2023
Tại sao linh mục mặc áo lễ?
Áo lễ (chasuble) là một trang phục phụng vụ của linh mục, vốn không được chọn lựa cách ngẫu nhiên, nhưng có liên hệ đến Chúa Kitô.
Trong thánh lễ, linh mục luôn mặc một bộ lễ phục đặc biệt, được trang trí bằng các biểu tượng, có nhiều màu sắc khác nhau. Đây là một chiếc áo choàng (chasuble). Từ xa xưa, bất cứ khi nào một linh mục cử hành thánh lễ, ngài sẽ mặc một bộ áo lớn giống như một cái chăn choàng (được khoét lỗ ở giữa để chui đầu) gọi là casula (chasuble) để che phủ quần áo thường ngày của mình. Trang phục này có nguồn gốc từ trang phục Rôma bình thường của một nông dân. Người nông dân đội chiếc chăn choàng lớn này để bảo vệ mình khỏi gió, mưa hoặc thậm chí là nắng. Vào thế kỷ thứ 3, nó gắn liền với các Kitô hữu.
Khi xu hướng thời trang tiến triển, áo choàng không còn là trang phục thông thường nhưng luôn được các linh mục sử dụng. Dành riêng cho các thành viên của hàng giáo sĩ, nó bắt đầu được trang trí vào thế kỷ thứ VIII để phản ánh chức năng linh thánh của nó.
Nếu lúc đầu, áo lễ lớn và cồng kềnh, cần được giúp đỡ để tập hợp nhiều nếp gấp lại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc di chuyển của linh mục, thì theo thời gian, hình dạng của nó sẽ giảm đi.
Biểu tượng
Tính biểu tượng của áo lễ được thể hiện trong lời cầu nguyện truyền thống mà linh mục đọc trước khi mặc nó: « Domine, qui dixisti : Iugum meum suave est, et onus meum leve : fac, ut istud portare sic valeam, quod consequar tuam gratiam. Amen ». (« Lạy Chúa, Chúa đã phán: Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng: xin Chúa để con mặc trang phục này để nhận được ân sủng của Chúa. Amen. »).
Do đó, áo lễ nhắc lại “ách của Chúa Kitô”, và sự kiện linh mục là “một Chúa Kitô khác” trong hy tế thánh lễ. Ngài “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Eph 4, 24).
Hơn nữa, áo lễ còn tượng trưng cho “áo không đường khâu” mà Chúa Kitô đã mặc khi Người bị dẫn đi đóng đinh. Điều này càng làm nổi bật mối liên hệ giữa linh mục, thánh lễ và hy tế của Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hình trang trí phổ biến của áo lễ là một cây thánh giá lớn ở mặt sau hoặc mặt trước của áo. Màu sắc của bộ trang phục này được phối hợp với màu tượng trưng của mùa phụng vụ hoặc ngày lễ.
Đây là lý do tại sao Giáo hội vẫn giữ lại trang phục cổ xưa này, nhắc nhở linh mục (và dân Chúa) rằng Thánh lễ không phải là một sự kiện bình thường mà là một sự kiện linh thánh.
Tý Linh (theo Philip Kosloski, Aleteia)
2023
Năm bài giảng trong Tin mừng Mátthêu
Mỗi thánh sử miêu tả Đức Giêsu cách khác nhau: Máccô nhìn Đức Giêsu là một Con Người (Son of Man); Mátthêu: Vua người Dothái (King of Jews); Luca: Đấng Cứu Độ trần gian (Saviour of World); Gioan: Con Thiên Chúa (Son of God).
Vua thì phải có: nước, thần dân, và luật pháp. Mở đầu Cựu Ước là năm cuốn sách Luật, gọi là Ngũ Kinh. Mở đầu Tân Ước là Tin Mừng Mátthêu với năm bài giảng của Đức Giêsu. Điều này cho thấy thánh Mátthêu đã cố tình đưa độc giả của mình đến một nhận định so sánh đối chiếu giữa: Luật cũ và Luật mới, Luật của Môsê và Luật của Đức Giêsu. Thánh Mátthêu nhấn mạnh: Đức Giêsu đến để kiện toàn, chứ không hủy bỏ Lề Luật.
