2023
Thứ năm tuần thánh
Thứ năm tuần thánh
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Thứ năm Tuần Thánh là ngày lễ của tình yêu. Thật vậy, vào chiều hôm nay cách đây hơn 2000 năm, trong bữa tiệc ly, trước khi lìa xa các môn đệ để thi hành tôn ý Chúa Cha mà cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ hết sức ngỡ ngàng là Người chỗi dậy khỏi bàn ăn, lấy khăn thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ rửa chân là bài học yêu thương và khiêm nhường. Chúa dạy các ông bài học này trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu. Vì muốn yêu đến cùng nên Người dạy khiêm nhường bằng việc rửa chân để mọi người biết yêu nhau. Vì muốn yêu đến cùng nên Người lập Bí tích Thánh Thể để ờ lại với chúng ta đến tận thế. Chúa Gíêsu lập Bí tích Thánh Thể để hiện diện với nhân loại mãi mãi qua thừa tác vụ của các linh mục.. Để tưởng niệm bữa tiệc ly này cho xứng đáng chúng ta cùng thành tâm thống hối.
Ca nhập lễ
Chúng ta phải được vinh dự nơi Thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người là sự cứu thoát, sự sống lại của chúng ta, nhờ Người chúng ta được cứu độ và được giải thoát
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, trong bữa tiệc ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giêsu đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới muôn đời tồn tại làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Xh 12, 1-8. 11-14
“Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô .
Xướng: Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
Xướng: Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.
Xướng: Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26
“Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Chúa phán: “Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.
PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15
“Ngài yêu thương họ đến cùng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã quá yêu nhân loại bằng một trái tim nồng nàn rực cháy. Người đã trối lại cho nhân loại một gia sản vĩ đại, đó là gia sản tình yêu. Tin vào tình yêu cao siêu đó chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện :
- “Hãỵ nói với toàn thề cộng đồng con cái Israel”.- Xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục theo gương ông Moisen và ông Aaron, mau mắn thi hành lệnh Chúa, loan truyền ơn cứu độ cho mọi người.
- “Mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.- Xin cho tâm hồn người tín hữu đã được rước máu châu báu của Chúa Giêsu, luôn can đảm tuyên xưng việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến.
- “Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng”.- Xin cho các nhà truyền giáo tinh thần phục vụ hăng say, hi sinh quên mình vì phần rỗi những người Chúa trao phó cho.
- “Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”.- Xin cho giáo xứ chúng ta biết sống bài học khiêm nhường nơi Đức Kitô, để chân thành yêu thương hết mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cần sự trợ giúp của ơn Thánh Chúa, để được thanh luyện và lớn lên trong đức tin và đức ái. Xin soi sáng và nâng đỡ chúng con thi hành tốt mệnh lệnh sống bác ái, để hy lễ của Chúa diễn ra qua các thế kỷ vẫn mang đậm nét yêu thương, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thương giúp cộng đoàn tín hữu chúng con, cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Ðức Ki-tô là chúng con được hưởng ơn cứu chuộc của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Người là Tư Tế thật và vĩnh cửu, khi thiết lập thể thức hy lễ trường tồn, Người là Ðấng đầu tiên đã dâng mình cho Chúa làm của lễ cứu độ, và đã truyền cho chúng con dâng mà tưởng nhớ đến Người. Khi chúng con rước Mình Người hiến tế vì chúng con, thì chúng con được mạnh sức. Và khi chúng con rước Máu Người đổ ra vì chúng con, thì chúng con được rửa sạch.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và Tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh Thiên quốc chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Chúa phán: “Này là mình Ta, sẽ bị nộp vì các con, chén này là Tân Ước trong Máu Ta, mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, chiều nay chúng con đã được bổ sức tại bàn tiệc của Ðức Ki-tô, mai ngày, xin Chúa cũng đón nhận chúng con vào dự tiệc muôn đời trong nước Chúa. Chúng con cầu xin…
2023
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
2- Các Thánh Tử đạo tại VN, những tay gieo của Thiên Chúa
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa, dù được tuyên xưng là thánh chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân vào ngày 19-06-1988
Việc sống đạo và chết vì đạo của các đấng đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.
- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.
- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.
- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.
- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.
- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các đấng đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các đấng bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo tại Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các đấng đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3- Các Thánh Tử đạo tại VN, những thợ gặt của Nước Trời
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các đấng, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Kết
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các đấng đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các đấng đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các đấng, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!
