2023
LÒNG YÊU MẾN CHÚA VÀ MẸ CỦA THÁNH ANPHONGSÔ
Nói về cuộc đời của thánh Anphongsô là nói về cuộc đời của một con người ngoại hạng, một người vĩ đại của thế kỷ Ánh sáng với những tác phẩm để đời mà ảnh hưởng còn kéo dài cho đến hôm nay như bộ Thần Học Luân Lý, Vinh Quang Mẹ Maria, Nữ Tu Thánh Thiện, Chân Lý Đời Đời…một cuộc đời hoạt động không mỏi mệt vì các linh hồn, một trái tim đầy lòng thương xót đối với những con người bị bỏ rơi bên lề cuộc sống tâm linh, một đời sống bôn ba xuôi ngược để xây dựng một hội dòng lo đến phần rỗi linh hồn của những người nghèo khổ để rồi cuối cùng lại là người chết bên ngoài hội dòng, một người dám thề hứa với Chúa không bỏ phí một phút nào trong đời mình, một vị thánh của cầu nguyện với câu nói thời danh “ai cầu nguyện chắc chắn sẽ được cứu rỗi, ai không cầu nguyện sẽ phải hư mất”… Làm thế nào mà Anphongsô có thể làm được tất cả những điều cao cả ấy ? Đó là vì lòng yêu mến Chuá Giêsu, vì khi yêu người ta có thể làm được tất cả.
Thánh Anphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples, nước Ý. Ngài là con trưởng trong một gia đình quý tộc có bảy anh em. Ngài có đầu óc rất thông minh và có trái tim hết sức nhạy cảm. Cha Ngài làm việc trong triều đình, còn mẹ ngài là người có lòng nhân đức và bác ái. Anphongsô ngay từ thửa bé đã học rất giỏi và có đầu óc sáng suốt. Bên cạnh đó ngài cũng có một tấm lòng quảng đại đối với tất cả mọi người.
Ta thấy Thánh Anphongsô đã chứng tỏ ngài là một sinh viên ưu tú và xuất sắc. Ngài đã được ban giám khảo miễn trừ cho 3 tuổi, do đó vào năm 16 tuổi, Anphongsô đã lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Đại học Napôli. Sau một thời gian thì ngài lại bỏ nghề luật sư, và từ đó ngài đã dấn thân cho công cuộc bác ái. Kể từ đó ngài nhận ra được tiếng Chúa mời gọi ngài dấn thân trong cánh đồng phục vụ nước Chúa.
Năm 1726 ngài được thụ phong linh mục và ngài đã dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô giáo.
Vào tháng 11 năm 1732, ngài đã thành lập dòng Chúa Cứu Thế tại Scala. Đây là một hội dòng gồm các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy thei gương Đức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động thì những người đồng hành với ngài từ lúc khởi đầu đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng sau bao nỗ lực, tu hội đã dần phát triển trở lại và được chập nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của thánh Anphongsô là cách giảng thuyết và giải tội. ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ.
“Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thánh Anphongsô đã vạch ra cho nhân loại con đường theo Chúa : “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình,vác thập giá của mình mà theo Ta” (Lc 9, 23). Nên, thánh Anphongsô, hôm nay đã giơ tay cao, đã chỉ cho các sĩ tử Dòng Chúa Cứu Thế của Ngài nhớ về cội nguồn của mình. Cội nguồn mà chính thánh Anphonsô đã lập ra một Dòng mang tên Chúa Cứu Thế vào năm 1732 với bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu khó khăn, thử thách. Thánh Anphongsô đã viết nên trang sử oai hùng cho đời mình, cho Dòng mình sáng lập.
Với 16 tuổi đời, hai bằng tiến sĩ luật đạo và đời đã hé mở tương lai rạng rỡ cho cuộc đời thăng tiến của Anphongsô. Vinh quang vẫn là thách đố lớn nhất đối với gia đình của Anphongsô. Cha của Người không đồng ý cho Anphongsô tận hiến cuộc đời cho Chúa. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, một vụ kiện, đáng lẽ Anphongsô phải thắng, nhưng vẫn là đường lối quan phòng kỳ diệu của Chúa, thánh Anphongsô đã từ bỏ pháp đình, từ bỏ tất cả. Với sự nhất quyết theo chân Chúa, Anphongsô đã thắng cả sự ngăn cản của người cha và Người đã quyết định dứt khoát đi vào con đường hẹp.
Thánh Anphongsô, sau khi học xong triết và thần học,đã lãnh nhận sứ vụ linh mục vào ngày 21 tháng 12 năm 1726. Người đã chuyên cần giảng dậy và khuyên bảo mọi người thay đổi, tiến bước trên con đường nên thánh. Vì chính Người, sau một cuộc thua kiện đã thay đổi tất cả, đổi mới tất cả. Thánh Anphongsô đã đặt chiếc gươm, biểu tượng của dòng quí tộc dưới chân Ðức Mẹ. Thánh Anphongsô đã biến giây phút đó, giây phút hiện tại mà Người đặt thanh bảo kiếm dưới chân Ðức trinh nữ Maria làm giây phút hồng phúc và cứu độ. Cái giây phút mà trong cuộc hành trình chịu chết, Chúa đã nhìn Phêrô khiến Phêrô ăn năn và quay trở về với Chúa. Ðó là giây phút cứu độ của Phêrô. Còn đối với Anphongsô, giờ cứu độ của Người ở ngay dưới chân Ðức Mẹ.