Năm Bài Giảng được thánh Mátthêu sắp xếp thật tài tình giữa những việc Đức Giêsu làm và những lời Đức Giêsu dạy, như một chiếc bánh mì kẹp thịt năm tầng mà thánh Mátthêu đã dọn ra và kêu mời chúng ta đến thưởng thức:
(1) Bài Giảng Trên Núi (chương 5 đến 7) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để Công Bố Nước Trời. Bài giảng này cho thấy cung cách hành xử của người công dân Nước Trời phải như thế nào: sống các mối phúc; Bố thí, cầu nguyện, ăn chay kín đáo; Không xét đoán, muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta, phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa…
(2) Bài Giảng về Sứ Mạng Truyền Giáo (chương 10) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để Rao Giảng Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: một khi đã gia nhập vào vương quốc của Thiên Chúa, thì việc đầu tiên phải làm là thi hành sứ mạng truyền giáo, như Đức Giêsu đã sai mười hai Tông Đồ đi rao giảng, tiên báo những cuộc bách hại, đừng sợ: hãy nói giữa ban ngày, từ bỏ chính mình để theo Chúa…
(3) Bài Giảng bằng Dụ Ngôn (chương 13) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: một niềm hy vọng tràn trề, cho dẫu, gieo 4 hạt, thì chỉ có 1 hạt vào đất tốt, nhưng, một hạt sẽ thu được 30, 60, và 100; Nước Trời như hạt cải bé nhỏ, nhưng, sẽ thành cây cao bóng cả; lúa tốt và cỏ lùng, cá tốt và cá xấu lẫn lộn với nhau, nhưng, đừng lo, hãy kiên nhẫn chờ đợi…
(4) Bài Giảng về Hội Thánh (chương 18) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để chuẩn bị cho Hội Thánh như Bước Khởi Đầu của Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: những kẻ bé mọn là những người lớn trong Nước Trời, đừng làm cớ cho những kẻ bé mọn sa ngã, tìm chiên lạc, sửa lỗi, tha thứ cho nhau…
(5) Bài Giảng về Thời Cánh Chung (chương 24 đến 25) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để tuyên bố Nước Trời: Triều Đại Thiên Chúa Đã Đến Gần. Bài giảng này cho thấy: những cơn đau đớn khởi đầu, khốn khổ tại Giêrusalem, cuộc quang lâm của Con Người, hiện tượng của ngày quang lâm, các dụ ngôn về canh thức sẵn sàng, cuộc phán xét chung…
Thánh Mátthêu nhìn Đức Giêsu là Vua người Dothái, ngài nhắc đến Cựu Ước nhiều hơn các sách Tin Mừng khác: có đến 29 lần trích dẫn được lấy trực tiếp từ Cựu Ước, và 121 lần ám chỉ đến Cựu Ước. Chỉ riêng trong trình thuật Giáng Sinh, cụm từ “Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ…” xuất hiện đến 13 lần.
Trong Vương Quốc của Thiên Chúa, chúng ta không chỉ là thần dân, mà còn là con cái của Cha trên trời. Vua của Vương Quốc cũng là Cha của chúng ta. Mátthêu nhắc đến “Cha” đến 44 lần, trong khi, Máccô chỉ có 4 lần, còn Luca thì 17 lần. Chúng ta phải ý thức rằng: chúng ta vừa là thần dân, vừa là con cái trong Nước Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền, chứ không như nô lệ khiếp sợ ông chủ hà khắc.
Năm Bài Giảng của Đức Giêsu được thánh Mátthêu xen kẽ giữa việc làm và lời dạy của Người. Điều này cho chúng ta thấy: nếu chúng ta chỉ chú ý đến những việc phải làm khi ở trong Vương Quốc của Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo như những người Pharisêu, chỉ chăm chăm giữ luật, mà quên mất tình yêu: tự biến mình thành nô lệ không bao giờ dám trái lệnh Cha như người con cả, mà quên mất ơn cứu độ là ơn hoàn toàn nhưng không, không do công trạng của chúng ta, nhưng, do bởi tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Cha trên trời.
Emmanuel Thanh Hiền, OSB
2023
Giải đáp thắc mắc: Xin đặc ân thánh Phaolô
Giải đáp thắc mắc: Xin đặc ân thánh Phaolô
Thưa cha:
Anh người yêu của con là một người lương (theo đạo Ông Bà). Anh ấy đã kết hôn với vợ là một người cũng theo đạo Ông Bà. Anh chị đã ly dị và đã có giấy chứng nhận ly hôn. Nay con muốn kết hôn với anh ấy, anh ấy đã học giáo lý, muốn gia nhập đạo Công giáo. Cha xứ hướng dẫn chúng con viết đơn xin đặc ân thánh Phaolô và đem nộp ở Văn phòng Hôn nhân nơi Tòa Giám mục. Thế nhưng đã hơn một năm, chúng con vẫn chưa nhận được kết quả. Xin cha cho biết lý do?
Một giáo dân ở giáo hạt Báo Đáp hỏi.
