2022
Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, giám mục
Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, giám mục
lễ nhớ bắt buộc
Ca nhập lễ
Ed 34,11.23-24
Chúa phán :
“Ta sẽ kiểm điểm đoàn chiên của Ta
và đặt một mục tử chăn dắt chúng.
Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và T i-tô, những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con khi còn ở đời này biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
2 Tm 1,1-8
Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh.
Khởi đầu thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.
1 Tôi là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, do ý muốn của Thiên Chúa, chiếu theo lời Thiên Chúa hứa ban sự sống vốn có trong Đức Ki-tô Giê-su, 2 gửi anh Ti-mô-thê, người con yêu dấu. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.
3 Tôi tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ tiên ; tôi tạ ơn Người khi tôi không ngừng nhắc nhớ đến anh, trong các lời cầu nguyện của tôi, đêm cũng như ngày. 4 Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui. 5 Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.
6 Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. 7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. 8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng thẹn vì tôi, người tù của Chúa ; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
Đáp ca
Tv 95,1-2a.7-8a.10 (Đ. x. c.3)
Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
2aHát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh !
Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.
7Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước,
dâng Chúa quyền lực và vinh quang,
8ahãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người.
Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.
10Hãy nói với chư dân : Chúa là Vua hiển trị,
Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay,
Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.
Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.
Tung hô Tin Mừng
Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 10,1-9
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
1 Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông :
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xin chấp nhận của lễ chúng con dâng để mừng kính thánh Ti-mô-thê và T i-tô. Ước gì hiến lễ chúng con dâng để tạ ơn Chúa vừa tuyên xưng Chúa uy nghi vinh hiển, vừa đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con,
Chúa cho Hội Thánh được hân hoan mừng lễ thánh Ti-mô-thê và T i-tô để nhờ gương sáng đời sống đạo đức của các ngài, Chúa củng cố Hội Thánh, nhờ lời giảng dạy, Chúa giáo huấn, và nhờ lời cầu khẩn đẹp lòng Chúa, Chúa giữ gìn Hội Thánh.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con luôn luôn hát ca chúc tụng Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Ga 15,16
Chúa nói :
“Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
để anh em ra đi, thu được kết quả,
và kết quả của anh em được lâu bền.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con hiệp thông vào bàn tiệc Thánh Thể. Xin cho chúng con nhờ đó đạt tới niềm vui bất tận với thánh Ti-mô-thê và T i-tô, người đã quản lý các mầu nhiệm cứu độ như tôi tớ trung thành. Chúng con cầu xin …
2022
Tản mạn về giọng đọc kinh Qui Nhơn
Tản mạn về giọng đọc kinh Qui Nhơn
Dẫn nhập: Tưởng như nghe chim hót
Một trong những điều ấn tượng nhất đối với giáo sĩ Đắc Lộ khi vừa cập bến Đàng Trong năm 1624 đó là tiếng nói, nhất là âm giọng của đồng bào ta, như ngài đã ngỡ ngàng nhận xét: nghe nói mà “như nghe chim hót”: “Chúng tôi khỏi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và mười chín ngày thì tới Đàng Trong. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông thạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu… Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được”[1].
Vâng, người Việt Nam chúng ta, Đất nước Việt Nam có nhiều điều đáng để tự hào; và một trong những điều đó chính là tiếng nói, chính là âm giọng cưu mang “một cái hồn đầy nhạc tính”, một “cái âm sắc rất riêng” làm nên chính con người Việt Nam, đất nước Việt Nam mà ca khúc “Đất Nước” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn đã thâm thúy khắc họa bằng những biểu tượng âm nhạc bàng bạc qua từng giai điệu:
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu…
Lao xao trưa hè một giọng ca dao
Lao xao trưa hè một giọng ca dao….
Xin hát về người đất nước ơi,
Xin hát về mẹ Tổ Quốc ơi, tảo tần chung thủy.
Như những câu hò lắng trong tiếng sáo,
Đêm lại dặt dìu tiếng mẹ ru con…
Và khi Đạo Chúa được tiếp nhận trên mảnh đất hình chữ S nầy, nhất là khi đã lan tỏa qua cả hai vùng Đàng Trong (1615) tới Đàng Ngoài (1627), thì ngôn ngữ Tin Mừng cũng mang “dáng đứng Việt Nam”, cũng được chuyển tải, diễn đạt, cử hành bằng cái “tiếng” nói mang đầy nhạc tính, bằng những âm giọng của “giọt đàn bầu”, của “giọng ca dao”, của “tiếng mẹ ru con”…; của một thứ tiếng nói với đầy đủ sáu âm giọng “sắc, hỏi, không, huyền ngã, nặng” dễ gì gặp được nơi các dân tộc khác; với ba âm sắc vui, thương, mừng diễn đạt ba chiều kích tâm lý, nội tâm cốt lỏi của mỗi một con người: bừng sáng tin yêu (vui), đau buồn khốn khó (thương); mừng rỡ hân hoan (mừng)…
Chắc chắn đã có không ít các nhà chuyên môn nghiên cứu về âm nhạc dân tộc, về ngôn ngữ học Việt Nam, về chữ Quốc ngữ…; riêng lãnh vực “lịch sử kinh nguyện Công Giáo” thì gần như chưa có một nghiên cứu chuyên đề nào xuất hiện. Trong giới nghiên cứu hiện nay, thì mới đây, năm 2004, có tác phẩm “Lời Kinh và Ý Nghĩa” của nữ tu Marie Thérèse Bùi Thị Minh Thùy, tập chú vào việc “giải nghĩa các từ cổ” trong Sách Kinh của các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội[2]. Riêng tại Đàng Trong-Qui Nhơn, có một tác giả linh mục, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu… được nhắc đến đó là cha Pierre Trần Lục, người đóng vai trò không nhỏ trong việc nhuận chính và soạn tác các kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn[3].
Ở đây, chỉ xin tản mạn một khía cạnh nhỏ về “giọng đọc kinh giáo phận Qui Nhơn” để: một phần nhắc nhở thế hệ cháu con thái độ “uống nước nhớ nguồn” khi trân trọng những nét đẹp của những lời kinh xưa mà cha ông đã soạn tác và biết bao thế hệ đã ứng dụng thực hành đức tin; một phần để vận dụng những giá trị tối ưu kho tàng đức tin phong phú đó vào lãnh vực kinh nguyện và phụng vụ của thời hôm nay như một ứng xử khôn ngoan mang tính “thừa thượng tiếp hạ”.