Trong tác phẩm được rất nhiều người biết đến “ Vinh quang Mẹ Maria” ngài đã viết trong lời tựa: Mẹ biết rồi đó, sau Chúa Giêsu thì mẹ là người con đặt tất cả niềm cậy trông sẽ được phần rỗi đời đời. Như vậy có nghĩa là lòng yêu mến Chúa Giêsu được đặt ở vị trí hàng đầu trong lòng mến của ngài. Yêu mến Chúa Giêsu là điều ngài luôn bận tâm trong suốt cuộc đời để rồi ngài đã có thể nói lên xác quyết cách mạnh mẽ : tất cả những sự trọn lành của chúng ta chỉ hệ tại ở việc yêu mến Chúa với trót cả tâm hồn (Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsu). Có nhiều người đã tưởng rằng sự trọn lành hệ tại việc sống khổ hạnh, việc đọc nhiều kinh, việc siêng năng lãnh các bí tích, việc làm phúc bố thí… song họ đã lầm. Thánh Anphongsô đã quả quyết như thế. Có lẽ đây là kinh nghiệm của chính ngài. Thời trẻ ngài đã hi sinh, hãm mình phạt xác cách nhặt nhiệm, có cả việc đánh tội rất dữ dội nhưng rồi ngài đã khám phá ra điều cốt yếu lại chính là là lòng yêu mến Chúa Giêsu chứ không phải việc làm nào khác.
Anphongsô đã đáp lại tình yêu Chúa bằng một tình yêu trao hiến được biểu tỏ trong mọi hành vi của cuộc đời, là hiến thân hoàn toàn cho Chúa để phục vụ các linh hồn, dành thời gian cho việc rao giảng tin Mừng, viết sách vở giúp các linh mục và hàng giáo sĩ, tu sĩ và bề trên, giáo dân nhất là tầng lớp những con người bình dân, nghèo khổ, ít học thiếu thốn sự hướng dẫn thiêng liêng. Ngài đã cảm và đã hiểu được tác động và ý nghĩa của lòng yêu mến và đã đáp trả bằng cách hiến trọn cho tình yêu, nhất là lòng yêu mến Chúa Giêsu.
Trong việc giảng dạy, thánh Anphongsô đã căn dặn các tu sĩ rằng: “Tôi xác tín và tôi vẫn luôn luôn xác tín một cách mạnh mẽ rằng phương cách rao giảng của chúng tôi có một hình thái rất đặc biệt. Sự gần gũi của chúng tôi đối với dân chúng, lối giảng dạy bình dân, sự hiểu biết thần học và những chân lý căn bản, cộng với lòng nhân ái của chúng tôi nơi tòa giải tội – tất cả những nét đặc thù này đã lôi kéo đông đảo dân chúng đến với chúng tôi, và chúng tôi luôn sẵn sàng đáp ứng một cách hiệu quả”.
Năm 1762, Đức giáo hoàng Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài đã nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong địa phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775, Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong “đêm tối của linh hồn”, ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: “Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt”. Cuối cùng ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787. Ngài được phong thánh năm 1831 và được tuyên xưng tiến sĩ Hội Thánh năm 1871.
Nhìn vào lòng yêu mến Chúa Giêsu của thánh Anphongsô, chúng ta hiểu được sự kỳ diệu của tình yêu khiến cho ngài trở nên một vị thánh vĩ đại với lòng yêu mến các linh hồn cách mãnh liệt, làm nhiều việc cao cả sinh ích cho Giáo hội, giúp chúng ta có được những hướng dẫn thiêng liêng thật quí giá để tiến tới trên con đường yêu mến Chúa Giêsu .
Chúng ta cùng cầu nguyện với thánh Anphongsô trong những lời này:
Lạy Chúa Giêsu là niếm cậy trông của con, là tình yêu ngọt ngào duy nhất của hồn con! Con thật chẳng xứng đáng được Chúa an ủi. Xin Chúa dành ơn ấy cho những người vô tội vốn hằng yêu mến Ngài. Phần con là kẻ tội lỗi. Con chẳng đáng được như vậy. Con chẳng dám xin ơn ấy. trọn cả ước muốn của con là: xin Chúa hãy làm cho con yêu mến Chúa, xin Chúa hãy làm cho con biết thực thi thánh ý Chúa trong mọi cảnh huốn cuộc đời con, và hãy thực hiện nơi con điều đẹp lòng Chúa. Amen.
2023
THÁNH AN PHONG MARIA DE LIGUORI
NGÀY 1 THÁNG TÁM
LỄ CHA THÁNH AN PHONG MARIA DE LIGUORI
Giám mục và Tiến sĩ Hội thánh
Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế
Lễ trọng
CA NHẬP LỄ Is 61, 1
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
sai tôi đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,
băng bó những tấm lòng tan nát.
LỜI NGUYỆN NHẬP LỄ
Lạy Chúa,
Chúa không ngừng ban cho Hội Thánh
những gương mẫu luôn luôn mới của đời sống Kitô hữu.