Giải đáp:
Đặc ân thánh Phaolô hệ tại ở việc cho tháo gỡ hôn nhân giữa hai người không được Rửa tội (người lương) vì lợi ích đức tin của một bên người lương được Rửa tội, “do chính sự kiện người ấy tái hôn, miễn là người không được Rửa tội chia tay người ấy” (đ. 1143).
Sở dĩ gọi là đặc ân thánh Phaolô, vì dựa trên uy tín của thánh Phaolô cho phép người tín hữu rời bỏ người bạn ngoài đạo Công giáo nếu người này ngăn trở việc giữ đạo của người muốn theo đạo Công giáo, nguyên văn trích từ thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 7,10-16. Theo thánh Phaolô, các người Kitô hữu không được phép ly dị, vì đó là điều Chúa truyền. Nhưng nếu là đôi hôn nhân giữa người Kitô hữu với người ngoài đạo, thì thánh Phaolô khuyến khích hãy cố gắng duy trì đời sống vợ chồng, vì biết đâu nhờ đó người ngoài đạo sẽ gia nhập đạo. Tuy nhiên, nếu người ngoài đạo đòi ly dị, thì thánh Phaolô dùng quyền của mình cho phép người Kitô hữu được ly dị.
Để có thể được hưởng đặc ân thánh Phaolô, đòi hỏi những điều kiện sau đây:
- Hai người lương đó đã kết hôn theo luật dân sự
- Một trong hai người muốn gia nhập đạo Công giáo
- Người bạn kia muốn chia tay
- Người muốn theo đạo Công giáo được ly dị và lập hôn thú mới.
“Người không chịu phép Rửa tội được kể là chia tay, nếu không muốn sống chung với người đã được Rửa tội hay không muốn sống chung hòa thuận mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa, trừ trường hợp sau khi chịu phép Rửa tội, người được Rửa tội đã gây ra nguyên nhân chính đáng để người kia được chia tay” (đ. 1143§2).
Điều kiện để “được kể là chia tay” phải được kiểm chứng qua sự chất vấn, theo điều 1144§1 quy định: “Để người được Rửa tội tái hôn thành sự, thì luôn luôn phải chất vấn người không chịu phép Rửa tội để biết:
1- người này có muốn được Rửa tội hay không;
2- ít là người này có muốn sống chung hòa thuận với người đã được Rửa tội mà xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa hay không.
Như thế, sự ly dị của hai người lương ở tòa án dân sự, cho dù có chứng thư ly dị cũng không đủ để kể là chia tay theo Giáo luật. Vì vậy, phải được phỏng vấn như Giáo luật quy định: Có muốn Rửa tội không, có muốn sống chung mà không xúc phạm đến Chúa không?
Trong trường hợp của bạn,
Văn phòng Hôn nhân phải điều tra và phỏng vấn để thỏa mãn điều kiện ban đặc ân.
+ Phỏng vấn anh ấy: Anh ta quen biết cô vợ cũ do đâu? Cưới nhau vì lý do gì? Trước và sau khi cưới có trục trặc gì? Nguyên nhân trục trặc do ai? Nếu có con, ai nuôi, việc cấp dưỡng phụ cấp nuôi con sẽ giải quyết thế nào? Để tìm hiểu hôn nhân của họ diễn ra tự nhiên, hay bị ép buộc, lừa đảo… trái tự nhiên. Nhất là nếu sự đổ vỡ hôn nhân là do anh ta: rượu chè, bài bạc, bạo lực… dẫn đến đổ vỡ thì Văn phòng hôn nhân phải cân nhắc để tránh sự đổ vỡ bất an khi anh ta kết hôn với người Công giáo. Nếu có lý do nguy hiểm cho hôn nhân của người Công giáo thì đặc ân cũng không được ban.
+ Phỏng vấn cô vợ cũ của anh ấy: Xác nhận lại nguyên nhân hai người kết hôn, nguyên nhân đổ vỡ dẫn đến ly dị. Hai người còn vướng mắc kinh tế, giấy tờ pháp lý, ràng buộc nợ nần… gì không? (Tuy Tòa án cho ly dị nhưng việc thi hành án đôi khi vẫn chưa xong). Cô ấy có muốn gia nhập đạo Công giáo không? Cô ấy có muốn tái hôn không (đôi khi sau khi ly dị, họ lại muốn tái hôn)? Nếu muốn tái hôn, vì lý do gì (đôi khi vì yêu thương nhau, vì con cái hay lý do chính đáng nào khác). Khi tái hôn họ có muốn sống chung mà không xúc phạm đến Thiên Chúa không? Có biết người nữ Công giáo mà anh ta sắp cưới không? (đôi khi vì chính người nữ Công giáo này lại là nguyên nhân làm cho hôn nhân của họ đổ vỡ, anh ta ly dị vợ để kết hôn với người nữ Công giáo này). Những điều trái quy định của Giáo luật xảy ra thì đặc ân cũng không được ban.