- ĐÀNG TRONG – QUI NHƠN MỘT THỜI MỞ CÕI
- Cội nguồn Quốc ngữ và kinh nguyện Qui Nhơn
Có một điều không thể chối cải là trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ đã dần dần được thuyết phục chấp nhận địa chỉ Nước Mặn thuộc giáo phận Qui Nhơn hiện nay chính là “một trong những “cái nôi hình thành chữ Quốc ngữ”; và được coi là “cái nôi sớm nhất”[4]. Thật vậy, theo báo cáo của các linh mục thừa sai Dòng Tên thì cư sở Nước Mặn chính là “cư sở chính thức đầu tiên” của Dòng Tên được thiết lập ngay từ năm 1618[5]; nghĩa là sau 3 năm lần đầu tiên đặt chân lên vùng đất Đàng Trong. Và đây cũng là ngôi trường đầu tiên đã được các thừa sai thiết lập để học và nghiên cứu tiếng Việt mà các “học viên” nơi “ngôi trường làng đặc biệt” đó, sau nầy đều là những tên tuổi lừng danh góp phần vào việc hình thành chữ Quốc ngữ trong giai đoạn nền móng ban đầu hay phát triển nền văn hóa Hán Nôm: Buzomi, Cristofo Borri, Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, Gaspar Luis, Antonio de Fontes , Emmanuel Borges, Giovanni di Leira, Gaspar Luis, Girolamo Majorica …[6].
Phải chăng vì yếu tố “địa phương” nầy mà “phương ngữ Qui Nhơn-Bình Định hay “Bình Định-Phú Yên” đã chiếm một vị trí nhất định trong các tác phẩm tự vị Quốc ngữ đầu tiên như Tự điển Việt-Bồ-La của cha Đắc Lộ (1951), tự điển Anamitico-Latinum của Đức Cha Bá Đa Lộc (1773), tự điển Anamitico-Latinum (1838) của Đức cha Tabert[7].
- Khái quát về Kinh nguyện Qui Nhơn và cung giọng Qui Nhơn
2.1. Kinh nguyện Qui Nhơn và địa bàn mục vụ:
Kể từ năm 1850, với sắc lệnh Postulat Apostolici của Đức Giáo Hoàng Pio IX ban hành ngày 27.8.1850, giáo phận Đông Đàng Trong (Cho tới năm 1924 Tòa Thánh đổi tên thành giáo phận Qui Nhơn) bao gồm 6 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và vùng Tây nguyên[8]. Nếu xét về mặc ngữ âm, có thể nói dân của miền 6 tỉnh nầy tương đối gần nhau; tuy rằng cách phát âm có một số dị biệt (chẳng hạn cách phát phát âm của dân Quảng Nam và Quảng Ngãi). Chính vì yếu tố mang tính “địa bàn mục vụ” nầy mà hệ thống kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn đã chi phối trên các cộng đoàn giáo xứ từ Quảng Nam tới Bình Thuận và suốt mấy tỉnh Tây nguyên[9]. Bằng chứng cụ thể của sự “thống nhất kinh nguyện” nầy chính là hai cuốn sách Kinh: Sách Kinh nguyện ngày thường và ngày Chúa Nhật (1925) và Sách Mục Lục (1931) được in tại nhà in Làng Sông và phổ biến trên toàn giáo phận[10].
Lịch sử cho thấy, vùng đất Qui Nhơn từ thế kỷ 15, đúng hơn từ năm 1471 trở về trước, là lãnh địa của người Champa; và sau “chiến dịch Đồ Bàn 1471 của vua Lê Thánh Tôn”[11] mới thuộc Đại Việt. Phải chăng vì thế mà ngữ âm của người dân thuộc miền nầy là sự pha trộn nhất định của dân Champa bản địa và lưu dân Đại Việt từ Bắc vào. Chính sự “lai tạp ngôn ngữ” mang tính chiến tranh, di dân trôi nổi và phiêu lưu đi tìm đất mới, đã khiến tiếng nói của dân “miền Trung và Nam Trung bộ” nầy mang âm sắc thoải mái, giản đơn, không cầu kỳ nghi lễ. Chính vì thế, tiếng của vùng nầy chỉ có “5 dấu: sắc, hỏi, không, huyền, nặng; mà không có dấu “ngã” như người dân Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, nhờ nền tảng “Quốc ngữ Latin” được phổ biến sớm từ trung tâm Nước Mặn nên các vị tiền nhân đã soạn tác Kinh nguyện bằng chữ Quốc ngữ khá sớm và cũng khá chuẩn. Xin nhường việc phân tích mang tính chuyên đề về ngữ học cho các nhà chuyên môn. Ở đây, chỉ xin dừng lại một cách khái quát về ba cung giọng chính trong các kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn. Đó là ba cung giọng Vui, Thương, Mừng.
2.2. Kinh nguyện, phụng vụ và mầu nhiệm đức tin:
Kinh nguyện của Hội Thánh Công Giáo thường chuyên chở hai ý nghĩa: một là: Kinh để biểu lộ đức tin như một lời tuyên tín, như một ghi khắc các chân lý, các tín điều… (Có người đặt tên cho loại kinh nầy là “Kinh Bổn”) như kinh Tin Kính, Kinh Tin, Cậy, Mến, Kinh Ngày Chúa Nhật…; hai là: Kinh để bày tỏ tâm tình cầu nguyện với Chúa, thân thưa nguyện xin, cảm tạ, tôn vinh (Người ta đặt tên cho loại kinh nguyện nầy là “Kinh Nguyện”). Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Ăn năn tội, kinh Cảm ơn… Cùng với hai ý nghĩa trọng tâm “mang tính chủ đích” đó, các kinh nguyện hầu hết là để nhắc nhớ các mầu nhiệm đức tin: Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, mầu nhiệm Ngôi hai chịu chết và sống lại, mầu nhiệm Đức Mẹ, Các Thánh, các mùa Phụng vụ, Bí tích Thánh Thể, Thánh Tâm Chúa Giêsu, Cầu hồn…; hay các dịp đặc biệt và các nhu cầu trong Hội Thánh: Kinh Năm Toàn Xá, Kinh cầu mùa…
Hội Thánh với kho tàng kinh nguyện phong phú suốt 2000 năm đã lưu truyền rất nhiều kinh nguyện truyền thống từ đời nầy qua đời khác như những “di chúc tinh thần” cao quý. Cha ông chúng ta, từ khi các thừa sai mang hạt giống Tin Mừng vào mảnh đất “hình chữ S” nầy, đã dần dần được tiếp cận với kho tàng kinh nguyện truyền thống của Mẹ Giáo Hội, hoặc bằng các bản dịch Hán Nôm, nhất là sau nầy, bằng chữ Quốc ngữ, hoặc được chính các ngài soạn tác.
Có một điều thật may mắn đó chính là khi chân lý đức tin hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam đã mang lấy những đặc tính độc đáo của người Việt; trong đó, ngôn ngữ, giọng nói chính là yếu tố quan trọng. Vâng, tiếng Việt chuyển tải ý nghĩa các mầu nhiệm đức tin không chỉ bằng “mặt chữ” mà còn bằng âm giọng; vận dụng âm giọng của tiếng Việt để soạn, dịch kinh đó chính là một lựa chọn đầy thông minh và hợp lý của cha ông chúng ta.