Xin cho chúng con hằng noi gương Cha Thánh An Phong giám mục
mà nhiệt thành cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ,
để mai sau được Chúa ân thưởng cùng với thánh nhân.
Chúng con cầu xin …
BÀI ĐỌC 1 Is 61, 1-3
Lời Chúa trong sách Ngôn sứ I-sai-a.
1Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, 2công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than, 3tặng cho những kẻ khóc than ở Xi-on tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là cây thánh rừng thiêng, là vườn cây ĐỨC CHÚA trồng để làm cho Người được vinh hiển.
Đó là Lời Chúa.
ĐÁP CA Tv 88, 2-3. 4-5. 21-22.25.27
Đ: Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng.
2 Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng,
qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
3 Vâng con nói: “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” Đ.
4 Xưa Chúa phán: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, 5 rằng:
dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.” Đ.
21 Ta đã tìm ra nghĩa bộc Đavít,
đã xức dầu thánh tấn phong Người;
22 Ta sẽ không ngừng đưa tay nâng đỡ,
tay quyền năng củng cố vững vàng. Đ.
25 Ta sẽ yêu thương Người và giữ lòng thành tín,
nhờ danh Ta, Người được thêm uy vũ.
27 Người sẽ thưa với Ta: “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ! “ Đ.
BÀI ĐỌC 2 2 Tm 2, 1-7
Lời Chúa trong thư thứ hai của thánh Phao-lô Tông Đồ
gởi cho ông Ti-mô-thê.
1Hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô Giê-su. 2Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác.
3Anh hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su. 4Trong nghề binh, không ai vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự; có thế mới đẹp lòng người đã tuyển mộ. 5Người tham dự điền kinh cũng vậy, không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ.
6Còn người nông dân làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi. 7Anh hãy hiểu điều tôi nói, vì Chúa sẽ ban cho anh ơn thông hiểu mọi sự.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG Ga 15, 16
Halêluia. Halêluia.
Chúa nói:
“Chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em,
để anh em ra đi, sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại”.
Halêluia.
TIN MỪNG Mt 9, 35-10, 1
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
35Khi ấy, Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. 36Đức Giê-su thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. 10:1Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Đó là Lời Chúa.
LỜI NGUYỆN TIẾN LỄ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu,
Chúa đã ban cho Cha Thánh An Phong
ơn cử hành các mầu nhiệm thánh
và nhờ đó mà hiến mình làm của lễ trong Đức Kitô;
xin đốt lên trong tâm hồn chúng con
ngọn lửa yêu mến của Thánh Thần.
Chúng con cầu xin…
KINH TIỀN TỤNG[1]
Lạy Chúa là Cha chí thánh,
là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc,
nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
thật là chính đáng, phải đạo
và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa cho Hội Thánh được hân hoan
mừng lễ Thánh An phong
để nhờ gương sáng đời sống đạo đức của ngài,
Chúa củng cố Hội Thánh,
nhờ lời giảng dạy, Chúa giáo huấn,
và nhờ lời cầu khẩn đẹp lòng Chúa,
Chúa giữ gìn Hội Thánh.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các Thánh,
chúng con luôn luôn hát ca chúc tụng Chúa rằng:
Thánh ! Thánh ! Thánh !
CA HIỆP LỄ 1 Cr 1, 23-24
Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh,
Người là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
LỜI NGUYỆN HIỆP LỄ
Lạy Chúa,
Chúa đã làm cho Cha Thánh An Phong
nên người trung thành rao giảng và phục vụ bí tích Thánh Thể.
Xin ban cho chúng con biết năng tham dự bí tích này,
và nhờ đó mà không ngừng ngợi khen Chúa.
Chúng con cầu xin…
[1] Ủy Ban Phụng Tự, Sách Lễ Rôma (Nghi Thức Thánh Lễ); xem Kinh Tiền Tụng Thánh Mục Tử, trang 59.
2023
Tại sao Giám Mục thay đổi mũ trong suốt thánh lễ?
Trong Phụng vụ, Đức Giám mục đội mũ lễ (mitre) trên đầu và cầm gậy trong tay. Để hiểu được sự thay đổi này, hãy trở lại với ý nghĩa của các biểu tượng này vốn biểu hiện tư cách thành viên của Tông đồ đoàn.
Trong thánh lễ do mình chủ tế, Đức Giám mục liên tục đội và cởi mũ lễ trên đầu, rước vào với gậy, trao lại và lấy lại gậy trước khi rời đi, kết thúc thánh lễ. Rõ ràng, những chuyển động này không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên hay ngẫu hứng.
Những ai dự lễ tấn phong giám mục sẽ không quên được khoảnh khắc hai phó tế mang Sách Tin Mừng trên đầu của tân Giám mục đang quỳ gối trước vị Giám mục chủ phong. Trở thành người kế vị các Tông đồ, Đức Giám mục được mời gọi rao giảng Lời Chúa, giảng dạy. Để biểu thị chức năng này trong Phụng vụ, các Giám mục đội mũ lễ có hình dạng gợi nhớ đến cuốn sách Thánh Kinh được mở ra, và hai mặt là Cựu Ước và Tân Ước.