+ Phỏng vẫn người Công giáo sắp kết hôn với người lương đã ly dị: Bạn có chấp nhận hoàn cảnh của người lương ly dị, vấn đề nợ nần và trợ cấp nuôi con (nếu có). Vấn đề họ còn liên lạc với nhau có ảnh hưởng đến hôn nhân của bạn sau này không? Bạn có biết cô vợ cũ của anh ta không? Bạn có thấy nguy hiểm, bất an gì khi kết hôn với anh ta không?
Việc phỏng vấn cần rất nhiều thời gian, tùy thuộc vào sự cộng tác của người vợ cũ của anh ta, đôi khi cô ấy muốn kéo dài thời gian việc trả lời, còn nhiều điều chưa giải quyết xong. Nếu người đó ở xa, ở giáo phận khác, hoặc không liên lạc với đương sự một cách chắc chắn thì việc điều tra phỏng vấn cần nhiều thời gian hơn nữa. Văn phòng phải điều tra kỹ càng để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Bên cạnh đó, việc thử thách đức tin của người xin đặc ân cũng cần phải xét đến. ngoài thời gian 6 tháng đối với tân tòng theo quy định của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nếu người đó ở nước ngoài, việc điều tra khó khăn, thì Văn phòng hôn nhân cũng sẽ trình với Đức Giám mục để từ chối việc ban đặc ân.
2023
Huấn Lệnh Truyền Giáo
27.9
Thánh Vincentê de Phaolô, Lm
Er 9:5-9; Tb 13:2,3-4,6,7-8,6; Lc 9:1-6
Huấn Lệnh Truyền Giáo
Cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt Vinh-sơn để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà bấy giờ, việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi.
Chính nữ Bá Tước de Gondi (có người đầy tớ được Vinh-sơn giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Lúc đầu Cha Vinh-sơn quá khiêm tốn nên không nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai, hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh-sơn. Các linh mục này, với lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này Cha Vinh-sơn tổ chức các nhóm bác ái để trợ giúp tinh thần cũng như thể chất của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của Thánh Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái, “mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Balê để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, Vinh-sơn là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ “rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Ðức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh-sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ Thánh Vinh-sơn.
Loan báo Tin mừng Nước trời là sứ mệnh hàng đầu của Chúa Giêsu và của cả Giáo hội, Ngài đã đến trần gian và ở lại 33 năm là để thi hành sứ mệnh này. Kế tiếp Ngài, các người được Ngài mời gọi, đi theo, ở với và rồi được sai đi cũng mang trọng trách ấy cho đến “khi Chúa đến”.
Trước tiên, loan báo Tin mừng hệ tại việc “đi”: đi vào giữa lòng đời và đi ra vùng ngoại biên. Loan báo còn là làm chứng, thực hiện những dấu chỉ, trong đó có dấu chỉ chữa trị những vết thương tinh thần và cả thể lý của những kẻ môn đệ Chúa Kitô được sai đến. Lời loan báo, giới thiệu Tin mừng được đón nhận dễ dàng hơn khi có các dấu chỉ yêu thương, hy sinh, quảng đại… kèm theo. Điều này đòi hỏi các môn đệ phải nỗ lực thích nghi, sáng kiến trong sứ vụ. Nói cách khác, để chu toàn sứ mệnh, người môn đệ không thể ở yên một chỗ, nhưng phải di chuyển và đưa ra những kế hoạch cụ thể, thích hợp
Chúa Giêsu sai mười hai Tông đồ đi rao giảng Tin mừng để các ông được tham gia vào sứ mạng của Ngài. Đức Giêsu đã ban cho các ông năng lực làm phép lạ, chữa bệnh và quyền phép để xua trừ ma quỉ. Ngài cũng căn dặn các ông nhiều điều trước khi lên đường.
Lời căn dặn của Chúa Giêsu phải chăng muốn nói: khi rao giảng phải bỏ hết những đồ dùng, kể cả lương thực ? Thưa không, Ngài chỉ muốn nhấn mạnh rằng, với sứ mệnh loan báo Tin mừng, đừng để vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ mình. Nhưng, phải cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa và của Tin mừng thôi.
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật.
Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc. Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Thật ra, các tông đồ là các sứ giả được sai đi loan báo sứ điệp tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa đối với dân Người; bởi thế, Chúa muốn các ông phải là những người trước hết kinh nghiệm về sự quan phòng của Chúa và phải là những người sống tinh thần phó thác tuyệt đối vào Chúa. Có như vậy, lời rao giảng của các ông mới có giá trị.