- VUI, THƯƠNG, MỪNG VÀ MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
Trong kiến thức hạn chế về lãnh vực âm nhạc, tôi láng máng hiểu rằng, trong kết cấu âm giai (gamme) hay điệu thức (mode) của hệ thống âm nhạc thế giới (cả hệ thống Thất cung – Heptatonic lẫn hệ thống Ngũ cung – Pentatonic), thức “trưởng” (Majeur) hay “thứ” (Mineur) chính là tố chất định hình nền tảng của mỗi giai điệu hay của cả bài ca, khúc nhạc.
Thông thường, một bài ca, khúc nhạc được kết cấu, xây dựng và phát triển trên cái nền điệu thức trưởng thì đều mang âm sắc vui tươi, trong sang, hoan hỉ vui mừng… Trong khi đó, đa phần, các bài ca, khúc nhạc được viết trên nền điệu thức thứ thường mang âm sắc man mác buồn, day dứt… Dĩ nhiên, vẫn có những “ngoại lệ”.
Chung chung, kinh nguyện thuộc giáo phận Qui Nhơn (ít ra, kể từ năm 1924), gần như cũng phản ảnh quy luật nền tảng đó. Các kinh nguyện liên quan đến các mầu nhiệm mang chiều kích vui (Giáng Sinh, Nhập Thể…) hay mừng (Phục Sinh, Thăng Thiên…) thì được cha ông ta soạn tác với các ngữ âm trên nền nhạc điệu thức trưởng (majeur) theo kết cấu của âm nhạc (thất cung hay ngũ cung); một cái “chất trưởng” với kết cấu âm giai và cung thể cao, bừng sáng, tươi tắn, vươn cao hay tỏa sáng với niềm vui thánh thiện, mừng vui tôn quý… Trong khi đó, mầu nhiệm Thương Khó, Khổ nạn…, hay những gì liên quan đến sám hối, hy sinh, chết chóc, đau khổ… thì kinh nguyện chọn lựa điệu thức thứ (mineur) với âm sắc buồn, trầm lắng, day dứt. Rất tiếc, thế hệ giáo dân Qui Nhơn trẻ hôm nay, gần như xa lạ hoặc không biết gì về cung giọng kinh nguyện truyền thống của bao thế hệ cha ông. Họ đọc kinh Truyền Tin, lần hạt Năm sự Vui, Thương, Mừng ngang ngang như nhau; chẳng phân biệt thế nào là “vui”, thế nào là “thương”, thế nào là “mừng”…
Sau đây, xin mạo muội trình bày đôi nét về những nét độc đáo của các cung giọng Vui, Thương, Mừng và một số các cung giọng đặc biệt của làng kinh nguyện Qui Nhơn.
- Kinh nguyện “mùa Vui”:
Sau đây, xin đơn cử hai kinh nguyện thuộc cung vui: Kinh suy niệm Mân Côi gẫm tắt Năm Sự Vui (Rê trưởng) và kinh kính nhớ mầu nhiệm Nhập thể -Giáng Sinh Truyền Tin (Si giáng trưởng):
Khi đọc kinh Truyền Tin và suy niệm mầu nhiệm Năm Sự Vui với đúng cung giọng “vui” như cha ông ta đã soạn tác và bao thế hệ tín hữu Qui Nhơn đã thực hành qua bao năm tháng, chúng ta sẽ cảm nhận được chiều kích bừng sáng tin yêu của mầu nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh, của sứ điệp “Tin Mừng vĩ đại” mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thành Bê lem (Lc 2,8-14), của niềm vui rạng rỡ thánh thiện trong tâm hồn và trên môi miệng của Mẹ Maria, của bà thánh Isave, mà kinh Magnificat mãi mãi là một chứng từ đi cùng năm tháng !
Có rất nhiều kinh khác có thể xếp vào nhóm “vui” nầy; và cũng được soạn tác ngữ âm trên nền điệu thức trưởng; chẳng hạn như kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính, các kinh Tin, Cậy, Mến; kinh cầu Đức Mẹ, kinh Linh hồn tôi tán tụng (Magnificat), kinh Thân lạy ông Thánh Giuse… Những ai là giáo dân Qui Nhơn thuộc thế hệ “U Tám mươi” trở về trước, nhất là thuộc các giáo xứ truyền thống, thuần dân địa phương…, hầu chắc còn đọc đúng cung giọng “vui” khi thể hiện các kinh nguyện nầy.
- Kinh nguyện “Mùa Thương”.
2.1. Giọng thương và điệu thức “thứ” phổ thông:
Trong hệ thống “Ngủ Cung” của nhạc cố Trung Hoa hay Việt Nam, căn bản gồm các cung giọng: CUNG, THƯƠNG, GIỐC, CHỦY, VŨ (tương ứng: ĐÔ, RÊ, FA, SOL, LA). Trong đó, cung “Thương” có đặc tính âm điệu: “thuộc Kim, u buồn nặng nề, không bị bẻ cong. Loại âm nhạc này ảnh hưởng phổi (phế) nếu nghe thường xuyên thì người ta sẽ trở nên chân chính và thân thiện…”[12].
Phải chăng cha ông ta khi soạn hoặc dịch kinh nguyện sang Quốc ngữ sẽ chọn cung THƯƠNG để chuyển tải ý nghĩa liên quan đến mầu nhiệm Thương Khó, Khổ nạn, tâm tình thống hối ăn năn hay những dịp đau buồn tang chế. Để diễn tả âm sắc buồn của cung “Thương” không gì thích hợp với nền nhạc Tây phương cho bằng âm giai mang điệu thức thứ (mineur).
Sau đây xin đan cử hai Kinh “Năm sự Thương” và kinh “Ăn năn tội” với âm giai điệu thức thứ (La mineur).
Riêng kinh “Ca vịnh 129 vua Đa-vít”, một giọng “Thương” tiêu biểu lại được xây dựng trên nền cung FA thứ”
2.2. Những giọng kinh thương đặc biệt:
Những kinh giọng “Thương” phổ thông theo điệu thức thứ như phân tích ở trên trong sách Mục Lục Qui Nhơn thì nhiều lắm; nhất là những kinh đọc trong Mùa Chay và Mùa Thương Khó; nói chung, những kinh liên quan đến mầu nhiệm Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô như: Kinh Gẫm Đàng Thánh giá, kinh Mười Lăm sự Thương Khó, Kinh Bảy sự thương khó Đức Mẹ, Kinh Năm Dấu Thánh…
Tuy nhiên, có những kinh giọng thương đặc biệt và thường là được thể hiện trong những thời điểm phụng vụ đặc biệt, như Mùa Chay, Tuần Thánh.