Mũ lễ, trung gian giữa Thiên Chúa và con người
Từ lúc đó, Giám mục đội mũ lễ khi ngài hành động với tư cách là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Khi mang mũ sọ màu tím, thì theo hướng ngược lại, ngài nối kết con người với Thiên Chúa. Trong thánh lễ, ngài đội mũ lễ khi đoàn rước vào và ra, chúc lành cho cộng đoàn, cũng như khi giảng lễ, giải thích Tin Mừng cứu độ sau khi lắng nghe các bài đọc. Trong khi cử hành các bí tích khác, lôgíc cũng giống như vậy. Chẳng hạn, trong lễ truyền chức : ngài khẩn cầu các thánh mà không đội mũ lễ, nhưng đội nó khi ngài đặt tay cho tiến chức, bởi vì qua cử chỉ này, chính ân sủng mà ngài truyền.
Đức Giám mục cũng có thể được nhận ra trong Phụng vụ nhờ gậy trên tay của ngài. Nguồn gốc của nó có tính mục tử, theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ. Gậy chăn cừu được người chăn cừu dùng để đưa chiên về lại chuồng. Theo hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, Giám mục có trách nhiệm đối với các linh hồn trên lãnh thổ mà ngài được ủy thác.
Gậy mục tử là dấu hiệu của quyền tài phán này vốn trước hết là một thừa tác vụ : gìn giữ đức tin của các Tông đồ và dẫn dắt dân Thiên Chúa. Trong thánh lễ, gậy được mạng khi rước vào và rước ra, rồi vị chủ chăn đi ngang qua nhà thờ trong đoàn rước như vị chủ chăn giữa đoàn chiên của mình. Ngài dựa vào nó khi công bố Tin Mừng và để ban phép lành cho cộng đoàn lúc kết thúc Phụng vụ. Trái lại, nếu cử hành lễ trong một giáo phận mà ngài không có quyền tài phán, thì Giám mục mang gậy với gậy quyền quay lại phía sau.
2023
Thánh lễ và bốn bài học quan trọng nhất thời thơ ấu
Michael P. Foley
Bốn mục đích chính của Thánh lễ cũng là bốn điều quan trọng nhất để dạy cho con cái chúng ta và cho cả chính chúng ta.
Một trong những câu hỏi của Sách Giáo lý Baltimore cũ là, “Thánh lễ được dâng lên vì những mục đích gì?” Câu trả lời được đưa ra gồm bốn ý:
– Thứ nhất, để tôn thờ Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Chúa của chúng ta.
– Thứ hai, để tạ ơn Thiên Chúa vì muôn hồng ân của Người.
– Thứ ba, để cầu xin Thiên Chúa ban xuống ơn lành cho mọi người.
– Thứ tư, để đền tạ cho sự công bình của Thiên Chúa vì những tội lỗi đã phạm đến Người[1].
Tôn thờ, tạ ơn, cầu xin và đền tạ – việc đề cập đến bốn mục đích này đã xuất hiện trong nhiều sách lễ cổ xưa và vẫn là một nét đặc trưng quen thuộc của bất kỳ bài giáo lý truyền thống nào về Thánh lễ. Tuy nhiên, điều thường bị bỏ qua là mối quan hệ của các mục đích này với cuộc sống cụ thể của chính chúng ta với tư cách là con người. Chính xác thì bốn điều này liên quan đến lợi ích về mặt tâm lý, cảm xúc và tinh thần của chúng ta như thế nào?
Một cách để tiếp cận câu hỏi này là xem xét bốn điều quan trọng nhất mà chúng ta đã học cách để nói lên khi còn nhỏ: “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi”. Bốn câu nói đơn sơ này không chỉ có khả năng hướng dẫn cả người trẻ lẫn người già trên con đường hướng tới hạnh phúc của con người; chúng cũng cung cấp một phép loại suy hữu ích cho những gì xảy ra trong mọi Hy tế của Thánh lễ.
Những bài học cho cuộc sống
Ngôn ngữ ở phía đông vườn địa đàng ban đầu vốn là phương tiện được định ra dành để gọi tên chính xác cho các tạo vật (như chúng ta thấy với Ađam và các con thú), nhưng nó đã trở thành một tấn bi kịch khi thường xuyên trở thành phương tiện để thao túng hoặc che khuất thực tại. Việc nói “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi” đều có thể trở thành những hành động vô cùng thiếu thành thật và thậm chí là lợi dụng, nhưng tôi cho rằng thực tế hiển nhiên là khi mọi bậc cha mẹ tử tế đều truyền đạt những điều này đối với con mình, thì đó không phải là trang bị cho chúng những công cụ để thao túng.
Mặc dù chúng ta nói về tầm quan trọng của việc dạy con cái mình “nói” làm ơn và cảm ơn, nhưng mục tiêu cuối cùng của chúng ta thực sự là để con cái mình tự nói lên những lời đó và nắm bắt được ý nghĩa của chúng. Khi một người mẹ bắt con trai mình xin lỗi cô em gái vì đã giật tóc cô bé ấy, người mẹ đó thường không bằng lòng với một câu “xin lỗi” lạnh lùng và một cái lườm đầy thách thức mà không hề tỏ ra hối hận. Rõ ràng mục tiêu của người mẹ đó là làm cho cậu bé hiểu rằng cậu đã làm sai để cậu có thể cảm thấy thực sự hối hận về hành động của mình và tìm cách sửa chữa sự bất công, chứ không chỉ đơn giản là thốt ra một chuỗi âm thanh nào đó. Và điều này cũng đúng với ba điều khác mà người mẹ đó đã hướng dẫn con mình “nói”.
