2023
Thứ sáu tuần VIII thường niên
Thứ sáu tuần VIII thường niên
Ca nhập lễ
Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi, bởi vì Người thương tôi.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, xin an bài cho mọi việc ở trần gian luôn diễn tiến trong hoà bình trật tự, để tất cả chúng con được nhờ, và Hội Thánh được an vui thờ phượng Chúa. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Hc 44, 1. 9-13
“Cha ông chúng ta là những người biết xót thương người, danh tiếng tồn tại từ đời nọ sang đời kia”.
Trích sách Huấn Ca.
Chúng ta hãy ca tụng những vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại. Có những người không ai nhớ đến nữa: Họ qua đi như không bao giờ có họ, họ sinh ra như thể không có họ sinh ra, và con cháu của họ cũng thế. Nhưng có những người nhân hậu mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.
Xướng: Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
Xướng: Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! – Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phơi bày tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 11, 11-26
“Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc. Các ngươi hãy tin vào Thiên Chúa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Khi nghe dân chúng hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: “Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa”. Và các môn đệ đã nghe Người nói.
Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: “Nào chẳng có lời chép rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dận tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”. Ðiều đó đến tai các trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.
Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi”. Chúa Giêsu đáp: “Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: “Hãy dời đi và gieo mình xuống biển”, mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội cho các con”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã ban cho chúng con của lễ này để dâng lên Chúa, thế mà Chúa lại thương coi đó là biểu hiện lòng thành của chúng con; xin cho của lễ Chúa ban tặng mang lại cho chúng con phần thưởng là hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Trong Chúa, chúng con được thực hiện, được sống và hoạt động. Và khi được tạo dựng với thân xác này, hằng ngày chúng con không những cảm nghiện được hiệu quả của lòng Chúa xót thương mà còn được bảo đảm hưởng sự sống muôn đời.
Vì khi chúng con nhận lãnh Chúa Thánh Thần như ân huệ khởi đầu, nhờ Người, Chúa đã làm cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại, chúng con hy vọng được muôn đời hưởng Mầu nhiện Vượt Qua.
Bởi vậy, trong khi cử hành lễ hân hoan này, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tôi sẽ hát mừng Chúa, vì Chúa ban ân huệ cho tôi,và tôi sẽ ca khen thánh danh Chúa là Đấng Tối Cao.
Hoặc đọc:
Chúa phán: “Này đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa rất nhân hậu từ bi, Chúa đã cho chúng con dự tiệc Thánh Thể, ước chi tiệc Thánh Thể này sau khi đã nuôi dưỡng chúng con trên đường dương thế, cũng đưa chúng con về quê trời hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
2023
Ban Thánh nhạc: Bản ghi nhớ để thực hiện việc hát cộng đồng trong phụng vụ
Ủy ban Thánh nhạc: Bản ghi nhớ để thực hiện việc hát cộng đồng trong phụng vụ
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
ỦY BAN THÁNH NHẠC
BẢN GHI NHỚ ĐỂ THỰC HIỆN
VIỆC HÁT CỘNG ĐỒNG TRONG PHỤNG VỤ
Hội thảo Thánh nhạc Toàn quốc lần thứ 50 với chủ đề Nhận định và góp ý về việc ca hát của cộng đoàn phụng vụ đã diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25-4-2023. Với sự hiện diện và đồng hành của Đức cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc và cha Phêrô Kim Long, nguyên Phó chủ tịch, các Ban Thánh nhạc thuộc các Giáo phận đã chia sẻ về việc hát cộng đồng trong phụng vụ.
Các hội thảo viên đã thảo luận về các bản tường trình của các Giáo phận (Bà Rịa, Bắc Ninh, Bùi Chu, Đà Lạt, Hà Nội, Huế, Hưng Hóa, Mỹ Tho, Phan Thiết, Phát Diệm, Phú Cường, Qui Nhơn, Sài Gòn, Xuân Lộc) và đúc kết như sau:
- Nhận định:
- Trong phụng vụ, toàn thể việc phụng tự công cộng được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là Đầu cùng các chi thể của Người. Bản chất của phụng vụ đòi hỏi mọi người tham dự vào các việc cử hành phụng vụ cách ý thức và tích cực – đây là quyền lợi và bổn phận của mọi Kitô hữu nhờ được lãnh nhận phép Rửa tội.Hát cộng đồng là phương thế hàng đầu để có được sự tham dự trọn vẹn này.
- Ca đoàn hỗ trợ chứ không thay thế cộng đoàn.
- Cộng đoàn phụng vụ Việt Nam có được những thuận lợi: tín hữu thích hát và có khả năng hát, có nhiều bài hát cộng đồng, có dồi dào các phương tiện công nghệ.