2.2.1. Mùa Chay với kinh Hồng Ân:
Kinh “HỒNG ÂN” là một kinh với giọng “thương” độc đáo được đọc khi phụng vụ bước vào Mùa Chay Thánh; đây có thể nói được là cả một “bài ca đi cùng năm tháng” trong sinh hoạt đức tin của Dân Chúa. Riêng cách thể hiện kinh nầy cũng độc đáo: vừa đồng diễn (phần đầu dành cho toàn thể cộng đoàn) vừa xướng đáp (phần giữa một người xướng và cộng đoàn đáp), phần cuối cộng đoàn chung nguyện. Về âm giọng thì kinh Hồng Ân mang một âm sắc rất riêng; gần như có sự pha trộn giữa chất dân ca Huế vừa phảng phất chất dân ca bài chòi Nam Trung Bộ nhưng được cải biên theo giọng kinh cung thương của nhà đạo.
Xin giới thiệu Kinh Hồng Ân được xây dựng trên nền cung MI THỨ với ba đoạn: Đoạn đầu cả cộng đoàn đọc chung; đoạn giữa một người xướng và cộng đoàn đáp câu chung (theo cách xướng đáp của lời nguyện tín hữu); và đoạn cuối là lời nguyện kết dành cho cả cộng đoàn. Nền nhạc của đoàn đầu và đoạn giữa giống nhau; và là cung giọng đặc biệt của kinh Hồng Ân. Đoạn cuối trở về giọng thương phổ thông như đã phân tích ở trên và được xây dựng trên nền cung LA THỨ.
2.2.2. Tuần Thánh và Kinh Lễ Đèn:
Trong Phụng vụ của Hội Thánh, nếu thời gian “Tuần Thánh” là tuần cao điểm của Năm Phụng vụ, là thời gian đỉnh điểm của việc cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua[13], thì ngoài các cử hành Phụng vụ truyền thống đầy trang trọng, nhất là cử hành Tam Nhật Thánh, tuần lễ nầy còn được ghi đậm dấu ấn của lòng đạo đức bình dân thông qua những cử hành suy niệm đặc biệt, trong đó có việc cộng đoàn họp nhau tại nhà thờ để “Suy gẫm Mười Lăm Sự Thương Khó” mà giáo phận Qui Nhơn gọi là giờ “Kinh Lễ Đèn”[14].
Việc “than Kinh Lễ Đèn” của giáo phận Qui Nhơn xem ra đơn giản hơn các giáo phận vùng phía Bắc, xét về mặt cung giọng kinh sách và cách thế thể hiện.
Ỏ đây, xin đơn cử giọng kinh Lễ Đèn với hai giọng tiêu biểu: Giọng kinh gợi nhớ hay “kể” lại “sự kiện” Mười Lăm sự Thương Khó (gọi chung là “cung kể”) và giọng kinh suy niệm mang tính chủ quan, cá nhân sau khi đọc các gợi ý suy niệm Sự Thương Khó (gọi chung là “cung than”).
Giọng “cung kể” thì đọc chậm rãi theo cung “thương” phổ thông trên nền tảng cung thể La Thứ. Các phân câu, mệnh đề cần được phân biệt rõ rang, mạch lạc qua “dấu nghỉ”.
Xin đan cử một đoạn “kinh kể” tiêu biểu:
Trong khi đó kinh “cung than” sau phần lược kể Tin Mừng lại mang tính “tự sự”, than than trách phận, sám hối tội lỗi và thái độ khuất phục trước uy linh Chúa để trông cậy vào lòng Chúa khoan dung. Cung than tương đối khó và ngày nay, chỉ các bậc cao niên, từng được trui rèn trong cái nôi truyền thống cố cựu của Qui Nhơn mới may ra còn than đúng cách. Ở đây, chỉ mạo muội ghi lại cách đan thanh một đoạn tiêu biểu của “kinh than ngày Lễ Đèn nhứt” trên nền cung thể RÊ THỨ (chủ yếu ngũ cung):
Kinh giọng thương còn rất nhiều thể thức đa dạng khác. Đây chỉ là một vài gợi ý để những ai chuyên môn và có kinh nghiệm về cung giọng kinh Qui Nhơn sẽ bổ túc thêm.
- Kinh nguyện mùa “Mừng”:
Trong nhịp sống đức tin của Giáo Hội Công Giáo, chiều kích “mừng vui hoan hỉ” luôn chiếm một vị trí ưu tiên; đến đổi vị Tôi Tớ Chúa, Đức cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận, đã từng phát biểu: “Trong tự điển của người Công Giáo không có từ “buồn” ! Và khi nói đến “mừng vui” thì phải nhắc đến hai từ “Phục Sinh”; lễ Phục Sinh là đại lễ của vui mừng và “nỗi mừng Phục Sinh” là nỗi mừng trọn hảo nhất mà bài ca “Exultet” (Mừng Vui Lên) vang lên trong nghi thức khai mạc Đêm Vọng Phục Sinh là một chứng từ rõ nét !
Ngoài những kinh nguyện thuộc giọng “Vui” và “Thương” như chúng ta vừa đề cập đến, kinh nguyện Qui Nhơn còn một giọng thứ ba cũng độc đáo không kém; đó là kinh nguyện với cung giọng “Mừng”, một cung giọng diễn tả đầy ắp cái chất “Phục sinh” mà Phụng vụ cũng như mọi linh đạo của Hội Thánh luôn đề cao như là “hòn đá tảng” của đức tin Kitô.
Như đã nói ngay từ đầu, âm nhạc Tây phương lẫn Đông phương luôn mặc nhiên coi âm giai với điệu thức “Trưởng” là cái nền để xây dựng âm sắc mang chiều vui mừng, hoan hỉ.
Xin được đan cử hai kinh nguyện tiêu biểu mang cung “Mừng” đó là Kinh “Lạy Nữ Vương Thiên đàng” và kinh mầu nhiệm Mân Côi gẫm tắt Năm sự mừng được soạn tác theo điệu thức trưởng của âm giai ngũ cung: ĐÔ RÊ MI SOL LA ĐÔ…
Đại khái kinh giọng “Mừng” là như thế; và có rất nhiều kinh được xây dựng trên nền âm sắc mừng đó như các kinh thuộc mùa Phục Sinh, Kinh cầu Đức Bà, kinh Thân lạy Thánh Giuse, Kinh Nghĩa Đức Tin, Mười Điều răn, Sáu điều răn Hội Thánh… Có thể được thay đổi về luyến láy, nhấn nhả…, nhưng cái “chất mừng” căn bản âm vang na ná nhau.