Do đó, tiềm ẩn trong mục tiêu nuôi dạy những đứa trẻ biết nói “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi” là một điều gì đó hơn là một thói quen lịch sự tầm thường, hơn là một sự tuân thủ hoặc đồng thuận vô nghĩa theo quy ước xã hội. Bằng cách nào đó, mục đích là để định hình một tâm hồn trẻ thơ thành kiểu người biết yêu thương, biết ơn, tôn trọng và khi cần thiết, quyết tâm sửa đổi một cách đầy hối lỗi. Điều này có lẽ là vì những đức tính như vậy không chỉ tự chúng là sự lựa chọn thích đáng, mà chúng còn dẫn đến việc gặt hái được những nhân đức khác.
Ví dụ, một người biết tầm quan trọng của sự hối lỗi, thì cũng biết tầm quan trọng của việc trao ban sự tha thứ (điều vốn không phải là chuyện đơn giản); và một người thực sự biết ơn sẽ dễ có khuynh hướng bao dung với người khác hơn. Chắc chắn, một trong những lý do tại sao cả người có đức tin và không có đức tin đều nhận thấy rằng, trong dụ ngôn về người đầy tớ mắc nợ không biết thương xót, anh ta thật đáng trách là vì đã vi phạm trắng trợn cả hai nguyên tắc thông thường này[2].
Vì vậy, đằng sau những cách diễn đạt đơn giản như thế là một nền nhân học luân lý đúng đắn, một bản phác thảo bao quát về việc thế nào là sống đẹp. Nói một cách lý tưởng, một người có khả năng nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là người đó có khả năng cam kết, tận tụy và hy sinh bản thân. Một người có khả năng nói “cảm ơn” có nghĩa là người đó nhận ra, như chúng ta sẽ thấy, món quà vô giá về sự hiện hữu của anh ta và món nợ của anh ta đối với một thế giới rộng lớn hơn mà anh ta không tạo ra.
Một người có khả năng nói “làm ơn” có nghĩa là người đó nhìn nhận sự lệ thuộc của anh ta vào một thực tại bên ngoài anh ta và từ chối nguyên tắc cho rằng mình luôn là kẻ mạnh hơn, là vượt thắng chủ nghĩa vị kỷ thấp hèn vốn đang bỏ mặc anh ta, một chủ nghĩa mà theo cách diễn giải của Sr. Walter Scott là một tến khốn nạn hèn hạ chỉ biết quy tất cả về chính mình. Và cuối cùng, một người có khả năng nói “Tôi xin lỗi” (hoặc trong những tầm mức nhỏ hơn là “Xin bỏ qua cho tôi”) có nghĩa là tạo ra bước đột phá khó khăn nhưng quan trọng để đạt đến sự hiểu biết về bản thân một cách vừa không tâng bốc vừa không khoa trương, là lấy hết can đảm để thừa nhận lỗi lầm của mình và quyết tâm khắc phục chúng.
Ngược lại, một người không được giáo dục về bốn câu nói cơ bản này và những khuynh hướng đằng sau chúng sẽ bị coi là một sự bất công nghiêm trọng, vì anh ta sẽ ngã lòng trong việc vượt thắng sự ích kỷ của mình, hoặc dẫn đến hậu quả tương tự như thế vì anh ta đã không nhận thức được sự thật về thân phận con người.
Bốn mục đích của Thánh lễ
Điều thú vị là bốn hướng đi dẫn đến sự phát triển đích thực của con người như trên có một điểm tương đồng đáng chú ý với thần học truyền thống về Thánh lễ. Cụ thể, nói “Tôi yêu bạn” ở nhà cũng tương tự như hành động thờ phượng diễn ra trong Thánh lễ, nói “Cám ơn” cũng giống như việc tạ ơn, nói “làm ơn” cũng tương tự như việc cầu xin và nói “Tôi xin lỗi” cũng giống như việc đền tạ.
Khi Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như một của lễ sống động, thì của lễ đó bao gồm một hành động thờ phượng vô tận đối với Chúa Cha, một hành động thờ phượng vô tận của việc tạ ơn Người, của việc cầu xin hoặc khẩn cầu thay cho chúng ta, và của việc đền tạ (hay còn được gọi là việc làm nguôi lòng hay chuộc tội) cho tội lỗi nhân loại. Về phần mình, bốn thành phần của hành vi thờ phượng trọn hảo này lại được Chúa Kitô tái hiện diện qua trung gian là linh mục của Người trong mỗi Thánh lễ. Và chúng ta, những tín hữu, tham dự Thánh lễ để được dự phần và được nuôi dưỡng nhờ những mục đích này. Chắc chắn là những hành động sùng kính của chúng ta không giống với những hành động của Chúa chúng ta. Ví dụ, sự chuộc tội của Chúa Kitô không bao gồm việc “Tôi xin lỗi” theo cách mà chúng ta phải làm, vì Người không có gì để phải tỏ lòng hối tiếc. Nhưng nỗ lực ít ỏi của chúng ta để bù đắp cho những lỗi tội của mình nơi một hành động chuộc tội đã trở nên có hiệu quả nhờ lòng bao dung vô bờ của Đấng đã chịu đóng đinh và phục sinh vì chúng ta, và từ đó sự gắn kết giữa Chúa Giêsu và chúng ta trở nên vô cùng sâu đậm.
