng vụ.
Cuối cùng, sẽ là hữu ích khi nhắc lại các quy tắc bao quát cho việc sử dụng màu sắc phụng vụ được diễn tả bởi “Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma”:
“Số 345. Các màu sắc khác nhau của phẩm phục nhằm diễn tả cách hữu hiệu và ra bên ngoài khi thì đặc tính của các mầu nhiệm đức tin được cử hành, khi thì ý nghĩa của đời sống Kitô giáo, theo diễn tiến của năm phụng vụ”.
“Số 346. Về màu sắc của phẩm phục thánh, nên giữ thói quen truyền thống sau đây:
- Màu trắng được dùng trong Thần vụ và Thánh Lễ mùa Phục Sinh và mùa Giáng Sinh, trong các lễ kính Chúa, ngoại trừ cuộc Thương Khó của Người, các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria, các Thiên Thần, các Thánh không tử đạo, lễ trọng kính Các Thánh (1-11), kính Gioan Tẩy Giả (24-6), các lễ kính thánh Gioan Thánh sử (27-12), Ngai Toà Phêrô (22-2), thánh Phaolô trở lại (25-1).
- Màu đỏ được dùng trong Chủ Nhật Thương Khó và thứ Sáu Tuần Thánh, Chủ Nhật Hiện Xuống, các cử hành cuộc Thương Khó của Chúa, lễ các Tông Ðồ và Thánh Sử, và lễ các Thánh Tử Ðạo.
- Màu xanh dùng trong Thần vụ và Thánh Lễ mùa “Thường Niên”.
- Màu tím dùng trong mùa Vọng và mùa Chay. Có thể dùng trong các nghi thức phụng vụ và Thánh Lễ cầu cho người qua đời.
- Màu đen có thể dùng trong lễ cầu cho người qua đời, ở đâu có thói quen này.
- Màu hồng có thể dùng trong Chủ Nhật Gaudéte (Chủ nhật III Mùa Vọng) và Laetare (Chủ nhật IV Mùa Chay), ở đâu có thói quen này.
g.Vào các ngày lễ trọng hơn, nghĩa là quý báu hơn, áo lễ có thể được sử dụng theo màu không đúng màu của ngày hôm đó.
- Áo lễ màu vàng quý hoặc màu bạc có thể được sử dụng vào các dịp lễ long trọng ở các giáo phận của Mỹ”.
“Số 347. Trong các lễ nghi thức, dùng màu riêng của lễ, hay màu trắng hay màu lễ hội; còn các lễ tùy nhu cầu thì dùng màu của ngày hôm đó hay màu của mùa hay màu tím, nếu có tính cách thống hối (x. các số 31, 33, 38); các lễ tùy ý thì dùng màu thích hợp với lễ cử hành, hay màu của ngày hôm đó hoặc màu của mùa”.
Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 127, cung cấp một giải thích chính thức cho số 346g trong Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma:
“Số 127. Trong các sách phụng vụ, có một năng quyền đặc biệt được ban để, trong những ngày thật trọng thể, sử dụng các phục phụng vụ dành cho các ngày lễ và đặc biệt đẹp, dù chúng không đúng màu sắc của ngày lễ hôm đó. Tuy nhiên, quyền này, liên quan một cách đặc thù đến các lễ phục phụng vụ rất cổ xưa, nhằm bảo toàn di sản của Giáo Hội, lại bị nới rộng một cách quá đáng đến những đổi mới; do đó, bỏ qua cách làm truyền thống, người ta chấp nhận những hình dáng và màu sắc, căn cứ trên những tiêu chuẩn chủ quan, và như thế là làm yếu đi ý nghĩa của một quy tắc, hại cho truyền thống. Những ngày lễ, các phẩm phục thánh màu vàng hay bạc có thể thay thế, tuỳ lúc, các màu sắc phụng vụ khác nhau, trừ ra màu tím và màu đen”.
Nguyễn Trọng Đa
2021
NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
08 29 X Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên.
St 44,18-21.23b-29;45,1-5; Mt 10,7-15.
NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
Nhiều bậc tôn sư như Đức Khổng, Đức Phật có thói quen dẫn môn sinh rảo khắp thôn làng thành thị giảng dạy giáo thuyết của mình. Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ đi lưu động trong “các thành hay làng mạc.” Nhưng việc rao giảng thì không phải đợi đến một nơi nào, mà đã phải thực hiện ngay khi còn đi đường. Chính nội dung của lời rao giảng “Nước Trời đã đến gần” cho thấy tính cấp bách khẩn thiết của sứ mạng: không được có thái độ tự mãn hoặc thụ động ngồi chờ người ta đến nhưng trái lại phải nhanh nhẹn tích cực lên đường đến với tha nhân, trở thành sứ giả đem Tin Mừng bình an đến mọi nhà mọi người, ngay cả khi bị xua đuổi, từ chối.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỉ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và chúc lành cho nhà đó.
