2021
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Hỏi: Nhân Mùa Chay, xin cha giải thích ý nghĩa việc Giuđa phản bội, người trộm lành sám hối và Phêrô chối Chúa như được ghi lại trong trong các Tin Mừng.
Trả lời: Mùa chay là thời điểm thuận lợi nhất để Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm sâu xa hơn nữa về tình thương bao la của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi đau khổ, sỉ nhục và chết trên thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội và có hy vọng được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Nước Trời .
Mùa chay cũng là mùa sám hối, thúc dục mọi tín hữu nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin Chúa nhân lành khoan dung thứ tha vì Người “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. ( 1Tm 2:4)
Thiên Chúa là Cha rất nhân lành..Người “chậm giận và giầu tình thương”. Vì thế, ai có lòng trông cậy và kêu xin thì dù cho tội lỗi đến đâu cũng sẽ được tha thứ.Chỉ có sự tuyệt vọng, không còn muốn xin Chúa thương xót tha thứ nữa mới làm bế tắc tình thương bao la của Thiên Chúa cho con người mà thôi
Sau đây là nhũng bài học ta có thể rút ra từ việc Phêrô chối Thầy, Giuđa bán Chúa và người trộm lành sám hối.
Tin Mừng Matthêu, Marcô, Luca và Gioan đều ghi lai sự kiên Phêrô chối Thầy, Giuđa Ít-ca-ri-ốt , một trong 12 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã phản bội Thầy, bán Thầy và tuyệt vọng đến mức treo cổ tự tử sau đó. (Mt 27: 5)
Riêng Tin Mừng Luca ghi lại sự kiên “Người gian phi sám hối và được vào Thiên Đàng với Chúa Giêsu”.
1- Trường hợp của Giuda
Giuđa tượng trưng cho lớp người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa để phản bội người khác, kể cả ân nhân. Giuđa là một trong Nhóm 12 Tông Đồ nòng cốt mà Chúa Giêsu đã chọn lựa cho tham gia vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa từ lúc ban đầu. Giuđa đã được diễm phúc sống bên Chúa suốt 3 năm, đã được trực tiếp nghe lời giảng dạy của Chúa về Nước Trời, về tinh thần khó nghèo cũng như chứng kiến tận mắt đời sống khó nghèo của Chúa ở mức “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20). Vậy mà Giuđa đã không được cảm hóa theo gương khó nghèo của Chúa. Vì thế Giuda đã cam tâm bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Nhưng khi chứng kiến cảnh Thầy mình bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Giuđa đã hối hận đem tiền trả lại bọn thượng tế và kỳ mục Do Thái rồi đi thắt cổ chết. Hắn tự tử vì quá tuyệt vọng, không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương, tha thứ của Chúa nữa. Đây là điều rất đáng buồn cho anh ta và là gương xấu cho người khác.
Thật vậy, Giuđa đã trở thành gương xấu không những vì tham mê tiền của, phản bội mà nhất là tuyệt vọng về lòng xót thương của Chúa. Đây là điều đáng nói nhất về người môn đệ phản bội này, vì y đã mất hết niềm tin vào Thiên Chúa nhân lành, sẵn lòng tha thứ hết mọi tội lỗi của con người trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội tuyệt vọng không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương tha thứ của Chúa nữa.Giuđa đã phạm tội này khi tự tử chết.
Chúa Giêsu đã than thở như sau về sự phản bội của Giuđa: “…Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” ( Ga 17: 12)
lại nữa: “…đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26: 24; Mc 14: 21)
Dầu vậy, Giáo Hội cũng không dám kết luận chắc chắn về số phận đời đời của Giuđa. Việc này chỉ có một mình Thiên Chúa biết vì Người đã phán đoán Giuđa theo lượng từ bi và công bằng của Người.