Bốn sự khuấy động
Vì vậy, một lý do tại sao phép loại suy này lại có ý nghĩa là vì nó chỉ ra rằng Hy tế Thập giá – và mở rộng ra là Hy tế trên Bàn thờ – góp phần mạnh mẽ vào sự hoàn thiện siêu nhiên đối với tiềm năng tự nhiên hướng về điều thiện nơi chúng ta, cũng như phục hồi bản chất của chúng sau khi nó rời bỏ tình trạng hoàn hảo ban đầu.
Để minh chứng thêm cho điều này, chúng ta chỉ cần xem xét phạm vi cảm xúc cơ bản của con người dưới ánh sáng từ bốn “sự khuấy động” (perturbationes) của linh hồn: niềm vui, ước muốn, sợ hãi và đau buồn. Cách phân loại hữu ích này đã được Cicero sử dụng[3], chính ông đã mượn nó từ các nhà Khắc kỷ, và sau đó được các nhà tư tưởng Kitô giáo như Thánh Augustinô tiếp thu[4]. Bốn cảm xúc mà Cicero nói đến có mối quan hệ đáng chú ý với bốn câu nói mà chúng ta đã thảo luận cùng với bốn mục đích của Thánh lễ – chúng vốn không được sắp xếp ngay ngắn với nhau theo cùng một cách thức, nhưng các hành động thờ lạy, tạ ơn, cầu xin và đền tạ sẽ hoàn thiện những bản năng cơ bản nhất của chúng ta về niềm vui, ước muốn, sợ hãi và đau buồn.
Ước muốn
Ví dụ, ở cấp độ tự nhiên, khát vọng cá nhân thô sơ được nhân bản hóa và thăng hoa bằng hành động nói lời “Làm ơn” cách đơn giản và chân thành. Thay vì giành lấy những gì chúng ta muốn, chúng ta nhận ra được ranh giới của quyền sở hữu và khiêm tốn yêu cầu vẽ lại ranh giới đó; và khi làm như vậy, chúng ta từ bỏ tính bạo tàn của thói áp bức để đổi lấy sự nhã nhặn của phép lịch sự. Vì vậy, cầu xin ở mức tốt nhất là sự thăng hoa của ước muốn, không phải theo nghĩa kìm nén ham muốn tình dục của S. Freud mà theo nghĩa nguyên thủy là làm cho ước muốn trở nên cao thượng hoặc đáng quý.
Chính cảm giác thăng hoa này được thể hiện ở mức độ cao nhất trong Thánh lễ, nơi ước muốn cá nhân được hoàn thiện một cách siêu nhiên qua lời cầu xin đầy lòng vị tha đến mức tột cùng mà chúng ta thực hiện không chỉ cho chính mình mà còn cho tất cả mọi người, như Sách Giáo lý Baltimore nhắc nhở chúng ta. Điều này khác xa rất nhiều so với chủ nghĩa duy vật bịa đặt theo kiểu “Lời cầu nguyện của Jabez”, một tác phẩm của Bruce Wilkinson, trong đó các Kitô hữu được khuyến khích cầu nguyện cho những thứ rẻ tiền của cuộc sống này như thể họ chẳng có khao khát vĩnh cửu nào cả. Ngược lại, Thánh lễ hướng đến việc vừa mở rộng vừa sắp xếp lại các ước muốn của chúng ta để một mặt, những điều tốt đẹp hơn được ưu tiên hơn những điều thấp kém, và sau đó vượt trên cả những điều tốt đẹp đó về phương diện khác.
Điều này đặc biệt rõ ràng trong các Lời Tổng nguyện của Sách lễ Triđentinô dành cho các Chúa nhật sau Lễ Hiện xuống, một mùa trong năm phụng vụ tương ứng với kỷ nguyên của Giáo Hội. Các Lời Tổng nguyện này gợi lại một điểm cốt yếu mang tính định kỳ về việc tái định hình và nâng cao ước muốn của các tín hữu. Chẳng hạn, ngoài việc xin bạn cho những điều ta ước nguyện, các lời Tổng nguyện này còn cầu xin biến đổi điều chúng ta ước muốn: “làm cho chúng con yêu mến điều Chúa truyền dạy” (Chúa nhật XIII), “gắn chặt vào trái tim chúng con lòng yêu mến Danh Chúa” (Chúa nhật VI), “xin chúng con biết cầu xin những điều đẹp lòng Ngài” (Chúa nhật IX),… Và một khi ước muốn của chúng ta đã được biến đổi hoặc chuyển sang những điều tốt đẹp hơn muôn phần như thế, Giáo Hội tiếp tục quả quyết rằng Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên hết mọi sự sẽ ban cho chúng ta, như đã được nhắc đến trong Lời Tổng nguyện của Chúa nhật XI, những điều mà “lời chúng con cầu xin chẳng dám kêu lên”. Toàn bộ nền thần học về ước muốn, lời cầu xin và tính siêu việt như thế có lẽ không còn được diễn đạt một cách đẹp đẽ và cô đọng hơn ở nơi đâu khác ngoài Lời Tổng nguyện của Chúa nhật V sau Lễ Hiện Xuống:
Lạy Chúa, Đấng đã chuẩn bị cho kẻ yêu mến Chúa những điều tốt đẹp vượt quá trí hiểu: xin đổ vào lòng chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con biết yêu mến Chúa trong mọi sự và trên hết mọi sự, từ đó có thể đạt được những lời hứa của Chúa là những gì vượt trên hết điều chúng con có thể ước mong.