- Những kinh giọng đặc biệt:
Ngoài ba giọng kinh “Vui, Thương, Mừng” cơ bản đó, các kinh nguyện thuộc địa phận Qui Nhơn còn nhiều thể loại tế vi khác mà khả năng hạn chế về “âm học”, “ngữ học” hay “nhạc lý” không cho phép được giải thích nhiều hơn. Nhưng, đặc biệt, không thể không nhắc đến các loại “Kinh Chầu”; tức những kinh tập trung hướng về một “đối tượng thánh” để giúp cộng đoàn khi đọc lên là để nuôi giữ tâm tình suy niệm, cầu nguyện sốt sắng. Trong số đó có những kinh về Chúa như Kinh “Lễ Đức Chúa Giêsu Thăng Thiên”, kinh “Kính Nguyện Chúa Thánh Thần”, các kinh Chầu Giờ Thánh hay Phép lành: Kinh “Ớ lưỡi phải ngợi khen”, “Ớ Núi thánh Sion”, Kinh Phạt Tạ, kinh Đền tạ Thánh Tâm…
Đặc biệt, những kinh loại nầy, khi đọc có thêm âm nhấn nhá “ớ” nhịp đều sau từng tiếng, hơi giống cách nhấn nhá của cách tụng kinh nhà Phật theo giọng gõ mõ !
Xin đan cử một đoạn trong kinh “Kính nguyện Đức Chúa Thánh Thần” như một giọng tiêu biểu của cung kinh đặc biệt này:
Kết: Kinh nguyện và đức tin truyền thống
Dĩ nhiên, ngoài chất giọng, âm sắc sẵn có của tiếng Việt, các tác giả soạn kinh, dịch kinh chắc chắn phải nắm vững quy luật ngữ âm, chọn lựa thanh điệu phù hợp trong kết cấu câu chữ để lời kinh vừa phù hợp ý nghĩa mầu nhiệm diễn tả vừa ăn khớp với ngữ âm thể hiện. Quả thật, kho tàng kinh nguyện mà chúng ta được thừa hưởng từ công khó và tài hoa của cha ông thật là vĩ đại. Cảm ơn các ngài đã để lại cho chúng ta kho tàng kinh nguyện vô giá.
Điều còn lại đó là chúng ta trân trọng và biết sử dụng đúng cách, đúng bài gia tài thiêng liêng cao quý nầy. Nói nôm na, đó là cần đọc kinh cho đúng cung, đúng giọng. Những kinh thuộc “Mùa Vui” mà đọc theo giọng “Thương khó” thì ai chịu cho được. Cũng vậy, ở giữa Tuần Thánh, khi gẫm đàng Thánh Giá mà lại đọc giọng vui sang sảng thì chỉ để “tấu hài” chứ suy niệm gì nỗi ! Riêng, mầu nhiệm Phục Sinh, niềm vui Chúa sống lại phải được lan tỏa, tràn ngập cuộc sống của người Kitô hữu; không phải qua quất cho xong, mà phải thấm nhuần trong từng lời kinh câu hát mỗi ngày.
Chính vì thế, khi mỗi người, mỗi cộng đoàn cùng ý thức vẽ đẹp và ý nghĩa của từng lời kinh và đọc suy niệm theo đúng cung giọng, chắc chắn sẽ là cách diễn tả đức tin truyền thống đẹp nhất, căn bản nhất; và cũng là cách thế để chúng ta sống mầu nhiệm cứu độ, mầu nhiệm đức tin cách trọn hảo.
Trương Đình Hiền (Viết xong ngày 20 tháng Chạp Tân Sửu)
[1] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, nxb Hồng Đức 2020, tr. 84-85.
[2] NT. MARIE THERESE BÙI THỊ MINH THÙY, OP, Lời kinh & Ý nghĩa, Giải thích các từ cổ trong các kinh, nxb An Tôn & Đuốc sáng 2004, Lời nói đầu, tr. 9.
[3] CHÂU YẾN LOAN, Chữ Quốc ngữ năm 1906 ở Bình Định qua tác phẩm Ấu học của Pierre Lục, Kỷ yếu hội thảo, nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 476: Pierre Trần Lục là một Linh mục, nhà Giáo dục, nhà Văn thời chữ Quốc ngữ mới phổ biến đầu thế kỷ XX. Ông ra đời năm 1868 tại thôn Tùng Sơn, địa phận Phú Thượng, xã Hòa Sơn, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 13km. Thuở nhỏ ông rất thông minh, lanh lợi nên năm 13 tuổi được vào học trường La Tinh tại Làng Sông – Qui Nhơn. Năm 1885, trường Làng Sông bị phong trào Văn Thân phá hủy, ông được chọn gởi sang học ở Pinang. Năm 1889 ông trở về Việt Nam đi giảng đạo tại Phan Rang, dạy tiếng tại Phan Thiết. Năm 1892 về học Lý đoán tại Làng Sông. Năm 1898 được phong Linh mục. Năm 1904 ông làm việc tại nhà in Làng Sông đến năm 1906. Tại đây ông đã viết sách Ấu học, Trung học. Năm 1911-1914 trở vô Làng Sông dạy Quốc văn và giúp việc cho tòa Giám mục. Ông mất khuya ngày 23/12/1927 tại bệnh viện Qui Nhơn, an táng tại Làng Sông. Linh mục Pierre Trần Lục là người thông minh, cương trực, có tài văn chương, giàu lòng thương người. Ông còn để lại các sách: Ấu học, Trung học, Thánh giáo tự lễ, tiểu thuyết Song nghĩa tự, Đồ của Hời, Hai chị em lưu lạc, cùng nhiều sách nhỏ về đạo lý luân thường, ông đã đặt nhiều kinh văn dễ đọc, dễ hát trong những ngày lễ”. website https://vannghedanang.org.vn/pierre-tran-luc-nguoi-da-nang-viet-sach-giao-duc-bang-chuquoc-ngu-dau-tien-cua-nuoc-ta-chau-yen-loan-6231.html, đăng ngày 8.7.2016.
[4] GS. PHAN HUY LÊ, Tổng kết hội thảo khoa học “Bình Định với chữ Quốc ngữ”, Kỷ yếu hội thảo, sđd, tr. 717: “Trên quan niệm như vậy, tôi nghĩ rằng trong buổi đầu, nhiều giáo sĩ Dòng Tên, đi tiên phong là người Bồ, người Ý, đã tham gia vào quá trình Latin hóa chữ viết của người Việt, để lại những chữ Quốc ngữ đầu tiên. Ba trung tâm đã góp phần vào quá trình này là Nước Mặn, Hội An, Dinh Chiêm với tên tuổi của Cristoforo Borri, Francisco de Pina trong những năm 1618-1623 rồi tiếp theo là Alexandre de Rhodes, Gaspar Luis, Antonio de Fontes những năm 1625-1626. Có thể coi đó là ba dòng suối đầu tiên tạo nên dòng sông chữ Quốc ngữ. Nếu xem xét sâu hơn về những chứng cứ văn bản có chữ Quốc ngữ thì trong ba trung tâm đó, trung tâm Nước Mặn có phần sớm hơn với sự hiện diện của chữ Quốc ngữ trong cuốn sách của Borri năm viết 1621 và xuất bản lần đầu năm 1631…”.