- Và cũng có những khó khăn: nhiều cộng đoàn thiếu người chọn bài hát đúng phụng vụ và tập hát; nhịp sống đời thường khiến dân chúng khó dành thời giờ cho việc tập hát; nhiều ca đoàn quá chú trọng đến việc hát bài mới nhưng thiếu tính cộng đồng; một số nơi chưa có được sự chăm sóc mục vụ thánh nhạc đúng mức.
- Giải pháp thực hiện:
- Quan tâm đến cả hai thành phần: cộng đoàn và ca đoàn – vừa cổ võ việc đồng thanh ca hát của cộng đoàn, vừa khích lệ ca đoàn trau chuốt những bài ca có nghệ thuật cao.
- Chọn cho cộng đoàn bài hát mới hay cũ có ca từ chính xác, dễ hiểu, với giai điệu dễ hát và dễ nhớ.
- Chọn lựa hài hòa các bài hát cho các đại lễ và các Thánh lễ có nghi thức riêng, vì đây là dịp thuận tiện nhất để cả cộng đoàn và ca đoàn đều có thời gian để ca hát.
- Tạo lập dần dần sự thống nhất từ cấp giáo xứ đến tầm mức toàn quốc ở các bài ca cho những phần thường lễ mà giáo dân được đồng thanh ca hát (những phần đối đáp, bộ lễ, lời tung hô sau truyền phép, vinh tụng ca Amen kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, kinh Lạy Cha) và các bài ca cho các phần riêng (thánh vịnh đáp ca, Alleluia).
- Soạn thảo danh sách đề nghị các bài ca phụng vụ cho từng Chúa nhật và Lễ trọng với tỉ lệ đáng kể dành cho việc hát cộng đồng.
- Ban hành những chỉ thị chi tiết và cụ thể về mục vụ thánh nhạc cho cộng đoàn và ca đoàn.
TP.HCM, ngày 25 tháng 4 năm 2023
Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc
(đã ấn ký)
† Aloisiô Nguyễn Hùng Vị
Giám mục Giáo phận Kontum
Thư ký Ủy ban Thánh nhạc
(đã ký)
Lm. Rôcô Nguyễn Duy
2023
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
1.6 Thánh Justin, Tđ
Hc 42:15-25; Tv 33:2-3,4-5,6-7,8-9; Mc 10:46-52
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Ðấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quý trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn.
Sách ngôn sứ Giêrêmia kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Chúa Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
Hôm nay, nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Chúa Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Chúa Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng.
Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
2023
Hỏa Ngục Có Phải Là Một Nơi?
Hỏa Ngục Có Phải Là Một Nơi?
Hỏa ngục ở đâu? Nếu bạn đào sâu xuống dưới lòng đất, xuyên qua lớp vỏ bề mặt và lớp vỏ mắc ma (magna), bạn sẽ tới lõi sắt của trái đất, nhưng sẽ không tìm thấy Ma Quỷ và tay sai của hắn. Hỏa ngục không có vị trí trong không gian, không có kinh độ hoặc vĩ độ. Không GPS nào có thể tìm thấy và cũng không có mã ZIP, hoặc mã vùng hoặc URL.
Tuy nhiên, hỏa ngục là có thật. Bách khoa toàn thư Công giáo (The Catholic Encyclopedia) trích dẫn lời thánh Gioan Kim Khẩu [John Chrysostom (347–407 AD)] nói với chúng ta rằng “Chúng ta không nên hỏi hỏa ngục ở đâu, nhưng nên hỏi làm thế nào chúng ta thoát khỏi đó.” Chúa Giêsu cảnh báo về lửa hỏa ngục (tiếng Do Thái gọi là Gehenna) ít nhất mười lăm lần trong các sách Tin Mừng. Tiếng Hy Lạp sử dụng hai từ cho hỏa ngục là hádés và géenna. Cũng vậy, tiếng Do Thái sử dụng tương ứng với hai từ Sheol và Gehenna. Từ đầu tiên chỉ nơi cư ngụ tạm thời của người đã chết, và từ thứ hai là một nơi ở vĩnh viễn. Tuy nhiên, tiếng Anh sử dụng một từ để diễn tả cả hai: hỏa ngục. Cách duy nhất để chúng ta phân biệt là một từ để nói về “hỏa ngục của người chết” và từ còn lại để nói về “hỏa ngục của người bị kết án đời đời”.
Sau tội nguyên tổ, không một linh hồn nào có thể lên thiên đàng cho đến khi loài người được Đấng Cứu Thế, là đức Giê-su Ki-tô cứu chuộc. Chỉ có kẻ dữ mới đáng bị án phạt đời đời trong hỏa ngục, nhưng nếu họ không thể lên thiên đàng, mà lại không quá xấu để phải xuống hỏa ngục, thì họ đã đi về đâu? Điều gì đã xảy ra với A-Đam và E-và, Ab-ra-ham và Sa-ra, I-sa-ác, Gia-cóp, Giu-se, Ra-khen, Rút, Ét-te, Giút …? Các nhà thần học sử dụng thuật ngữ “hỏa ngục của người chết” để mô tả nơi các vị anh hùng tốt lành và đạo hạnh này của thời Cựu Ước đã đến và đợi hằng thế kỷ cho đến khi đấng Mê-si-a xuất hiện.