Điều này còn cần đến một nổ lực hơn nữa để mở ra các giả định đầy sắc thái của Lời Tổng nguyện liên quan đến mục đích sau cùng này nơi lòng trí con người và mối liên hệ của nó với trật tự được tạo ra cũng như với Đấng đã tạo ra trật tự đó; bấy nhiêu cũng đủ để nói rằng lời “làm ơn” trong khao khát của con người ở đây đang được chuyển sang một cấp độ hoàn toàn mới.
Sợ hãi và đau buồn
Mặt khác, nỗi sợ hãi và đau buồn đều được đề cập đến trong hành động xin lỗi và sửa đổi, cho dù chỉ khi những hành động đó là chân chính. Một lời xin lỗi không hoàn hảo chỉ bắt nguồn từ động cơ sợ hãi: Tôi xin lỗi bạn không phải vì tôi thực sự xin lỗi mà vì tôi sợ những gì bạn sẽ làm với tôi nếu tôi không xin lỗi. Ngược lại, lời xin lỗi hoàn hảo đi kèm với cảm xúc đau buồn: Tôi thấy rằng tôi đã làm tổn thương bạn theo một cách nào đó và phần tôi, tôi thực sự đau buồn vì sự việc này.
Nhưng một lời xin lỗi hoàn hảo cũng bao hàm nỗi sợ hãi, không phải sợ bị trả thù như trường hợp trước mà là sợ bị người thân xa lánh. Thánh Tôma phân biệt hai loại sợ hãi: một sự sợ hãi kiểu nô lệ, giống như một nô lệ sợ bị chủ trừng phạt; và một sự sợ hãi đáng quý hay khiêm cung[5], như nỗi sợ của một người chồng sợ làm điều gì đó với vợ mình vì sợ rằng cô ấy sẽ không tôn trọng anh ta, chứ không phải vì sợ rằng cô ấy sẽ đánh anh ta vì những gì anh ta đã làm. Trong khi nỗi sợ hãi kiểu nô lệ có vị trí của nó trong cuộc sống này (thậm chí nó đủ để thực hiện một hành động ăn năn sám hối, mặc dù đây là một hành động không hoàn hảo), nhưng rõ ràng nó thấp kém hơn nỗi sợ hãi với lòng khiêm cung vốn được thúc đẩy bởi một tình yêu to lớn hơn là sự tự vệ đơn thuần.
Và với sự thờ phượng Thiên Chúa cũng vậy, điều này giả định trước một sự đau buồn vì những bất công mà chúng ta đã phạm phải và một nỗi sợ hãi rằng chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta yêu mến và là Đấng đã làm rất nhiều điều cho chúng ta. Đúng vậy, nỗi sợ hãi đó có khi cũng bao hàm nỗi sợ hãi đơn thuần là phải sa hỏa ngục, linh cảm cho biết nếu tôi ngủ nướng vào ngày Chúa nhật thay vì tham dự Thánh lễ thì tôi đang phạm tội trọng; và nỗi sợ hãi đó, mặc dù có thể là cơ bản, cũng có thể thành công trong việc đưa tôi đến Thánh lễ và thậm chí mở ra cho tôi những ân sủng mà tôi có thể lãnh nhận được ở đó. Nhưng như Thánh Augustinô đã từng nhận xét một cách dí dỏm, “những người sợ phạm tội chỉ vì hỏa ngục, thì không phải là sợ phạm tội, mà là sợ bị thiêu đốt.” Giống như một người trưởng thành về mặt cảm xúc được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi cao quý hơn là nỗi sợ hãi kiểu nô lệ, thì một người trưởng thành về mặt thiêng liêng cũng sợ sức tàn phá nội tại của tội lỗi và ảnh hưởng của nó đối với tình bạn thân thiết giữa anh ta với Đấng Tạo Hóa, hơn là sự phán xét bên ngoài đang chờ đợi anh ta vào cuối cuộc đời mình.
Niềm vui
Cuối cùng, sự khuấy động của niềm vui đi kèm với những hành động chân thành như nói “Tôi yêu bạn” và “Cảm ơn”. Thật vậy, tình yêu không phải lúc nào cũng đi kèm với niềm hân hoan phấn khởi, vì những cam kết của tình yêu thường mang theo nỗi buồn và khó khăn. Tuy nhiên, theo một cách kỳ lạ, ngay cả nỗi đau của tình yêu cũng tốt hơn là sự vắng mặt của tình yêu (giả sử rằng chúng ta đang nói về tình yêu có trật tự và không phù phiếm), và chỉ nhờ tình yêu mà niềm vui đích thực mới được trải nghiệm.