Ngược lại , Giáo Hội chỉ lưu ý con cái mình về gương xấu của Giuđa mà thôi. Gương xấu vì Giuđa đã mê tiền của hơn yêu mến Thầy, nên đã phản bội Thầy khi bán Người lấy 30 đồng bạc của các Thượng Tế và kỳ mục Do Thái. Nhưng điều đáng nói nhất về Giuđa là sự tuyệt vọng của anh, khi không còn muốn sám hối để xin Chúa tha thứ nữa, để rồi đi treo cổ tự tử (cf. Mt 27:5). Đây là gương xấu mà mọi tín hữu phải xa tránh vì thực chất của nó là mất hết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, là Cha nhân từ luôn sẵn lòng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối và xin tha thứ.
2- Phêrô chối Chúa
Ngược lại với Giuđa là kẻ nêu gương xấu về tham tiền và tuyệt vọng, Phêrô lại dạy cho chúng ta bài học quý giá về lòng ăn năn sám hối.
Phêrô cũng có khuyết điểm là quá tự tin nơi mình khi tuyên bố lúc ban chiều trước khi Chúa Giêsu bị bắt: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” ( Mt 26:35)
Nhưng đúng như lời Chúa đã nói trước là đêm đó gà chưa gáy sáng thì Phêrô đã chối Chúa ba lần. Nhưng chối xong và nhớ lại lời Chúa đã nói trước, Phêrô “ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (cf. Mt 26: 75, ; Lc 22: 62). Ông khóc vì ăn năn hối hận đã hèn nhát chối Thầy trước những kẻ bắt bớ và hành hạ Người cách tàn nhẫn. Chính vì thật sự thống hối ăn năn mà Chúa đã tha cho Phêrô tội công khai chối Chúa và còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21: 15-16).
Như thế đủ cho ta thấy là dù tội lỗi con người có nặng đến đâu, nhưng nếu biết sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa thì chắc chắn sẽ được tha thứ và nối lại tình thân với Người, sau khi đã lỡ sa ngã vì yêu đuối của nhân tính do hậu quả của tội nguyên tổ còn để lại.
3- Người gian phi sám hối (Lc 23 : 40-42)
Tin Mừng Luca kể rõ hai tên gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu, một đứa bên phải, một đứa bên trái, trong khi Matthêu nói đó là hai tên cướp ( Mt 27: 38). Chúng bị đóng đinh vì tội trôm cướp, và một trong hai tên gian phi này đã nhận biết tội của mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 42-43)
Như thế, chỉ có lòng ăn năn sám hội thực sự là đáng kể vì là điều đẹp lòng Chúa, và Người sẽ tha hết mọi tội lỗi cho những ai nhận biết mình có tội và xin Chúa thứ tha. Người gian phi sám hối hay còn được gọi là “kẻ trộm lành” đã vào Thiên Đàng bằng đường tắt nhanh chóng chỉ vì biết ăn năn sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa để xin tha thứ.
Người trộm lành này đã từng đi đàng tội lỗi không biết là bao nhiêu năm, nên bị đóng đanh vì những trọng tội mà xã hội Do Thái phải trừng phạt bằng cực hình đóng đanh. Nhưng Chúa đã tha thứ cho anh mọi tội, từ tội nguyên tổ cho đến mọi tội cá nhân anh đã phạm cho đến ngày bị đóng đanh chung với Chúa, là Người lành vô tội, nhưng đã cam lòng chiu khổ hình thập giá để đền thay cho nhân loại đáng phải phạt vì tội.
Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước “người trộm lành” bằng cách cứ sống tội lỗi rồi cuối cùng sám hối xin Chúa tha thứ để được vào Nước Trời. Ta chỉ có thể noi gương tốt của anh về lòng sám hối và tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để xin Người tha thứ mọi tội cho ta đã lỡ sa phạm vì yếu đuối của bản chất và vì ma quỉ cám dỗ. Nhưng ta không thể bắt chước anh ta làm những việc sai trái hay đối nghịch với tình thương, sự thánh thiện và công bằng của Chúa để chờ xin tha thứ vào phút chót. Không ai có thể biết ngày giờ nào mình phải ra đi, nên không thể liều mình sống trong tội chờ ngày sám hối được. Cố ý sống như vậy là lợi dụng lòng thương xót, tha thứ của Chúa. Và nếu ai cố ý liều lĩnh như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo nghiêm khắc sau đây:
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn đi, nhưng vì người hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3: 15-16)
Tóm lại, điều thiết yếu là ta phải cố gắng xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội là cản trở duy nhất cho ta sống đẹp lòng Chúa mỗi giây phút của đời mình trên trần thế này. Tuy nhiên, vì bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, nhất là vì ma quỉ luôn rình rập để lôi kéo ta vào vòng tội lỗi, nên cần thiết cho ta phải xin ơn Chúa giúp sức để có thể đứng vững, sống theo đường lỗi của Chúa để được an vui ngay trên đời này trước khi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Vua Yêu Thương và Vua Hòa Bình
Vua Yêu Thương và Vua Hòa Bình
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ (Ga 18, 33b-37)
Năm Phụng Vụ kết thúc với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, vì chung cuộc của tạo dựng và cứu độ, là muôn loài nhận biết và tôn thờ Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, nên Giáo hội long trọng cử hành lễ này với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Chúa chúng ta, là Vua Tình Yêu, Vua sự thật, là Alpha và Omêga, là khởi nguyên và là cùng đích (x. Kh 1,8).
Đã từ lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua ; Người đúng là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời “quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ” (Đn 7,14). Bởi vương quyền của Người từ Chúa Cha tự muôn đời, chứ không phải do người thế trao cho. Người cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là Vua Thiên Sai, đến nhằm mục đích làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai thuộc về sự thật và sẵn sàng vâng nghe Lời Người.
Chúa Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến với mình. Người là “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang…” (Ca nhập lễ).
Lễ Chúa Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ ” vua “, được áp dụng cho Chúa Giêsu khởi đi từ “Vua người Do thái”, dẫn đến tước hiệu “Vua của thế giới”, “Chúa của vũ trụ và lịch sử”, vượt qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục sinh của Người. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ.
Quyền bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì ? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế và những kẻ có thế lực ; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết. Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng : “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi lại ông : “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” (Ga 18, 35)
Khi thi hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô : “Nước tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân đội, không khí giáp.
Cung điện Người ở đâu ? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. “Vua không có cung điện” nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định, “Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý” (Ga 18, 37).
Vậy chúng ta theo ai : Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy lựa chọn mỗi người. Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta. Với Chúa, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và bình an.
Chúa là “Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!” Chúng ta phải thường xuyên lặp lại : Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là “Vua của một vương quốc huynh đệ!” Hãy là những người anh em yêu thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp : “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”(Ga 18, 36-37).
Chúng ta đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành và vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung đang đến… điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu : Vâng, Vua chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại “các thế lực của bóng tối” (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt… vì “những ngày là xấu xa! “(Ep 5, 16) và rằng “cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma quỷ”(1 Ga 5, 19).
Làm cho Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta… khi tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu hổ! (LG §31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng : “Hãy đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!” Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
2021
Tin sự sống đời sau
20 16 X Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Cần, Thầy giảng (U1837), Tử đạo.
1Mcb 6,1-13; Lc 20,27-40.
Tin sự sống đời sau
Nếu trong thời Cựu Ước, trước thảm hoạ bị rắn độc cắn chết, nhờ nhìn lên con rắn đồng mà dân Do Thái được cứu sống, tất nhiên được cứu sống đời này thôi, thì trong thời Tân Ước, nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô mà con người được sống và được sống đời đời. Bởi vì Đức Kitô có vị trí trỗi vượt: Ngài đến từ trời cao, đến từ cung lòng Chúa Cha (x. Ga 3, 31-32).
Hơn nữa, Ngài còn có vai trò hết sức đặc biệt: là trung gian duy nhất. Đấng trung gian ấy đã thực sự chiến thắng sự chết và đã phục sinh. Đây là dấu chứng đảm bảo cho sự sống đời đời, sự sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin vào Đức Kitô và dấn bước theo Ngài: “Ai tin vào Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16b).