“Nước Trời đã đến gần” (c.7) là sứ điệp quan trọng Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Nước Trời còn được biểu hiện nơi chính con người Đức Giêsu, vì Ngài là hiện thân của Chúa Cha, đến trần gian để minh chứng tình yêu Cha dành cho nhân loại. Vâng, sứ điệp ấy đã được Chúa Giêsu thông truyền lại cho các môn đệ, để các ngài tiếp nối công trình cứu độ của Ngài nơi trần gian qua Giáo hội. Khi được chuyển trao sứ điệp quan trọng này, các môn đệ cũng được Chúa Giêsu ban cho những năng quyền để khắc phục sự dữ (x.c.8), đồng thời Ngài cũng đòi hỏi người môn đệ phải thật nghèo khó, thanh thoát (x.c. 9-11), để hết mình phục vụ Nước Trời (x.c.12-13). “Nước Trời đã đến gần” còn là sứ điệp quan trọng cho con người thời đại hôm nay không?
Khi mà trong thực tế, nhiều người như cảm thấy Thiên Chúa rất xa lạ, mơ hồ đối với họ, vì những cảm thức duy thực dụng đã lún sâu trong tâm khảm của họ. Đứng trước thảm trạng đau buồn ấy, người môn đệ Chúa Giêsu phải làm gì để “Nước Trời” thực sự được hiện diện giữa trần gian hôm nay! Phải chăng đây là sứ mệnh quan trọng và cấp bách, đang hối thúc mỗi chúng ta hãy can đảm mạnh dạn lên đường, để tung gieo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người. Dẫu có những khó khăn và thử thách đang chờ đón phía trước, nhưng chúng ta hãy vững tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Ngài luôn đồng hành bên chúng ta để thi thố những việc kỳ diệu cho vinh danh Ngài.
Điều quan trọng là mỗi chúng ta hãy ý thức “chúng ta đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c.8b). Con người hôm nay đang dần giàu lên về nhiều mặt: vật chất, sự hiểu biết, sự hưởng thụ, danh vọng . . . nhưng lại vô cùng nghèo về tình yêu, sự thật và công lý. Thế nên, từ sâu thẳm nội tâm, con người vẫn thật sự khao khát một chiều kích tâm linh đích thực, có thể lấp đầy sự trống vắng của cõi lòng họ. Thế nhưng, người môn đệ Đức Kitô không chỉ giới thiệu về Nước Trời bằng những chân lý mặc khải, nhưng chính một nếp sống đơn sơ, nghèo khó, thanh thoát của người môn đệ sẽ có sức thuyết phục rất mạnh mẽ, vì con người hôm nay “cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Chúa Giêsu chính là hiện thân của tình yêu thương, lòng bao dung tha thứ, lòng xót thương trên những nỗi khổ đau của con người về thể lý và tinh thần. Chính Ngài đã thi thố quyền năng trên bệnh tật, sự chết, ma quỷ khi Ngài chữa lành cho con người khỏi áp lực của sự dữ. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu cũng ban cho các ông năng quyền trên sự dữ, nhờ đó các tông đồ có thể chữa lành bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại và khu trừ ma quỷ (x.c.8a). Lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu phải luôn là hành trang cho người môn đệ: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy” (c.8b).
Chúa Giêsu còn đi xa hơn khi đòi hỏi người môn đệ phải có một tâm hồn thanh thoát với của cải, danh vọng và tình cảm con người: “Đừng sắm vàng bạc hay tiền, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo… hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi…” (c. 9-11). Sự thanh thoát với nếp sống giản dị của người môn đệ là dấu chứng thuyết phục nhất cho lời rao giảng cùng với những năng quyền Chúa đã ân ban. Sứ điệp đầu tiên mà người môn đệ mang đến cho mọi người chính là sự bình an: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (c.12). Đây chính là khát vọng sâu xa nhất mà con người hằng mong đợi: sự an bình và hạnh phúc.