Điều này cũng đúng đối với lòng biết ơn, mặc dù điều này không dễ để chúng ta nhận ra như trước đây. Đối với những nhà tư tưởng như Immanuel Kant, việc phải nói lời cảm ơn là một dịp đáng buồn hơn là đáng vui, vì theo tính toán của ông, lòng biết ơn nghĩa là mắc nợ, và mắc nợ là mối đe dọa đối với quyền tự chủ cá nhân, đối với nền triết học Kant và nền dân chủ tự do hiện đại.
Tuy nhiên, như Cha Paul McNellis S.J. đã chỉ ra rằng, một lối tư duy theo chủ nghĩa pháp chế như vậy đã bỏ qua tác động giải phóng mà các mối quan hệ rộng rãi của con người tạo nên đối với cá nhân[6]. Đối với người xưa, phản ứng thích hợp đối với sự phụ thuộc lẫn nhau của con người là kiền thành (pietas), đó là lòng tận tụy cao quý đối với gia đình, đất nước của một người và cuối cùng là đối với Thiên Chúa của người đó. Đây là một “món nợ” mà người ta rất vui mừng khi có được, vì nó dựa trên sự dư dật của cải mà người ta đã nhận được một cách không cân xứng. Hơn nữa, hành động ghi nhớ những lợi ích như thế chính là nguồn gốc của lòng biết ơn cách vui vẻ. Theo lời của Seneca:
Người vô ơn nhất là người đã quên đi điều thiện ích… không có khả năng trở nên một người biết ơn nếu người đó mất hết trí nhớ[7].
Do đó, lòng biết ơn không chỉ là một thành phần quan trọng trong phẩm chất đạo đức của một người, nó còn là biểu hiệu của khả năng lưu giữ thực tế nơi một người, nghĩa là khả năng ghi nhớ chính xác những lợi ích thực sự mà người đó đã nhận được từ người khác và đáp lại một cách phù hợp.
Và không cần phải nói, tất cả những điều này đều có ý nghĩa sâu sắc đối với việc tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh lễ, một hành động tưởng niệm (anamnesis) và ghi nhớ sơ đẳng nhất dành cho Người; và do đó tái hiện lại điều tốt đẹp nhất từng được ban tặng trong lịch sử loài người. Không có gì ngạc nhiên khi Thánh Tôma Aquinô lại xem lòng biết ơn là một nhân đức bắt nguồn từ tình yêu, một nhân đức hoàn toàn hợp lý mà không có giới hạn[8]. Và thật thích hợp và tốt đẹp biết bao khi những lời cuối của Thánh lễ, trong cả nghi thức cũ và mới, đều đơn giản là “Tạ ơn Chúa”.
Kết luận
Sự so sánh của chúng ta giữa mục đích của Thánh lễ và bốn điều tuyệt vời mà chúng ta học được khi còn nhỏ cũng mang lại một sự hiểu biết sâu sắc sau cùng về tầm quan trọng của Hy tế Thánh Thể. Việc nghĩ rằng “tham dự” Thánh lễ là một gánh nặng pháp lý do Giáo Hội áp đặt lên chúng ta là lối suy nghĩ cũng nghèo nàn như việc nghĩ rằng cung cách cư xử chỉ là sự mở rộng quyền lực và sự thất thường của bậc cha mẹ. Dù không mang đầy đủ ý nghĩa, nhưng cách cư xử này lại là công cụ định hướng cho chúng ta theo trật tự đã được định sẵn, và khi được sử dụng đúng cách, chúng sẽ giúp phát huy hết tiềm năng của chúng ta trong tư cách là con người. Cũng vậy, sự tôn thờ, tạ ơn, cầu xin và đền tạ mà chúng ta thực hiện trong Thánh lễ hướng chúng ta đến Đấng tạo dựng nên con người chúng ta, tất cả không chỉ thúc đẩy tiềm năng bẩm sinh của chúng ta mà còn khơi dậy khả năng kết hiệp với chính Thiên Chúa của chúng ta.
Để có thể nói những câu “Tôi xin lỗi,” “Tôi yêu bạn,” “Làm ơn,” và “Cảm ơn” với Thiên Chúa là Cha qua trung gian của Người Con và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì không chỉ là đặc ân duy nhất dành cho một tạo vật thấp hèn; đó còn là một hành động biến đổi đều đặn. Và với điều đó, chúng ta chỉ có thể nói, Deo gratias (Tạ ơn Chúa).
Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
(theo: CatholicEducation Resource Center)
[1] The New Saint Joseph Baltimore Catechism no. 2, explained by Rev. Bennet Kelly, C.P. (NY: Catholic Book Publishing Co., 1969) no. 361, p. 173.
[2] Mt. 18:23–34.
[3] De finibus 3.10.35; Disputationes Tusculanae 4.6.11.
[4] Confessions 10.13.22.
[5] Cf. Summa Theologiae II-II.19.4f, also I-II.67.4.ad 2; II-II.7.1.
[6] “Rights, Duties, and the Problem of Humility,” in Gladly to Learn and Gladly to Teach: Essays on Religion and Political Philosophy in Honor of Ernest L. Fortin, A.A., eds. Michael P. Foley and Douglas Kries (Lanham, MD: Lexington Books, 2002), pp. 125–143. The following paragraphs on gratitude are deeply indebted to Fr. McNellis’ article.
[7] De beneficiis 3.1, trans. John W. Basore, Loeb Classical Library (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1935), pp. 128–9.
[8] Summa Theologiae II-II.106.6.ad 2.