Hai chữ “đời sau” là có ý muốn nói đến “sau cái chết”. Người ta tin rằng sau khi chết đi, mình vẫn còn sống theo một cách thức nào đó, chỉ có điều, sự sống ấy như thế nào, giống và khác với sự sống mà ta đang thụ hưởng ra sao, thì chẳng ai biết được cả. Dù không biết chính xác, nhưng trong tận thâm tâm, người ta tin là nó sẽ tuyệt vời hơn bây giờ rất nhiều, rằng “người đã chết” ấy hiện diện trong một trạng thái thuần linh, “người đó” có thể nhìn thấy chúng ta, nghe biết và chứng kiến mọi chuyện đang diễn ra trong thế giới này.
Thậm chí, người ta còn tin rằng, “người đã chết”, vì không còn bị kìm kẹp bởi vật chất nữa, nên “thần thông quảng đại” hơn, có thể làm được nhiều điều mà chúng ta không thể làm được. Đó là lý do vì sao chúng ta thường dành một sự cung kính cho người quá cố, chúng ta thắp cho họ nén hương, khấn vái, cầu khẩn… Nhiều người còn dâng cúng đồ ăn thức uống, trò chuyện với người đã khuất.
Vào thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, số người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như cuộc sống trước đó trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống đời vợ chồng, nhưng chỉ có sung sướng mà thôi; tuy nhiên, một số khác thì tin rằng cuộc sống sau cái chết là cuộc sống hoàn toàn biến đổi.
Còn nhóm Sađốc thì không tin vào cuộc sống đời sau: đối với họ, chết là hết; họ dựa trên luật Do thái buộc người em phải lấy chị dâu để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp bảy anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà và hỏi Chúa Giêsu: khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai?
Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống phục sinh hoàn toàn được biến đổi và không giống cuộc sống trên trần gian này như một số người Biệt phái tưởng nghĩ; do đó, mọi tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ được biến đổi và tan hòa trong tương quan tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như mang sắc thái và chiều kích của tình yêu ấy, vì thế, mọi cách diễn tả và biểu lộ trong các liên hệ cuộc sống trần gian khi đó không còn ý nghĩa nữa.
Chết là sự chắc chắn phải có. Tuy nhiên, chết không phải là hết. Tất cả các tôn giáo và các dân tộc đều tin rằng luôn có sự sống mới sau cái chết. Có lẽ chúng ta đã từng nghe và cũng từng nói những từ ngữ như: Từ trần, Qua đời, Băng hà, Đi rồi,… khi nói về một người chết
Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích sự việc sẽ xẩy ra thế nào và khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại, vì điều đó không quan trọng cho ơn cứu rỗi. Chẳng những có lời quả quyết của Chúa, chúng ta còn có một sự kiện cụ thể khác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, đó là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su đã trả lời cho mọi vấn nạn về cùng đích cuộc sống. Ngài đã chết và sống lại. NGài về trời và nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.
Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Điều đó mời gọi chúng ta đừng mải tranh dành danh lợi thú trần gian. Hãy sống cuộc đời có ý nghĩa, nhất là biết dành thời giờ chăm sóc, quan tâm tới những người thân của mình. Hãy sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình. Đừng đợi khi quỹ thời gian đã không còn mới sống đẹp thì đã muộn. Vì lúc đó, trí chẳng còn, sức cũng cạn!
Tin vào sự sống đời sau, ta được mời gọi để sống thanh cao, sống những giá trị vượt trên những tầm thường nhỏ nhen. Thật ra, ta đã có thể bắt đầu sự sống đời sau với nhiều hạnh phúc qua từng cái chết nho nhỏ nơi cuộc sống này: chết đi cho cái tôi ích kỷ, chết đi cho những kiêu ngạo, chết đi qua những hy sinh… Thật lạ kỳ: giá trị của cuộc sống hệ tại ở những cái chết như thế; càng chết đi, ta lại càng cảm thấy mình sống cách sung mãn hơn, và sự sống đời sau bắt đầu hình thành từ giây phút ấy.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin vào sự sống lại và kiên trì hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
2021
Thứ Bảy Tuần XXXIII – Mùa Thường Niên
Thứ Bảy Tuần XXXIII – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Gr 29,11.12.14
Chúa phán : “Ý định của Ta
là làm cho các ngươi được bình an
chứ không phải đau khổ.