Tuy nhiên, kẻ dữ phải sa “hỏa ngục đời đời”. Đây là nơi ban đầu được tạo ra cho ma quỷ và và các sứ thần của nó. Thiên Chúa chỉ tạo ra những thiên thần tốt, nhưng một phần ba trong số họ đã ra hư hỏng vì ý chí tự do của mình. Lu-xi-phe là một trong những thiên thần thông minh nhất trong số đó. Mi-ca-e, Ga-ri-en, và Ra-pha-en (các tổng lãnh thiên thần) là một phần của hai phần ba các thiên thần đã chọn sự thiện. Những thiên thần xấu, Lucifer, Bê-en-dê-bun, As-mo-đê-us, và Lê-vi-a-than, trở thành những thiên thần “sa ngã”, và hỏa ngục được tạo ra cho chúng như là nơi ở vĩnh viễn; đó là một nơi rất khó chịu, đặc trưng bởi sự đau khổ triền miên, vì hoàn toàn vắng bóng tình yêu.
“Đau khổ của hỏa ngục” (poenae inferni) có hai loại. Đau khổ của mất mát (poena damni) là đau khổ vì vĩnh viễn xa cách Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Thiên Chúa là sự viên mãn những gì linh hồn con người khao khát và ước muốn – về căn bản, đó là chân lý và sự thiện – Hai điều này là đối tượng của của lý trí và ý chí. Lý trí tìm kiếm chân lý, và ý chí tìm kiếm điều thiện hảo; Cả lý trí và ý chí chỉ hoàn toàn thỏa mãn và trọn vẹn trong Thiên Chúa, Đấng là Chân Lý và Sự Toàn Thiện (summum bonum). Không bao giờ có được điều và chỉ điều duy nhất có thể khiến bạn hạnh phúc vĩnh cửu là đau khổ của mất mát. Đau đớn giác quan (poena sensus) là đau khổ thể chất đi kèm với đau khổ mất mát. Đó cũng chính là “lửa” và “khóc lóc nghiến răng”, là sự tra tấn và đau khổ phải chịu trong hỏa ngục – đặc biệt sau khi cơ thể được hợp nhất với linh hồn sau phục sinh.
Lửa là cách nói ẩn dụ, vì linh hồn phi vật chất nên không thể bị thiêu đốt, nhưng thân xác phục sinh có thể cảm nhận được đau đớn của sức nóng dữ dội và vĩnh viễn. Điều đó có nghĩa là những người trong hỏa ngục sẽ phải chịu khổ hình mãi mãi; sẽ không có dấu chấm hết cho sự trừng phạt. Hình phạt vĩnh viễn là một trong những lý do đáng để tránh sa hỏa ngục bằng mọi giá. Tuân thủ đèn đỏ và giới hạn tốc độ là một cách tốt để tránh tai nạn và tử vong, nhưng một động cơ khác là cảnh sát có thể lẩn trốn đâu đó và sẵn sàng phạt bạn chạy quá tốc độ. Cũng vậy, sợ hãi hỏa ngục có thể không phải là lý do tốt nhất để tránh phạm tội (do đó, nó được gọi là sám hối chưa trọn), nhưng cũng có thể là một lý do đủ. Lý do tốt nhất để tránh phạm tội hay để sám hối khi chúng ta phạm tội là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (gọi là sám hối cách trọn).
Đàng khác, thiên đàng hoàn toàn ngược lại. Hỏa ngục cô đơn, không phải vì không có ai ở đó, nhưng là vì mọi người ở đó thù ghét lẫn nhau. Mọi người trong hỏa ngục muốn được ở một mình; mọi người trên thiên đàng hạnh phúc vì có những người khác ở đó. Về căn bản, các linh hồn trên thiên đàng được ơn “phúc kiến”. Giáo lý Công Giáo số 1028 định nghĩa: “Thiên Chúa siêu việt, nên ta chỉ thấy được Người khi chính Người mặc khải mầu nhiệm cho ta chiêm ngưỡng và khi Người ban cho ta khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong vinh quang Thiên Quốc được Hội Thánh gọi là “phúc kiến”. Nói cách khác, phúc kiến là biết Thiên Chúa trực tiếp và ngay lập tức, nhìn thấy Người diện đối diện và ở trong sự hiện diện của Người mọi lúc. Hiệu năng của ơn phúc kiến này là hạnh phúc vĩnh cửu và niềm vui bất tận.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 71-73.