[5] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017, tr. 48-55.
[6] GS. PHAN HUY LÊ, sđd, tr. 616: “Nước Mặn cũng là trung tâm học tiếng Việt hình thành rất sơm ở Đàng Trong. Năm 1622 giáo sĩ Emmanuel Borges, Giovanni di Leira, rồi năm 1624, giáo sĩ Gaspar Luis, Girolamo Majorica đều đến Nước Mặn học tiếng Việt”.
[7] TS. NGUYỄN NGỌC OANH, PGS, TS. NGUYỄN CÔNG ĐỨC, Một vài chỉ dấu của phương ngữ Bình Định – Nam Trung bộ trong tự điển Việt –Bồ – La của Alexander de Rhodes, Kỷ yếu hội thảo, sđd, tr. 467-474.
[8] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 210.
[9] Hai giáo phận “Tây Đàng Trong” và “Bắc Đàng Trong” vì cùng xuất phát từ giáo phận Đàng Trong nên kinh sách của hai giáo phận nầy (và của các giáo phận sau nầy tách ra từ đó) cũng có nhiều điểm tương đồng với giáo phận Qui Nhơn.
[10] PHAOLÔ NGUYỄN MINH CHÍNH, Sách Nhà in Làng Sông Qui Nhơn, website Giáo phận Qui Nhơn, link: Sách Nhà in Làng Sông và Qui Nhơn (gpquinhon.org), đăng ngày 17/7/2021.
[12] BIÊN KHẢO: GIÒNG BÁCH VIỆT, Ngũ cung Việt nam trong hệ thống nhạc lý, website Microsoft Word – Tìm Hiểu về Ngũ Cung VN.doc (wordpress.com).
[13] SÁCH LỄ RÔMA: “Tam Nhật Vượt Qua kính nhớ Chúa chịu nạn và Sống lại là điểm cao chói lọi của Năm Phụng Vụ”.
[14] SÁCH KINH LỚN ĐỊA PHẬN QUI NHƠN, Năm 1958, Phép lần hột ba ngày lễ Đèn, tr. 262.
2022
Xin cho biết tiêu chuẩn chọn Bài đọc cho lễ một vị Thánh
Xin cho biết tiêu chuẩn chọn Bài đọc cho lễ một vị Thánh
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Đâu là phương pháp của việc chọn các bài đọc Thánh lễ cho các ngày trong tuần và cuối tuần? Liệu là đúng để sử dụng các bài đọc trong Sách Bài Đọc, được thiết lập cho ngày lễ một vị thánh, hoặc chỉ dùng các bài đọc tiêu biểu cho ngày lễ? Nghĩa là, liệu các bài đọc dành cho lễ thánh Maria Goretti (5-7) được sử dụng, chẳng hạn, thay vì dùng bài đọc của ngày thứ Hai của tuần thứ 14 Mùa Thường Niên, nếu Sách Lịch không liệt kê các bài đọc riêng cho lễ vị Thánh? Tôi nghe một chủng sinh nói rằng chỉ có các bài đọc “được duyệt” trong Sách Lịch mới có thể được sử dụng trong Thánh Lễ vào một ngày cụ thể, và rằng bởi vì chúng đi theo trật tự mỗi ngày, hoặc vì một chủ đề đặc biệt, chúng không thể thay đổi với các bài đọc của một ngày lễ vị Thánh, và rằng một Sách Bài Đọc mới hơn có thể không còn có các bài đọc đặc biệt cho ngày lễ một vị Thánh nữa. – T. G., Hartford, Connecticut, Mỹ.
Đáp: Đối với bài đọc ngày thường trong năm, có một nguyên tắc chung về việc đọc liên tục Kinh Thánh, vốn cho phép một số trường hợp ngoại lệ. Mục đích chung của sự sắp xếp này được giải thích trong tài liệu Dẫn nhập Sách Bài Đọc:
“60. Thứ tự hiện tại của các bài đọc cho Thánh Lễ là một sự sắp xếp các bài đọc Kinh Thánh, vốn cung cấp cho các tín hữu một kiến thức của toàn bộ lời Chúa, trong một mô hình phù hợp với mục đích. Trong suốt năm phụng vụ, nhưng nhất là trong mùa Phục Sinh, Mùa Chay, và Mùa Vọng, sự lựa chọn và thứ tự của các bài đọc là nhằm giúp các tín hữu của Đức Kitô một nhận thức ngày càng sâu hơn của đức tin, mà họ tuyên xưng và của lịch sử cứu độ. Theo đó, thứ tự của các bài đọc tương ứng với các yêu cầu và lợi ích của Kitô hữu”.
Về việc sắp xếp các bài đọc cho các ngày trong tuần và lễ các thánh, tài liệu này tiếp tục nói:
“69. Các bài đọc ngày trong tuần đã được sắp xếp theo cách sau đây.
“1. Mỗi Thánh Lễ có hai bài đọc: bài đọc thứ nhất là lấy từ Cựu Ước hay từ một vị Tông Đồ (nghĩa là, hoặc từ một thư hoặc từ Sách Khải Huyền), và trong mùa Phục Sinh, từ sách Công Vụ Tông Đồ; bài đọc thứ hai lấy từ các sách Tin Mừng.
“2. Chu kỳ hàng năm cho Mùa Chay có các nguyên tắc sắp xếp riêng, vốn có tính đến đặc điểm phép rửa và thống hối của mùa này.
“3. Chu kỳ cho các ngày trong tuần của Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, và mùa Phục Sinh, cũng là hàng năm, và do đó các bài đọc vẫn như nhau mỗi năm.
“4. Đối với ba mươi bốn tuần của Mùa Thường Niên, các bài đọc Tin Mừng ngày thường được sắp xếp trong một chu trình đơn giản, được lặp lại mỗi năm. Tuy nhiên, bài đọc thứ nhất được sắp xếp trong một chu kỳ hai năm, và do đó được đọc mỗi hai năm một lần. Năm I được sử dụng trong các năm lẻ; và Năm II, trong các năm chẵn.
“Giống như thứ tự cho các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ, thứ tự các bài đọc ngày trong tuần được qui định bởi sự áp dụng tương tự của các nguyên tắc về sự hài hòa và việc đọc bán liên tục, đặc biệt là trong trường hợp của các mùa với đặc tính riêng của mùa.
“70. Hai loạt các bài đọc được cung cấp cho Thánh lễ các Thánh.
“1. Phần Riêng của các Thánh cung cấp loạt bài đầu tiên, cho lễ trọng, lễ kính, hoặc lễ nhớ, và đặc biệt khi có các bản văn thích hợp cho lễ này hoặc lễ kia. Tuy nhiên, đôi khi trong phần Riêng, có một quy chiếu đến bản văn thích hợp nhất trong phần Chung, như là bản văn được ưu tiên.
“2. Phần Chung của các Thánh cung cấp loạt thứ hai và mở rộng hơn của các bài đọc. Trước tiên, có các bài thích hợp cho các nhóm khác nhau của các thánh (tử đạo, mục tử, trinh nữ, …), sau đó có nhiều bản văn bàn về sự thánh thiện nói chung. Chúng có thể được tự do lựa chọn, bất cứ khi nào phần Chung được chỉ định như là nguồn cho sự lựa chọn các bài đọc.
“71. Như là trình tự của chúng, tất cả các bản văn trong phần này của thứ tự các bài đọc xuất hiện theo thứ tự, mà chúng được đọc trong Thánh Lễ. Vì thế các bản văn Cựu Ước được đọc trước, rồi đến thư các Tông đồ, sau đó là Thánh vịnh và câu đáp giữa các bài đọc, và cuối cùng là các bản văn từ Tin Mừng. Lý do của sự sắp xếp này là rằng, trừ khi có ghi chú thể khác, linh mục chủ tế có thể tùy ý chọn từ các bản văn đó, tùy theo nhu cầu mục vụ của cộng đoàn tham gia Thánh lễ ấy”.
Về các tiêu chuẩn sử dụng trong việc lựa chọn bài đọc thích hợp nhất, tài liệu Dẫn nhập Sách Bài Đọc nói:
“82. Sự sắp xếp các bài đọc ngày trong tuần cung cấp bản văn cho tất cả các ngày trong tuần suốt cả năm. Do đó, trong hầu hết các trường hợp, các bài đọc này phải được sử dụng vào các ngày được chỉ định, trừ khi một lễ trọng, lễ kính hoặc lễ nhớ với các bài đọc riêng diễn ra.
“Trong việc sử dụng thứ tự các bài đọc cho các ngày trong tuần, phải chú ý để xem liệu một bài đọc này hay bài đọc khác từ cùng sách trong Kinh thánh sẽ phải bị bỏ qua, vì một Thánh lễ nào đó diễn ra trong tuần. Với sự sắp xếp các bài đọc cho cả tuần cần được nhớ tới, linh mục trong trường hợp đó nên sắp xếp để bỏ qua các đoạn ít quan trọng hơn, hoặc kết hợp chúng một cách thích hợp nhất với các bài đọc khác, nếu chúng góp phần vào cái nhìn toàn thể của một chủ đề đặc biệt.
“5) Lễ các Thánh
“83. Khi chúng tồn tại, các bài đọc riêng được đưa ra cho lễ các Thánh, nghĩa là, các đoạn Kinh Thánh về vị Thánh hoặc mầu nhiệm mà Thánh lễ đang cử hành. Ngay cả trong trường hợp của một lễ nhớ, các bài đọc này phải chiếm chỗ của các bài đọc ngày trong tuần cho cùng ngày ấy. Thứ tự các bài đọc cần lưu ý rõ ràng cho mỗi trường hợp của các bài đọc riêng cho một lễ nhớ.
“Trong một số trường hợp, có các bài đọc được thích ứng, nghĩa là các bài đọc nêu bật một khía cạnh của đời sống thiêng liêng của vị Thánh hoặc việc làm của vị Thánh ấy. Việc sử dụng các bài đọc này dường như không ràng buộc, ngoại trừ vì các lý do mục vụ thuyết phục. Đối với phần lớn, các qui chiếu được đưa ra cho các bài đọc trong phần Chung, để tạo điều kiện dễ dàng cho sự lựa chọn. Nhưng đây là các gợi ý đơn thuần: thay vì một bài đọc được thích ứng hoặc một bài đọc đặc biệt được đề nghị từ phần Chung, bất kỳ bài đọc khác được nhắc đến từ phần Chung có thể được chọn.
“Sự quan tâm đầu tiên của một linh mục cử hành với một cộng đoàn là các lợi ích thiêng liêng của các tín hữu, và ngài phải cẩn thận không áp đặt sở thích cá nhân của mình trên họ. Trên hết, ngài sẽ đảm bảo không bỏ qua quá thường xuyên, hoặc không có lý do chính đáng, các bài đọc được chỉ định cho mỗi ngày trong Sách Bài Đọc ngày trong tuần: Giáo Hội mong muốn rằng một bàn tiệc xa hoa của lời Chúa được dọn ra trước mặt các tín hữu.
“Cũng có các bài đọc chung, nghĩa là, các bài đọc được đặt trong phần Chung, hoặc dành cho một nhóm các Thánh (tử đạo, trinh nữ, mục tử), hoặc cho các Thánh nói chung. Bởi vì trong các trường hợp này, nhiều bản văn được liệt kê cho cùng một việc đọc, nên linh mục có quyền chọn bài đọc nào thích hợp nhất cho người nghe.
“Trong tất cả lễ các Thánh, các bài đọc có thể được lấy, không chỉ từ phần Chung, mà các qui chiếu nêu rõ cho từng trường hợp, mà còn từ phần Chung của các Thánh Nam Nữ, khi có lý do đặc biệt để làm như vậy”.
Do đó, để tóm lược phần trên đây, chúng tôi có thể nói rằng Giáo Hội không thích làm gián đoạn quá thường xuyên việc đọc liên tục Kinh Thánh được đưa ra trong Thánh Lễ hàng ngày. Tuy nhiên, việc đọc liên tục này sẽ bị gián đoạn, bất cứ khi nào có các bài đọc riêng cho một ngày nhất định, chẳng hạn như lễ trọng, lễ kính và mỗt số lễ nhớ của các vị Thánh với các bài đọc riêng (chẳng hạn như các thánh được nhắc đến trong chính bài đọc, như thánh Maria Mađalêna).
Vào các ngày lễ nhớ khác, vốn không có các bài đọc buộc riêng, linh mục có thể lấy các bài đọc từ phần riêng của vị Thánh, hoặc từ phần Chung của các Thánh, nếu vì một lý do mục vụ chính đáng, ngài quyết định rằng cần đề cao một vị Thánh nào đó. Thí dụ, nếu một giáo xứ ở Mỹ, Úc hoặc Ý có một số đông tín hữu đến từ Philippines tham dự Thánh Lễ hàng ngày, linh mục có thể quyết định cử hành lễ thánh Lawrence Ruiz, vị tử đạo đầu tiên của đất nước họ (ngày 28-9), trong một đặc biệt bằng cách lấy các bài đọc từ phần Chung của các Thánh Tử Đạo.
Để trả lời câu hỏi của độc giả chúng tôi: Các bài đọc riêng cho thánh Maria Goretti có thể được sử dụng, nếu có một lý do mục vụ chính đáng để làm như vậy. Quyết định này là do vị chủ tế. Giáo Hội chỉ khuyến nghị rằng điều này không nên thực hiện cho mọi vị Thánh, để đừng làm gián đoạn chu kỳ bình thường quá thường xuyên. Thông tin được cung cấp bởi chủng sinh trên là không chính xác, và không thích hợp với các qui định đã nêu ở trên.
(Nguyễn Trọng Đa/ Zenit.org 15-9-2015)
2022
HOÁN CẢI VÀ LÀM CHỨNG
25.1.2022 Thứ Ba
Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại
2 Sm 6:12-15,17-19; Tv 24:7,8,9,10; Mc 3:31-35
HOÁN CẢI VÀ LÀM CHỨNG
Chúng ta biết ông sinh ra và sống tại Tạcxô. Cuối chương 9 cho biết ông sẽ trở lại quê hương sau khi chạy trốn khỏi Giêrusa-lem thời bị bách hại. Sinh ra tại Tạc-xô, nghĩa là tại thành phố ngoại giáo, trong vùng phát tán Do thái; ông không phải là Do thái gốc Paléstin như các tông đồ khác. Đặc tính của ông là mang hai nền văn hóa.
Ông là Do thái và rất Do thái. Ông gắn bó thâm sâu với luật Do thái và thuộc về nhóm Pha-ri-sêu, ông tuân giữ rất nghiêm nhặt và kỹ lưỡng lề luật mà ông coi là chính yếu cho đời sống của mình. Ong được nhào nặn trong tinh thần Cựu Ước và thuộc nằm lòng Sách thánh. Phaolô mang nặng văn hóa Do thái mặc dầu không sinh ra và lớn lên tại đó.
Nhưng đồng thời ông chịu ảnh hưởng văn hóa Hylạp và Lamã. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết ông là công dân La-mã; đàng khác ông nại đến tư cách nầy để xin được xét xử bởi Xêda tại Rôma (Rôma biểu tượng trung tâm của đế chế) để chứng tỏ rằng Kitô giáo đã tưới gội toàn thể thế giới nơi có con người sinh sống.
Như vậy, là công dân Rôma, có văn hóa Hylạp, biết những gì tạo nên nền văn hóa nầy, am hiểu triết lý Hylạp ngay cả tiến xa trong lãnh vực này bằng mò mẫm như diễn từ của ông tại Athen minh chứng. Lãnh hội được hai nền văn hóa, ông cố gắng bằng sức mạnh của những sự kiện làm nên một duy nhất tính nào đó cho chính mình khi đứng giữa hai nền văn hóa. Người ta hiểu vai trò chìa khóa mà Phao-lô nắm giữ để giúp Kitô giáo đi từ cuống rốn Do thái nơi mà ông đã được đào tạo đi đến một điều khác hoàn vũ hơn, đi từ cơ chế tôn giáo của một dân tộc đến đức tin cho mọi dân tộc khác.
Ông là trung gian đáng chú ý, điều đó không phải dễ và ông đã phải trả giá vì những kẻ thù từ phía người Do-thái cũng như từ phía các dân ngoại. Tuy nhiên vừa bám rễ trong lịch sử Do thái vừa bám rễ trong đời sống Hy La, điều đó đã cho Phao-lô hoàn tất vai trò tông đồ dân ngoại mà ông đã được kêu gọi. Thời điểm xảy ra cuộc gặp gỡ trên đường Đamát, chúng ta biết rằng Phaolô là một kẻ bách hại cuồng nhiệt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Lần đầu tiên Phaolô được nhắc đến trong Công Vụ Các Tông Đồ, là thành viên tham gia cuộc ném đá thánh Têphanô (một trong bảy phó tế được các tông đồ đặt tay), ông giữ áo choàng cho những kẻ ném đá Têphanô. Hai lần khác, ở đầu sách Công Vụ, Phao-lô được coi là kẻ theo đuổi không ngơi nghỉ các môn đệ của Chúa Giê-su mà ông có thể xác định ở Giê-ru-sa-lem nơi có khá đông người Ki-tô hữu. Vào đầu chương 9 ông tự cho mình sứ mệnh đi đến Đa-mát để tiếp tục lùng bắt. Ông ác cảm với người Kitô hữu đến nỗi ông muốn theo đuổi họ mọi nơi họ quy tụ, để ngăn chặn họ xâm chiếm vùng phát tán Dothái, vào thời đó, nhất là ở Tiểu Á; chính vì lý do đó mà Phaolô muốn đi đến Đamát, ông có trong tay thư của lãnh đạo Dothái giáo tại Giêrusalem để thi hành “chính sách mà ông muốn”: chính sách đàn áp bắt bớ, và để mang tù nhân về Giêrusalem, là những ai đón nhận “Đường”, theo cách gọi của Sách Công Vụ Tông Đồ, con đường (mỹ danh từ để chỉ Giáo Hội phôi thai).
Có thể nói rằng nửa đời về trước Phaolô là một người Biệt phái chính cống, kiêu căng, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau Phaolô là một vị Tông Đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như chính Ngài thú nhận: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” và xác tín: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-39). Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ngài hăng say loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, các vùng Bắc Á, vượt biển sang châu Âu 4 lần để truyền giáo và chịu tử đạo tại Roma.
Phaolô không ngần ngại kể “tôi đã bị lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cr 11, 23-27). Tất cả vì Tin Mừng và vì phần rỗi của anh chị em mình.
Khám phá nhân cách, nhân tính của Phao-lô đã mời gọi chúng ta đảm trách nhân tính của mình, tiếp nhận, đón chào nó như một ân huệ được ban cho chúng ta, mà chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa và làm sinh ích cho tha nhân. Chúng ta sẽ thấy điều gì xảy đến cho Phaolô trên đường đi. Ghi chú « lên đường » sẽ cho chúng ta khám phá thêm một cấu tố của nhân cách của Phao-lô ; ông là con người hành trình, luôn chuyển động, tóm lại : một tông đồ đăng trình.
Phaolô đã gặp Chúa Giêsu trên đường, ông đã không rời bỏ lộ trình bao giờ nữa. Ông liên tục hành trình, di chuyển, đi về phía trước, đi tới, vạch kế hoạch, tiếp tục loan báo Tin Mừng đến mút cùng trái đất.
Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.
Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động ! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).
Sống theo gươngThánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.