Bấy giờ các ngươi cầu cứu Ta,
và Ta sẽ nhận lời,
Ta sẽ đưa các ngươi trở về
từ khắp chốn lưu đày.”
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, được phụng sự Chúa quả là một hạnh phúc tuyệt vời: xin cho chúng con tìm được niềm vui khi hết dạ trung thành với Chúa. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
Chính vì những hành vi tàn bạo tôi đã làm ở Giê-ru-sa-lem mà tôi phải chịu buồn phiền vô hạn.
Bài trích sách Ma-ca-bê quyển thứ nhất.
1 Hồi đó, vua An-ti-ô-khô rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba-tư có thành Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. 2 Đền thờ trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo giáp và vũ khí mà con vua Phi-líp-phê là A-lê-xan-đê đã để lại ; ông này là vua miền Ma-kê-đô-ni-a và là người đầu tiên cai trị nước Hy-lạp. 3 Vậy vua An-ti-ô-khô đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành, nhưng không thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. 4 Họ đứng lên giao chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Ba-by-lon, lòng buồn não ruột. 5 Bấy giờ vua đang ở Ba-tư. Có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân sang đất Giu-đa đã bị thảm bại : 6 Tướng Ly-xi-a chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh tan tành. 7 Họ đã triệt hạ Đồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu tại Giê-ru-sa-lem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh Thánh Điện giống như ngày xưa. Cả thành Bết Xua của vua, họ cũng xây như vậy. 8 Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. 9 Vua nằm liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt. Tưởng như ngày chết đã gần kề, 10 vua cho vời bạn hữu đến và nói : “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. 11 Tôi tự nhủ : Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này ? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao ! 12 Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, 13 tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn.”
Đáp ca
Tv 9,2-3.4 và 6.16 và 19 (Đ. x. c.15c)
Đ.Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát.
2Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm.
3Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa,
đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
Đ.Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát.
4Ngài xuất hiện, địch thù con tháo lui,
chúng té nhào mà chết.
6Ngài hăm doạ chư dân, tiêu diệt lũ gian tà,
tên tuổi chúng, cũng xoá đi vĩnh viễn.
Đ.Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát.
16Kìa chư dân sa vào hố chúng đào,
chân mắc lưới chính mình giăng sẵn.
19Nhưng người túng thiếu không mãi bị bỏ quên,
kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ.
Đ.Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát.
Tung hô Tin Mừng
- 2 Tm 1,10
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 20,27-40
Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
27 Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này : Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ?”
34 Đức Giê-su đáp : “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” 40 Thế là họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con thành kính dâng lên Chúa lễ vật này, xin vui lòng chấp nhận, và giúp chúng con trung thành phụng sự Chúa, để mai ngày đạt tới phúc trường sinh. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì lượng từ bi, Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Ðấng Cứu Chuộc đến với chúng con. Người vô tội mà Chúa muốn Người sống như chúng con, để Chúa yêu thương nơi chúng con/ điều Chúa quý mến nơi Con Chúa. Nhờ sự vâng phục của Người, chúng con được phục hồi để lãnh nhận những ơn Chúa mà chúng con đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Vì thế, lạy Chúa cùng với toàn thể Thiên thầnvà các thánh, chúng con tuyên xưng Chúa và hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 72,28
Hạnh phúc của tôi là ở kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành lễ tế tạ ơn để tưởng nhớ Ðức Kitô Con Chúa, như lời Người truyền dạy, và chúng con đã được rước Mình và Máu Thánh Người; cúi xin Chúa nhận lời chúng con khẩn nguyện và ban cho chúng con được thêm lòng yêu mến. Chúng con cầu xin …