2023
CHÍNH TỘI CON ĐÃ TREO CHÚA TRÊN THẬP GIÁ
CHÍNH TỘI CON ĐÃ TREO CHÚA TRÊN THẬP GIÁ
Một người đàn ông công chức tên X., bình thường, khỏe mạnh, vui tươi, quân bình như bao người khác. Ông rất đúng mực và tận tụy với công việc và được cấp trên trao phó nhiều trọng trách. Ông rất thứ tự và vâng lời luật pháp quốc gia. Ông phục vụ chế độ tận tâm hết khả năng mình.
Nhưng công việc của ông hơi khác thường: Đó là thanh lọc, tổ chức lùng bắt và tiêu diệt dân Do thái trên khắp lục địa Châu Au. Ông giết tất cả chừng sáu triệu người trong đại thế chiến thứ hai. Nhiều năm về sau người ta truy tìm được ông ở Nam Mỹ, tên thật ông là Adolf Eichmann. Lúc bị bắt, ông hoàn toàn bình thường, ăn ngủ tốt, tuy đã luống tuổi. Giả dụ ông bất an hay điên khùng chúng ta còn có thể hiểu được, nhưng không, ông rất bình thường, ông cho là mình chỉ làm theo lệnh cấp trên, thế thôi, không áy náy chi cả.
Điều này làm cho chúng ta choáng ngợp, nhất là trong tuần thánh này. Người ta phạm tội, những tội tày đình mà vẫn cứ bình thản nghĩ mình là phải. Phaolô giết Stêphanô, bẩy giám mục giết cô bé Jeanne d’Arc, thập tự chinh, tòa điều tra, giàn hỏa thiêu rối đạo. Mãi đến tận hôm nay vẫn còn tình trạng đó. Lịch sử nguyên vẹn đấy, làm sao chối cãi. Thì ra, nếu nhìn kỹ vào thế giới chúng ta sẽ thấy một mặt người ta hô hào văn minh tiến bộ, đối xử khoan dung, tha thứ, công bình, bác ái.Nhưng mặc khác lại đầy bất công, bóc lột, áp bức, man rợ, điên khùng, hủy diệt thai nhi, kẻ vô tội mà lương tâm không hề ân hận. Bất cứ ai cũng có thể cảm nghiệm được hai mặt trái ngược nhau này. Có lẽ bản thân mỗi người còn điên khùng hơn. Đó mới là điều đáng lo sợ vì mình hiếm khi nhận rõ vấn đề.
Chúng ta hãy xem xét những kẻ kết án và hành quyết Đức Giêsu hôm nay. Tín hữu thường có thành kiến cho rằng họ là những kẻ độc ác, gian manh hết cỡ, dám giết hại Con Đức Chúa Trời và động lực của họ là tối tăm quỉ quyệt. Nhưng không phải vậy, nghĩ như vậy là theo quan điểm lúc này và là một sai lầm lớn nếu đặt mình vào thời đó. Tình huống tôn giáo, xã hội lúc ấy cho chúng ta thấy rõ hiển nhiên trong con người chúng ta cũng đầy những cảm nghĩ tương tự, có lẽ còn tệ hơn trong vai trò kết án và giết hại Đức Kitô.
Trước hết là phái Pharisêu: Những người này rất đạo đức và nhiệt thành với tôn giáo. Họ tỉ mỉ tuân giữ mọi lề luật Thiên Chúa truyền cho tuyển dân qua Môsê. Một chi tiết nhỏ nhất cũng không dám vi phạm. Hơn nữa còn lập ra những hàng rào vững chắc để bảo vệ lề luật. Họ miệt mài học hỏi lề luật và tuyệt đối tin tưởng vào sự công chính của lề luật. Họ nghĩ sự công chính này làm đẹp lòng Giavê. Họ rất sợ hãi xúc phạm đến lề luật và đền thờ, giống hệt như chúng ta hôm nay. Họ sẵn sàng trừ khử những nguy hiểm phá vỡ lề luật. Lòng kính trọng của quần chúng bình dân đối với họ là bằng chứng: Được chào hỏi ngoài đường, chỗ nhất trong các bữa tiệc. Ngoài ra họ còn sẵn sàng “tử đạo” để đuổi ngoại bang, ngõ hầu đất nước được tinh tuyền. Ai bảo họ không đạo đức?
Caipha, Anna: Những chức sắc tôn giáo, chỉ một lòng gìn giữ cho đất nước an bình, tôn giáo chính thống, dân chúng tự do thờ phượng, trừ khử xáo trộn, nắm giữ chức Tư tế thượng phẩm trong dân, được toàn dân nghe theo và kính trọng. Ai bảo họ tâm địa gian ác? Câu trả lời là hoàn toàn không, tương tự như Giáo hội sau này thiêu chết John Huss và các kẻ rối đạo khác để bảo vệ Tin Mừng.
Philatô: Nhà chính trị tài ba và khéo léo, là toàn quyền Roma ở Palestine, 10 năm, từ năm 26 đến 36. Ông luôn nghĩ đến địa vị và nhiệm vụ của mình. Công việc hàng ngày của ông là giữ an ninh cho thành phố và toàn thể xứ sở. Trong thời buổi nhiễu nhương ông không thể làm khác đi được, mặc dầu biết Đức Kitô là vô tội. Ông tránh cuộc đối đầu với các lãnh tụ tôn giáo, mà ông biết rõ ảnh hưởng to lớn của họ trên đám đông. Nếu làm khác đi, ông sẽ gây nhiều tai họa hơn cho quyền bính Roma và bản thân cùng đám lính trong trại binh sĩ chịu tổn thất nặng nề. Kinh nghiệm đã cho ông hay như vậy, thà nhượng bộ hy sinh một người vô tội còn hơn. Thời nay chúng ta không hành xử như vậy sao? Nhượng bộ sự thật và lẽ phải để được hai chữ “bình an”! Chuyện này đầy rẫy trên thế gian.
Đám lính vệ binh: Đây không phải lính tinh nhuệ của Roma. Lính chính qui không dính dáng chi đến chuyện “nhơ” này. Đám lính hành hạ Đức Giêsu là những kẻ đánh thuê ô hợp thâu gom từ các vùng phụ cận, thuộc nhiều văn hóa khác nhau: Hy lạp, Dothái, Samaria …Họ có nhiệm vụ canh gác và thi hành án. Họ chẳng biết nhiều về bản án Đức Giêsu, nó diễn ra bình thường như hàng chục, hàng trăm vụ khác, làm sao họ để ý cho kỹ mà nhận ra sự thật? Cho nên khi được lệnh thi hành thì là công việc thường xuyên. Dầu sao tử tội Giêsu cũng sẽ bị điệu đi đóng đinh trên gò đất nhỏ ngoài tường thành như nhiều tử tội khác thì cũng là chuyện quen thuộc. Có điều đặc biệt là tử tội Giêsu tự xưng là vua Do thái nên họ bày chút trò chế diễu cho vui, tương tự như trẻ con tìm thấy con cóc ở vệ đường, hành hạ cho thỏa tính, thế thôi chứ không có ân oán gì.
Tuy nhiên tấn kịch thật hảm khốc và phạm thượng. Chủ yếu là do tội của chung loài người và riêng mỗi cá nhân vì mọi người đều phạm tội. Xin đừng trốn tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho thiên hạ, còn ta đây thánh thiện lắm cơ có làm chi xấu đâu, hơn nữa còn dâng mình cho Thiên Chúa, khấn hứa đàng hoàng, dấn thân cho công lý và sự thật! Hỡi ôi thực tế khác hẳn: Tìm kiếm lạc thú, tiện nghi, chê bai khổ chế hãm mình, hy sinh. Xin nhớ lời tác gỉa Abert Camus mà mọi người đều quen biết: “Pharisêu là ai đó đòi hỏi kẻ khác nhiều hơn là chính mình”. Lạy Chúa, xin giúp chúng con thành thật trong tuần lễ thánh thiện này, đừng giả hình nữa. Xin cho chúng con kết hợp cụ thể với Chúa trong lời nói, việc làm nhất là tâm tình vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha.
Vì Chúa có thể tránh được nhục nhã này, tránh vào thành thánh nơi từng giết chết các ngôn sứ. Chúa đọc được các dấu hiệu và biết trước số phận đang chờ đón mình. Chúa có đủ tài năng để thay đổi nội dung rao giảng về Nước Trời đang mở rộng cho mọi người, ngay cả cho dân ngọai, về kẻ rốt hết lên hàng đầu và kẻ đang đứng đầu xuống hàng rốt hết, về sự hiện diện của Thiên Chúa trong các kẻ bé mọn, về Thiên Chúa giầu lòng thứ tha, về trời mới đất mới, ngõ hầu tránh khỏi tai họa. Nhưng Chúa đã không làm như vậy, thà lãnh nhận cái chết và giơ mặt chai như đá, để tiến vào Giêrusalem làm chứng cho sự thật.
Chúa đã trung thành với sứ vụ như người tôi tớ Thiên Chúa, phục vụ chân lý để chúng con được tự do. Bọn lính khi hành hạ Chúa đã chế diễu rằng: “Kính chào vua dân Do thái” họ có biết đâu rằng đó là sự thật. Nếu quả là sự thật thì đâu là binh hùng tướng mạnh, đâu là quyền bính và ngai vàng? Con đường giải phóng dân Israel lại là một thất bại hoàn toàn? Chẳng ai tưởng tượng được: “Này vua các ngươi đang ngự đến, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Cả đến các nhà thông thái nhất trong dân Do thái cũng không thể đoán trước được Thiên Chúa đã chọn con đường như vậy để cứu vớt nhân loại. Chúng ta nên suy nghĩ kỹ bài Tin Mừng để nhìn ra sứ mệnh và sự nghiệp của Đức Giêsu. Người đích thực là người tôi tớ đau khổ và trung thành của Thiên Chúa, cương quyết vâng phục Thiên Chúa trong sứ vụ . Chứ đừng cắt nghĩa theo sở thích rồi hành động lung tung.
Có hai người bạn đi với nhau, một người tên Thắng, người khác tên Hùng. Khi đi qua một con suối, Thắng chỉ xuống nước nói: “Hùng kìa, suối nhiều cá quá”. Hùng nhìn kỹ nhưng chẳng thấy cá đâu, dòng nước trong veo chẩy róc rách. Một lát sau họ đi qua đám dâu dại, Hùng vội bới đám dâu hái quả ăn. Thắng nói: “Tớ chẳng thấy quả nào, cậu hái dâu ở đâu vậy?”. Hùng trả lời: “cũng như bạn trông thấy cá ở dưới suối”.
Đây là chuyện ngụ ngôn của một đấng đáng kính về tuần thánh. Tín hữu thường đi qua tuần lễ mà không có ích lợi gì. Thản hoặc người được ơn này, kẻ ơn khác, chứ không tận dụng cuộc thương khó của Chúa để thâu lượm hoa trái thiêng liêng. Chúng ta hãy thật sự cảnh giác về thói vô tình của mình, thú nhận tội lỗi, thực hành khổ chế để thu lượm kho tàng ơn cứu độ do cuộc thương khó Chúa mang đến thế gian. Thu lượm sự giầu có ấy không khó lắm đâu, nếu chúng ta biết hy sinh bản thân cùng với những đòi hỏi của xác thịt.
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu nhắn nhủ các tông đồ hãy cầu nguyện luôn. Chúng ta hãy nghe lời Người bền bỉ trong kinh nguyện, thánh lễ và đừng bao giờ nản lòng. Cầu nguyện trong tuần thánh này là đi theo Chúa trong suốt cuộc khổ nạn của Người. Đọc và suy gẫm kỹ lưỡng các tường thuật thương khó, mỗi chữ, mổi câu đều mang ý nghĩa cho linh hồn. Thí dụ: Hãy dùng bữa tiệc với Người ở Bêtania sáu ngày trước lễ vượt qua và chứng kiến người phụ nữ đổ dầu lên đầu và xức thuốc thơm cho thân xác Người, rồi lấy tóc mà lau chân Người tiên báo sự mai táng của Người. Giuđa kết án bà là phí phạm nhưng cử chỉ của bà còn lưu truyền cho đến hôm nay. Cử chỉ thống hối và yêu thương ấy liệu có phải là một phí phạm? Chúng ta thì sao? Làm được hành động yêu mến nào đối với Thầy Chí Thánh?
Ngày hôm sau Người tiến vào thành thánh từ cổng phía đông, có đám đông tung hô vang dội vì họ đã được chứng kiến phép lạ Lazarô sống lại. Liệu Chúa đã phục sinh chúng ta khỏi tội lỗi và chúng ta tung hô Người vì biết ơn? Và bao nhiêu người trong họ lại hô lớn đòi xử tử Người cho máu đào của Người đổ trên đầu họ và con cháu họ! Sự lật lọng này phải chăng là của chúng ta khi gặp gian truân?
Lắng nghe bài giảng đanh thép của Người trong đền thờ: Nhà Cha Người là nhà cầu nguyện chứ không phải hang trộm cướp, buôn bán kiếm lời. Liệu chúng ta có buôn thần bán thánh, lợi dụng chức quyền để thu vét của cải danh vọng?
Hãy đồng bàn với các Tông đồ trong phòng tiệc ly để lắng nghe tâm huyết cuối cùng của Người. Trong đó Người tuôn đổ tình yêu xuống trên Giáo Hội mới, ban cho Giáo Hội thịt máu Người như lương thực nuôi linh hồn cho đến cõi sống muôn đời, quỳ xuống rửa chân cho các cán bộ của Giáo Hội mới và sai họ đi phục vụ thế gian. Liệu chúng ta theo nổi gương khiêm hạ của Người, hay vênh váo ta đây nhà rao giảng? Đòi ăn trên ngồi trưóc và buộc người ta kính trọng?
Hãy theo Gioan và Phêrô khi vệ binh đền thờ điệu Người đến nhà Caipha xem chúng ta có can đảm hơn Phêrô không? Ai trong chúng ta sẵn lòng vác đỡ thập tự Chúa trên đường ra núi sọ? Hoặc chí ít bớt đi một nết xấu, một tội lỗi để thánh giá Người đỡ nặng nề?
Mọi người đều tưởng rằng thập ác là kết liễu sự nghiệp của Người. Liệu chúng ta có can đảm tin rằng đau khổ và hấp hối chỉ tăng thêm lòng nhiệt thành vì tình yêu Chúa Cha và nhân loại của Người. Nó là khởi đầu chứ không phải là kết thúc công trình cứu chuộc? Vì thế chúng ta đứng đấy cùng với Đức Mẹ, thánh Gioan và các phụ nữ để cùng dâng thánh lễ với Chúa. Còn nhiều sự kiện khác nữa chúng ta phải suy gẫm và cầu nguyện. Các thánh đã từng làm như vậy, cho đến tận thế các linh hồn đạo đức còn sẽ thi hành. Đó là cốt yếu nền thánh thiện của Giáo Hội. Liệu chúng ta noi gương hay cho là cổ hủ để tìm kiếm những hình thức ồn ào khác? Ước mong mọi ngươi phân định được rõ ràng. Amen.
2023
SỰ KHAI TRIỂN CÂU CHUYỆN THƯƠNG KHÓ
CHÚA NHẬT THƯƠNG KHÓ
Mátthêu 26:14–27:66
SỰ KHAI TRIỂN CÂU CHUYỆN THƯƠNG KHÓ
Câu chuyện thống khổ của Chúa Giêsu là phần xưa nhất của truyền thống Kitô Giáo còn được duy trì. Ông Phaolô tường thuật hình thức đầu tiên của truyền thống này: Đức Kitô đã chết vì tội của chúng ta, Người được mai táng, được chỗi dậy vào ngày thứ ba, xuất hiện với ông Kêpha, và sau đó với nhóm Mười Hai (). Truyền thống xưa này thì đáng chú ý vì nó ngắn gọn và thiếu chi tiết.
Ông Phaolô đã thêm vào những lần xuất hiện khác: với hơn năm trăm tín hữu cùng một lúc, với ông Giacôbê, với các tông đồ, và sau cùng với ông Phaolô (). Sự nhấn mạnh này thì hoàn toàn dựa vào những lần xuất hiện của Đức Giêsu phục sinh; không có các chi tiết về sự thống khổ và sự chết của Đức Giêsu.
Khi thế hệ Kitô Hữu đầu tiên chết đi, một tường thuật ngắn về sự thống khổ của Đức Giêsu được khai triển: Người bị bắt, bị xử, và bị đóng đinh. Người ta khao khát muốn biết hơn nữa, vì thế tường thuật này được trau chuốt để bao gồm việc xức dầu thơm, bữa Tiệc Ly, và những âm mưu để bắt giữ Người.
Vào lúc các tác giả phúc âm sáng tác, câu chuyện dài về sự thống khổ của Đức Giêsu được phát triển thành hai phần chính. Một, được trình bày trong Máccô và Mátthêu, có đặc điểm là các chủ đề về sự ứng nghiệm. Thánh Vịnh 22 và 69, Isaia, và các đoạn Kinh Thánh khác được ứng nghiệm trong sự thống khổ của Đức Giêsu.
Phần khác, được trình bày trong Luca và Gioan, có đặc điểm là thêm nhiều lời nói của Đức Giêsu. Nếu người ta so sánh các tường thuật về bữa Tiệc Ly, Máccô và Mátthêu trình bày một cảnh tượng đơn sơ với chỉ một vài câu nói của Đức Giêsu, Luca thêm vào cuộc đối thoại, và Gioan hoàn toàn bỏ qua việc thiết lập Thánh Thể nhưng tường thuật bốn chương đối thoại giữa Đức Giêsu và các tông đồ! Các học giả cho rằng loại khai triển này bắt nguồn từ “sự sùng mộ đạo đức.”
Điều gì đã thúc đẩy việc dần dà phát triển câu chuyện thống khổ này? Tuy dường như nó trái ngược với chúng ta, câu chuyện thống khổ là một tiếp diễn bình thường sau sự phục sinh. Sự kiện là Đức Giêsu đã được Thiên Chúa nâng dậy là điều duy nhất mà Kitô Hữu Địa Trung Hải cần để củng cố đức tin nơi Đức Giêsu.
SỰ ĐAU KHỔ VÀ NHỤC NHÃ
Người đã chết thật nhục nhã, đó là cái chết dành cho những tội phạm xấu xa nhất. Tuy Người đã chết theo truyền thống kiên cường nhất của người Địa Trung Hải, cách chết này đã xóa sạch tất cả những gì tốt lành Người đã thực hiện. Nếu Đức Giêsu thực sự là người được Thiên Chúa yêu dấu, Thiên Chúa đã không để Người bị khuất phục bởi kẻ thù.
Nhưng Thiên Chúa đã lật ngược cách suy nghĩ của người Địa Trung Hải. Khi nâng Đức Giêsu dậy từ cõi chết, Thiên Chúa đã vinh danh Đức Giêsu hơn bất cứ ai từng có. Người đã xóa sạch sự nhục nhã của Đức Giêsu.
Từ điểm thuận lợi này, các tác giả phúc âm đã có thể giải thích lại câu chuyện thống khổ. Trong khi nó tường thuật các biến cố dường như nhục nhã như bị phản bội, các chứng gian, phiên tòa chiếu lệ, sự ức hiếp, và tương tự, việc đọc cẩn thận cho thấy Đức Giêsu làm chủ số phận của mình trong suốt câu chuyện. Người biết Người làm đúng, Người tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ minh chứng cho Người. Đức Giêsu thì giống như bất cứ người nào khác phải đau khổ một cách vô tội trong lịch sử của Ít-ra-en: tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh lại mọi sự.
Tuy nhiên nếu người ta không thấy được sự dẫn giải được nhận thức sau này trong các câu chuyện phúc âm, ở mức độ thuần túy văn hóa Đức Giêsu được trình bày như một anh hùng ngoại hạng. Như một người đàn ông đích thật vùng Địa Trung Hải, Người gánh chịu những cú đấm hung bạo của kẻ thù mà không nao núng, kêu gào, hay ngất xỉu. Người chịu đựng roi đòn, lời xỉ nhục, đội mão gai, bị đóng đinh – nhưng không gào thét.
Trong Mátthêu, một câu duy nhất Đức Giêsu nói (“Lạy Chúa, sao ngài bỏ rơi con?”) là một lời cầu xin phản ứng với các lời chế nhạo của những người chung quanh, họ cho rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi Người. Đây là những câu mở đầu của Thánh Vịnh 22, một lời cầu xin đầy khổ sở của tín hữu.
Các độc giả Tây Phương ngày nay vì những tin tưởng văn hóa nên họ thường không thấy được điểm này của bản văn. Trong văn hóa chúng ta, đau khổ là một sự phiền toái và có thể tránh đau khổ bởi sự tài giỏi hay y học, nên thật khó để thán phục sự kiên cường của người Địa Trung Hải được chứng tỏ trong sức chịu đựng. Trong văn hóa chúng ta, khoa học được coi gần như là “tôn giáo” đối với nhiều người, nên sự quan trọng của việc được Thiên Chúa nâng dậy từ cõi chết, được phục hồi danh dự sau khi nhục nhã ê chề, đã bị mất đi trong việc tìm kiếm ý nghĩa hợp lý và những chứng cớ có tích cách biện giải.
Làm thế nào chúng ta có thể noi gương sự vâng phục của Đức Giêsu trong một thế giới rất khác biệt về văn hóa?