Chúa Giêsu là hiện thân của Nước Trời, là nội dung sứ điệp truyền giáo. Vì thế, khi thi hành sứ vụ, người môn đệ luôn phải đặt Chúa làm trọng tâm mọi hoạt động của mình. Tất cả những gì người tông đồ có được đều là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, người tông đồ cần luôn ý thức sâu xa hồng ân mình được nhận lãnh cách nhưng không, để không tự hào, hay khoe mình về những thành công đạt được trong khi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Ngày hôm nay, con người cần chứng nhân hơn thầy dạy. Thế nên, người môn đệ của Chúa phải truyền giảng Tin Mừng trước tiên bằng một cuộc sống tràn đầy tình yêu thương, với một nếp sống đơn sơ giản dị, thanh thoát với mọi sự vật trần thế, để chỉ lo tìm vinh danh Chúa và mưu ích cho các tâm hồn. Giữa một xã hội đang đầy dẫy những phức tạp muôn mặt, con người khó tìm kiếm được sự bình an đích thực. Đây chính là nhiệm vụ của người môn đệ, đem bình an của Chúa đến cho mọi nhà và từng tâm hồn, để tất cả đều cảm nghiệm niềm hạnh phúc sâu xa với sự bình an tràn trào, vì Chúa đang ở cùng con người.
2021
Thứ Năm Tuần XIV – Mùa Thường Niên
Thứ Năm Tuần XIV – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 47,10-11
Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh,
chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương.
Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng,
tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang ;
tay hữu Chúa thi hành công lý.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
Thiên Chúa đã gửi tôi sang Ai-cập để cứu sống anh em.
Bài trích sách Sáng thế.
44 18 Bấy giờ, ông Giu-đa lại gần ông Giu-se và nói : “Thưa ngài, xin xá lỗi. Xin cho tôi tớ ngài được nói một lời thấu đến tai ngài. Xin ngài đừng trút cơn thịnh nộ xuống tôi tớ ngài : quả thật, ngài ngang hàng với Pha-ra-ô. 19 Ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng : ‘Các người còn cha hay anh em nào không ?’ 20 Chúng tôi đã thưa với ngài : ‘Chúng tôi có cha già và một đứa em út, sinh ra lúc người đã già ; thằng anh cùng mẹ với nó đã chết, chỉ còn lại mình nó, nên người thương nó.’ 21 Ngài đã bảo các tôi tớ ngài : ‘Các người đưa nó xuống cho ta, để ta nhìn thấy nó tận mắt. 23b Nếu em út các người không cùng xuống với các người, thì các người sẽ không được gặp mặt ta nữa.’ 24 Vậy khi chúng tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, thì chúng tôi đã nói lại với người những lời của ngài. 25 Cha chúng tôi bảo : ‘Hãy trở lại mua ít lương thực về.’ 26 Chúng tôi trả lời : ‘Chúng con không thể xuống đó được. Nếu có em út cùng đi với chúng con, thì chúng con mới xuống ; vì chúng con không thể gặp mặt ông ấy, nếu em út không cùng đi với chúng con.’ 27 Tôi tớ ngài, là cha của tôi, nói với chúng tôi : ‘Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. 28 Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói : Đúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. 29 Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ.’”
45 1 Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên : “Bảo mọi người ra khỏi đây !” Khi không còn người nào ở với ông, ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra mình. 2 Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
3 Ông Giu-se nói với anh em : “Tôi là Giu-se đây ! Cha tôi còn sống không ?” Nhưng anh em không thể trả lời : thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4 Ông Giu-se nói với anh em : “Hãy lại gần tôi.” Họ lại gần. Ông nói : “Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5 Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây : chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.”
Đáp ca
Tv 104,16-17.18-19.20-21 (Đ. c.5a)
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
16Chúa cho nạn đói hoành hành khắp xứ,
làm cạn nguồn lương thực nuôi dân.
17Chúa đã phái một người đi trước họ
là Giu-se, kẻ bị bán làm tôi.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
18Chân ông phải mang xiềng khổ sở,
cổ đeo gông nặng nề,19cho đến ngày ứng nghiệm điều ông tiên đoán
và ông được lời Chúa giải oan.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
20Nhà vua, vị thủ lãnh các dân thời đó,
truyền tháo cởi gông xiềng và phóng thích ông,
21rồi đặt ông làm tể tướng triều đình,
làm chủ mọi tài sản hoàng gia.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
Tung hô Tin Mừng
Mc 1,15
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 10,7-15
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Anh em hãy đi rao giảng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và không nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống chân tình với Chúa. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì thương xót nhân loại lỗi lầm, Người đã chấp nhận sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ, đã chịu khổ hình thập giá/ để cứu chúng con khỏi chết muôn đời. Và từ cõi chết sống lại, Người đã ban cho chúng con được hưởng phúc trường sinh.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 33,9
Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy,
hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả; xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin …