2023
Thứ Ba Tuần XXXI – Mùa Thường Niên
Thứ Ba Tuần XXXI – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 37,22-23
Muôn lạy Chúa, xin đừng bỏ mặc,
đừng nỡ xa con, lạy Thiên Chúa con thờ.
Lạy Chúa cứu độ con, xin Ngài mau phù trợ.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin giúp đỡ chúng con thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa và không bị vấp ngã trên đường. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
5 Thưa anh em, chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. 6 Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. 7 Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. 8 Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.
9 Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành ; 10 thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình ; 11 nhiệt thành, không trễ nải ; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. 12 Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. 13 Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.
14 Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa : 15 vui với người vui, khóc với người khóc. 16a Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.
Đáp ca
Tv 130,1.2.3
Đ.Hồn con xin Chúa giữ gìn,
nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi.
1Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi !
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
Đ.Hồn con xin Chúa giữ gìn,
nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi.
2Hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Đ.Hồn con xin Chúa giữ gìn,
nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi.
3Cậy vào Chúa, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Đ.Hồn con xin Chúa giữ gìn,
nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi.
Tung hô Tin Mừng
Mt 11,28
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 14,15-24
Hãy ra các ngả đường, ép người ta vào đầy nhà cho ta.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
15 Khi ấy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su rằng : “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa !” 16 Người đáp : “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng : ‘Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn.’ 18 Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói : ‘Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm ; cho tôi xin kiếu.’ 19 Người khác nói : ‘Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây ; cho tôi xin kiếu.’ 20 Người khác nói : ‘Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.’
21 “Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng : ‘Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây.’ 22 Đầy tớ nói : ‘Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.’ 23 Ông chủ bảo người đầy tớ : ‘Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi nói cho các anh biết : Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi’.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho bánh rượu chúng con dâng trở nên của lễ tinh tuyền trước nhan Chúa và đem lại cho chúng con nguồn ơn phúc dồi dào. Chúng con cầu xin…
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa được Mình và Máu Ðức Kitô bồi dưỡng, xin Chúa tăng cường hoạt động nơi chúng con, để chúng con được sẵn sàng lãnh nhận những ơn lành Chúa hứa cho những ai tham dự bí tích này. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì lượng từ bi, Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Ðấng Cứu Chuộc đến với chúng con. Người vô tội mà Chúa muốn Người sống như chúng con, để Chúa yêu thương nơi chúng con/ điều Chúa quý mến nơi Con Chúa. Nhờ sự vâng phục của Người, chúng con được phục hồi để lãnh nhận những ơn Chúa mà chúng con đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Vì thế, lạy Chúa cùng với toàn thể Thiên thầnvà các thánh, chúng con tuyên xưng Chúa và hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 15,11
Lạy Chúa,
Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống :
Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa được Mình và Máu Ðức Kitô bồi dưỡng, xin Chúa tăng cường hoạt động nơi chúng con, để chúng con được sẵn sàng lãnh nhận những ơn lành Chúa hứa cho những ai tham dự bí tích này. Chúng con cầu xin…
2023
Tầm quan trọng của âm nhạc và nền tảng Kinh thánh
“Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài thương cứu độ. Rồi chúng con sẽ ngày ngày xướng hoạ đàn ca trong nhà ĐỨC CHÚA, suốt cả cuộc đời” (Is 38,20).
“Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới, tán tụng Người đi, từ cùng cõi địa cầu!” (Is 42, 10).
Tính khách quan của âm nhạc có khả năng làm phát sinh nơi chủ thể những phản ứng cụ thể, mà vào thời điểm đó nó được đặt với cái tên là Affetti, và chỉ có nghệ thuật này mới cho phép. Nhưng theo cách giải thích của Hegel, nguyên tắc chủ thể tính đã trở nên như một phần của tôn giáo. Như chúng ta đã biết, người Tin lành đã dựa vào chính nguyên tắc này. Do đó, theo Hegel, sự trao đổi khách thể-chủ thể này cho phép một sự tổng hợp tuyệt vời, giúp đưa ý thức chủ thể đến gần hơn với nguyên lý tuyệt đối của nó. Nói cách khác, âm nhạc là một trong những phương tiện được Thiên Chúa ban cho chúng ta để tôn vinh danh Ngài, để tích cực tham gia vào vẻ đẹp và sự hài hòa của việc sáng tạo. Thực vậy đã có lời chép rằng “Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!” (Tv 150, 6).
Diễn tả đầu tiên về sức mạnh của âm nhạc có thể được rút ra từ sách Sử biên niên (5, 13-14), được trình bày như sau : “Họ thổi kèn và ca hát, cùng nhau cất tiếng tung hô và ngợi khen ĐỨC CHÚA. Họ cất tiếng hát cùng với tiếng kèn, tiếng não bạt và các nhạc cụ khác, để tung hô ĐỨC CHÚA, “vì Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Vậy khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ ĐỨC CHÚA. Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây. Quả thật, vinh quang ĐỨC CHÚA đã tràn ngập Đền Thờ của Thiên Chúa”.
Từ đoạn vừa đọc trên chúng ta thấy xuất hiện một nét đặc thù trong Kinh thánh : Âm thanh thường được nối kết với sức mạnh của Thiên Chúa. Một biểu tượng giữa mọi biểu tượng, không cần phải bình luận, đó là âm thanh ra trận của kèn Trumpet. Chúng ta thấy nhạc cụ này xuất hiện qua những đoạn thánh kinh sau: Xuất hành 19,13; 19,16; 19,19; 20,18; Lêvi 25,9; Dân số 10,4; Giôsuê 6,5; 6,20; Thẩm phán 3,27; 6,34; 7,16; 7,18; 1Samuel 13,3; 2Samuel 2,28; 6,15; 15,10; 18,16; 20,1; 20,22; 1Vua 1,34; 1,39; 1,41; Nêhêmia 4,18; 4,20; Gióp 39,24; Thánh vịnh 47,5; 81,3; 150,3; Isaia 18,3; 27,13; 58,1; Giêrêmia 4,5; 4,19; 4,21; 6,1; 6,17; 42,14; 51,27; Êzêkien 7,14; 33,3-6; Hôsê 5,8; 8,1; Gioel 2,1; 2,15; Amos 2,2; 3,6; Sôphônia 1,16; Zacaria 9,14; Matthêu 6,2; 24,31; 1Côrintô 14,8; 15,52; Do thái 12,19; Khải huyền 1,10; 4,1; 8,13; 9,14.
Những đoạn đề cập đến việc ca ngợi Thiên Chúa có rất nhiều trong bộ Thánh vịnh. Liệt kê ở đây một danh sách, không phải là tất cả, nhưng hy vọng có thể giúp ích cho những ai muốn tham chiếu: Xuất hành 15,1; 15,21; 32,18; Dân số 21,17; Thẩm phán 5,3; 1Samuel 21,11; 2Samuel 22,50; 1Sử biên niên 16,9; 16,23; 16,33; 2Sử biên niên 20,22; 23,13; 29,30; Gióp 29,13; Thánh vịnh 7,17; 9,2; 9,11; 13,6; 18,49;21,13; 27,6; 30,4; 30,12; 33,2-3; 47,6-7; 51,14; 57,7; 57,9; 59,16-17; 61,8; 65,13; 66,2; 66,4; 67,4; 68,4; 68,32; 71,22-23; 75,9; 81,1; 89,1; 92,1; 95,1; 96,1,2; 98,1,4,5; 101,1; 104,12, 33; 105,2; 108,1, 3; 135,3; 137,3,4; 138,1,5; 144,9; 145,7; 146,2; 147,1,7; 149,1,3,5; Châm ngôn 29,6; Isaia 5,1; 12,5; 24,14; 26,19; 27,2; 35,6; 38,20; 42,10; 42,11; 44,23; 49,13; 52,8; 52,9; 65,14; 20,13; Giêrêmia 31,7,12; 51,48; Êzêkien 27,25; Hôsê 2,15; Sôphônia 3,14; Zacaria 2,10; Rôma 15,9; 1Côrintô 14,15; Do Thái 2,12; Giacôbê 5,13; Khải huyền 15,3.
Một số người lưu ý rằng trong sách Đanien 3,10.15 âm nhạc trở thành công cụ cho việc tôn thờ ngẫu tượng. Sự quyến rũ đầy nguy hiểm của âm nhạc được thánh Augustinô, Luther, Calvin và một số người khác cảnh báo trước. Mỗi người có mỗi phản ứng khác nhau: ác cảm nổi tiếng ban đầu đối với đàn organ của Luther, lệnh cấm âm nhạc của Calvin…., Tuy nhiên, tất cả đều phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên : Âm nhạc cũng như bất kỳ phương tiện nào của sự sáng tạo tự nó không có gì nguy hiểm, nhưng vấn đề là nó được sử dụng như thế nào. Luther khẳng định rằng : Giới trẻ cần phải thay thế các bài hát thô tục của họ, và thay vào đó là học những bài hát mang tính giáo dục và học cách tiếp cận những điều tốt đẹp phù hợp với họ. Vấn đề thực sự ở đây, như đã nói, âm nhạc không phải là như vậy, nhưng đó là quà tặng của Thiên Chúa vì vậy nên đi kèm với các bản văn phù hợp với đặc quyền này. Cho nên âm nhạc chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa.
Trong lĩnh vực cải cách, sau này, Martin Luther đã coi âm nhạc là một hình thức diễn đạt tôn giáo có tầm quan trọng to lớn về mặt giáo lý. Đối với nhà cải cách, cũng như đối với Thánh Augustinô, hát là cầu nguyện hai lần. Bài ca cho phép qui tụ các tín hữu, những người mà thời đó hầu hết là thất học, dễ dàng tìm hiểu các chủ đề đức tin kitô giáo, vì lúc bấy giờ ca từ của Lieder bằng tiếng Đức. Muốn thực hiện một so sánh, cả hai đều thực hiện chức năng tương tự, nhưng với mục đích và khái niệm thần học khác biệt, giống như những bức tranh khảm và tranh vẽ bên trong các nhà thờ Công giáo. Hơn nữa, âm nhạc, trong bản chất của nó, đã tạo nên sự liên đới (Koiné) sâu sắc giữa cộng đoàn các tín hữu.
Giờ đây chúng ta xem thử các nhà cải cách nói gì về tầm quan trọng của âm nhạc: Âm nhạc phần nào đó như một kỷ luật giúp con người thêm nhẫn nại và dịu dàng, giản dị và biết điều hơn. Người khinh miệt nó, hành động như những kẻ cuồng tín, thì không thể đồng ý về quan điểm này. Âm nhạc là quà tặng của Thiên Chúa chứ không phải của con người. Âm nhạc xua đuổi điều xấu xa và đem lại hạnh phúc. Nhờ âm nhạc mà người ta quên đi mệt nhọc và tất cả mọi tật xấu. Cho nên âm nhạc hoàn toàn làm cho chúng ta tin vào điều mà tôi nói và không có bất cứ nỗi lo sợ nào khi nói về nó. Xét về quan điểm thần học thì không có nghệ thuật nào có thể tồn tại như âm nhạc […] Âm nhạc tuyệt đối cần phải bảo tồn trong các trường học […] cần tập cho những người trẻ có thói quen về nghệ thuật này […]. Ca hát là nghệ thuật tuyệt vời và sự rèn luyện đúng đắn […] Ai biết ca hát thì không bỏ cuộc, không bất mãn và không buồn rầu. Âm nhạc thì vui tươi và xua tan các mối lo bằng những bài ca (Thư gửi cho các nhạc sĩ, 1530).
Nhưng ngay cả trước Luther, một đồ đệ thuộc trường phái Augustinô nói về bài thánh ca được thánh Augustinô ca ngợi: “Tôi cảm thấy linh hồn của chúng tôi bay lên trong ngọn lửa thương xót với nhiệt tâm và lòng sùng mến lớn lao đối với những lời ca thánh thiện, khi chúng đi kèm với bài ca, và tất cả những cảm xúc khác nhau trong tâm hồn tìm thấy nơi bài ca nét diễn đạt của riêng nó, làm thức tỉnh các linh hồn (Tự thú, lib. X, c. 33).
Luther đã thực hiện dự án của mình, chỉ làm Vinh Danh Thiên Chúa, qua hợp xướng: một hình thức hát đơn giản nhưng diễn cảm. Tên gọi “hợp xướng” là một tính từ được sử dụng như danh từ có nguồn gốc từ chữ «cantus choralis», tức là một giai điệu, thường là đồng âm, ban đầu được thực hiện bằng đồng giọng mà không có nhạc đệm.
Theo dòng ký ức, chúng ta tóm lược cách ngắn gọn nguồn gốc và ý nghĩa của hợp xướng trong phụng vụ Tin lành. Các bản hợp xướng, không giống như các bài thánh ca Công giáo, không được viết bằng tiếng Latinh, điều này nhằm khuyến khích sự tham gia tối đa của các tín hữu. Vua Louis II (855-875) phàn nàn về sự tham gia ít ỏi của cộng đoàn tín hữu trong thánh lễ; trong “Capitula Ecclesiastica” (năm 856), ông đã nói: Tertium intimandum, ut ad salutationes sacerdotales congrue responsiones discantur, ubi non solum clerici et Deo dicatae sacerdoti responsionem offerant, sed omnis plebes devota consona voce respondere debet. [Điểm thứ ba cần nói là, hãy học cách đáp lại lời chào của linh mục một cách thích hợp, ở đây không phải chỉ các giáo sĩ và những người tận hiến cho Chúa mới đáp lại linh mục, mà cả cộng đoàn tín hữu nên đồng thanh đáp lại].
Từ góc độ âm nhạc, bài ca phụng vụ này ban đầu là đơn âm, mặc dù được hát bằng nhiều giọng: tối đa là có một vox organalis, chuyển động song song, một quãng 4 hoặc 5[1]. Nó bắt nguồn từ phụng vụ “secundum uso romanum” được hát theo cách dùng giai điệu, tức là bằng concentus, đối lại “accentus”, cách hát gần giống với kiểu hát nói – ngâm tụng. Dựa theo sự tiến bộ của kỹ thuật âm nhạc, hợp xướng phát triển thành nhiều hình thức khác nhau: đơn âm, đa âm dạng motet và dạng hòa âm. Nhiều bài hát bằng tiếng địa phương, từ bài của Minnesänger đến bài sám hối và thậm chí cả những bài quân sự, sau này đã trở thành hợp xướng. Do đó, nguồn gốc của hợp xướng này có từ rất lâu trước sự cải cách. Ở dạng hoàn chỉnh, chúng ta có các bản Lied bắt đầu từ thế kỷ XI. Sự phát triển sôi động của những bài hát tôn giáo trong giai đoạn này được minh chứng, một cách gián tiếp, qua các lệnh cấm khác nhau của Giáo hội, được ban hành bởi các hội nghị công giáo Basilê (1435) và Eichstatt (1446), qua các thượng hội đồng ở Praha (1406) và Schwerin (1492). Trong thực tế, hình thức duy nhất của bài ca phụng vụ được chấp nhận là thánh ca Latin-Gregoriano.
Vì vậy, Luther không làm gì, hầu như không có phát minh gì trong việc tổ chức phụng vụ mới, có thể ông đã dựa trên một truyền thống đã được phổ biến trong dân chúng; có lẽ đó là con đường trực tiếp mau thấy nhất, và thậm chí ông cũng không nghĩ ra rằng mọi người có thể hát được thánh ca Grêgôriô khó. Nói về việc soạn thảo, hợp xướng và tuyển tập thánh ca (Gesangbücher) vào lúc này, từ phía Luther nói riêng hoặc của Giáo hội Tin lành nói chung, không nằm trong ý định của bài viết này. Chúng ta chỉ nói thêm là hình thức hợp xướng đã đạt đến đỉnh huy hoàng nhất của nó nhờ một trong những nghệ sĩ nổi tiếng của mọi thời đại là : Johann Sebastian Bach (1685- 1750).
Để kết thúc, chúng tôi muốn tóm kết tư tưởng của thánh Tôma Aquinô về đề tài này, ngay cả khi nó không hoàn toàn thuộc bối cảnh của chúng ta, chỉ vì nó theo sát thánh Augustinô. Trong Tổng Luận Thần Học (IIa IIae, q.91, a.2), Thánh Tôma đưa ra thắc mắc rằng liệu việc dâng lời ca tụng Thiên Chúa có cần thiết phải hát không. Câu trả lời bắt đầu từ tiền đề là mục đích của con người là yêu mến Thiên Chúa. Ngài nói rằng thật chính đáng khi dùng mọi thứ có thể để giúp chúng ta củng cố tình yêu này. Ca hát hay âm nhạc là phương tiện phù hợp nhất, bởi vì, trong phạm trù cảm xúc, sự sáng tạo thiêng liêng thì hướng về cái thiêng liêng nhất. Hơn nữa, tất cả những gì được Thiên Chúa tạo nên đều được chuẩn bị cho vinh danh Ngài, vì mọi thứ được tạo ra không vì sự cần thiết mà vì chính Chúa (propter se ipsum). Tôi muốn thêm vào đây thánh vịnh 150 để khép lại chủ đề này :
Halêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh.
Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
ca tụng Người, hoạ tiếng cầm tiếng sắt.
Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
Ca tụng Chúa đi, với chũm choẹ vang rền,
ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!
Halêluia!
————————————–
[1] ND: Khởi đầu của đối âm là một hình thức rất đơn giản, được gọi là organum[1], có hai bè : vox principalis (dòng ca chính), người ta hát cantus firmus, tức là giai điệu bình ca và vox organalis (o organum); sau khi bắt đầu bằng đồng giọng, người ta thêm vào một quãng 4 hoặc 5 (đôi khi trên một quãng tám) song song với giọng chính, nốt đối nốt (punctum contra punctum, từ đó phát sinh ra từ đối âm). Và kết thúc bằng việc trở lại đồng giọng.
Lm Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Khi đề cập đến tầm quan trọng của việc đệm đàn trong phụng vụ nghĩa là chúng ta sẽ phải nói đến việc xây dựng một bản đàn như thế nào cho phù hợp với những đòi hỏi của Hội thánh trong các cử hành phụng vụ, một bản đàn cử lên phải có âm thanh du dương, không có yếu tố kích động hoặc kịch trường, vũ điệu…, nhưng có chất thánh thiêng, và phải được kiến tạo (có thể phải viết ra giấy hoặc ứng tấu) dựa trên quy tắc khách quan của nghệ thuật âm nhạc. Khi bài hoà âm cho bản đệm đàn (BĐĐ) được viết ra trên giấy, người nghệ sĩ chơi đàn chỉ việc nhìn vào đó và dùng đôi tay của mình cử lên trên phím đàn; nhưng cũng có những đàn sĩ giỏi hơn, không cần viết ra giấy các bè của bản đàn nghĩa là không cần nhìn vào BĐĐ mà có thể ứng tấu BĐĐ ngay trên đàn. Dù thế nào hay cách nào đi nữa, như vậy rõ ràng là chúng ta đang đề cập đến yếu tố hoà âm.
A- Tầm quan trọng của hoà âm trong sáng tác ca khúc:
Khi người nhạc sĩ bắt đầu hình thành một ý tưởng giai điệu cho một ca khúc nào đó, nếu trong tiến trình này vị nhạc sĩ đó không có ý tưởng gì về cấu trúc hoà âm cho nó thì đó chính là một sự khó khăn rất lớn cho những ai làm công việc hoà âm cho ca khúc đó. Tại sao chúng ta phải nói đến sự quan trọng của cấu trúc hoà âm khi sáng tác một ca khúc?
Khi ta viết được một dòng nhạc nào đó và được gắn liền với lời ca hẳn hoi, nói chung nghĩa là ta đã sáng tác ra một ca khúc. Ở đây chúng ta chưa nói đến bố cục, chất liệu, hình thể… nhưng khi một ca khúc như vậy được hình thành, nó cũng chỉ là một dòng ca với một bè hát, nghĩa là nó chưa được hoà âm. Điều này cũng giống như một em bé khi mới chào đời vậy! Ta cần phải mặc áo cho nó.
Có một phương tiện duy nhất để mặc áo cho nó là Hòa âm, hoà âm một dòng ca cho nhiều giọng nhiều bè hát khác nhau thì ta gọi là hòa âm cho ca đoàn, và khi hòa âm một dòng ca cho một hay nhiều thứ nhạc cụ ta gọi là hòa âm cho bản đệm đàn. Như vậy, vấn đề hoà âm lại là yếu tố quan trọng không kém gì so với việc sáng tác ban đầu, có thể gọi đó là việc sáng tác lần thứ hai; một việc xem ra khó hơn bởi vì người nghệ sĩ phải sáng tác trên dòng ca cho sẵn, nghĩa là dựa trên những gì đã có rồi bây giờ tạo nên cái mới để bổ túc, để trang điểm, để nâng đỡ … làm cho dòng ca ấy được đánh nổi và toàn bộ nhạc phẩm trở nên phong phú hơn! Vì vậy khi sáng tác, các nhạc sĩ nên hết sức lưu ý đến mối liên hệ giữa các hài thanh (HT) với nhau, nó sẽ là nền móng để viết các móc nối hoà âm cho tác phẩm và từ đó dẫn đến một BĐĐ hoàn chỉnh.
Để vấn đề này dần được sáng tỏ, xin mời các bạn cùng theo dõi bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long.
1-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với đơn ca giai điệu cho sẵn.
2-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với hợp xướng 4 bè dị giọng.
3-Các câu TK theo BĐĐ thông thường, Kiểu 1 chỉ dùng các HT chính, Kiểu 2 dùng cả HT chính và phụ, Kiểu 3 dùng cả việc chuyển thể.
B- Tầm quan trọng của Bản đệm đàn trong thánh nhạc phụng vụ:
Chúng ta vừa nghe và hát bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long với phần đệm đàn mà ta gọi là đệm đàn phụng vụ, vì ca khúc này là một bài thánh ca phụng vụ! Đệm đàn phụng vụ nghĩa là làm sao?
Theo cuốn HƯỚNG DẪN MỤC VỤ THÁNH NHẠC của UBTN trực thuộc HĐ Giám Mục VN ban hành vào tháng 7/2017, từ số 44 đến 47 và từ số 82 đến 85, cùng một số văn kiện của Toà Thánh, đặc biệt là HUẤN THỊ VỀ ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ (Instructio de Musica in Sacra Liturgia – 05.3.1967), từ khoản 62 đến 67, thì đàn đại quản cầm cùng âm thanh của nó được quan tâm nhiều hơn mọi thứ nhạc cụ khác khi cử hành phụng vụ. Trong bài này xin tạm gọi chung là organo khi muốn nói đến cây đàn này, vì thực tế khi sử dụng đàn keyboard hay đàn Electon ta cũng có thể mở được sắc tiếng của cây đàn đại quản cầm này… Khi đàn organo được dùng chung với tiếng hát trong việc cử hành phụng vụ, thì Hội Thánh mẹ dạy rằng chức năng của nó chỉ là nâng đỡ tiếng hát, dùng các kỹ thuật hòa âm để làm cho tiếng hát được nổi lên mà không nhuốm màu trần tục, đó là đệm đàn phụng vụ.
Theo giáo huấn đó, trong bài này chúng tôi xin đề cập đến một số kỹ thuật để thực hiện hoà âm một bản đệm đàn trên một tác phẩm thánh ca phụng vụ, từ bản đệm đàn của một bài thánh ca phụng vụ được viết trên giấy, chúng ta cử lên cây đàn organo cùng với tiếng hát của ca đoàn, lúc đó ta gọi là đệm đàn phụng vụ.
Bản đệm đàn tiếng Đức gọi là Bekleidung nghĩa là mặc áo, tiếng Pháp, Anh và Ý thì kêu là accompagnement hoặc accompaniment, accompagnare nghĩa là đi theo, là hộ tống. Mục đích của nó là đánh nổi bài ca chứ không gây rối hoặc lấn át bài ca. Có nhiều kỹ thuật khác nhau để đánh nổi bài ca như, bài ca chuyển hành nhanh, BĐĐ đi chậm, bài ca ngân dài ở một dấu nhạc, BĐĐ chạy nhanh hay phỏng diễn ý nhạc trước đó hoặc giới thiệu một nét mới của nhạc đề sẽ xuất hiện sau đó…
Xem những BĐĐ của các nhạc sĩ bậc thầy như Bach, Mozart, Beethoven, Verdi … ta thấy BĐĐ là thành phần cốt yếu của bài ca, nó được dùng để đánh nổi, để bổ túc và để nói lên những gì mà dòng ca chưa tỏ ra hết. Điều mà bản thân lấy làm thích thú nhất là nó cũng như chiếc áo đẹp, chỉ mặc vừa cho người này mà không vừa cho người khác, và khi BĐĐ được viết cho nhiều nhạc cụ thì ví như chiếc áo thêu dệt công phu nhiều màu sắc, lại càng thêm giá trị … Hoặc có thể ví BĐĐ như một vườn hoa đầy màu sắc và bài ca như những con ong con bướm bay lượn trên nó. Hơn nữa, một người thì có thể có nhiều chiếc áo để thay đổi, thì bất cứ bài ca nào cũng vậy, có thể có nhiều kiểu viết hòa âm cho BĐĐ hoặc những bản đàn độc tấu dựa trên nhạc đề đó, và từ đây phát sinh lối viết khai triển nhạc đề theo nhiều kiểu khác nhau và ta thường gọi là các khúc biến tấu trên một nhạc đề (variations), và cái khó còn lại là chọn những kiểu nào cho thích hợp nhất, xứng đáng nhất với bài ca. Vì nhạc đề là bài ca đã có sẵn nên nó phải là thành phần chính yếu của BĐĐ và nó không thể sửa chữa, và như thế công việc này rất bao la mênh mông với nhiều đòi hỏi cho người viết BĐĐ và nghệ sĩ chơi đàn, trong đó trình độ, lương tri và sự kiên nhẫn là ba yếu tố cần thiết nhất.
Ngay từ đầu môn học hòa âm, nhà trường thường bắt học viên phải biết chơi đàn dương cầm (piano) hoặc đại quản cầm (organo), là hai thứ đàn có thể chơi được nhiều bè cùng một lúc, biết để có thể chơi được những bản hòa âm mà bạn viết ra, như thế mới có kết quả, bởi lẽ học hòa âm không phải là viết các công thức móc nối thế này thế kia, nhưng phải biết nghe, biết phân biệt các cơ cấu, liên kết hòa hợp hay tương phản trong các âm thanh… Nói đến đây ta sẽ thấy thêm một lợi ích khác, nếu bạn biết chơi dương cầm hay đại quản cầm thì mới có khả năng để viết một BĐĐ ít nhất là thích ứng với khả năng đa dạng của hai cây đàn này, dĩ nhiên bạn phải học xong môn hòa âm, một môn học hao tổn khá nhiều công sức và đã khiến cho bao người bỏ cuộc, nhưng nó lại là nền tảng của mọi vấn đề trong ngành nghệ thuật này.
Xem ra có một số người đệm đàn ở các xứ đạo chưa hiểu rõ chức năng của nó cũng như sự học hỏi cần thiết cho việc làm này, vì thế mới có những hiện tượng đáng tiếc như chúng ta đã thường gặp.
Để cụ thể hóa vấn đề, và thời gian cũng có hạn, chúng tôi xin trưng dẫn ra đây một vài kiểu kỹ thuật viết hòa âm cho BĐĐ, đây không phải là tất cả, nhưng theo cách nhìn khách quan về lĩnh vực này, nó chỉ là vài kiểu căn bản mà chúng tôi nghĩ rằng trong số đó có những kiểu rất xứng đáng, rất phù hợp với cung cách đệm đàn phụng vụ ở mức độ dễ chấp nhận, nghĩa là không quá kinh điển, không quá cầu kỳ, không như cung cách nhạc đời nhưng cũng không tầm thường và nhiều người có thể đàn được, lại đúng với quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi. Và như thế, vấn đề được đặt ra không phải là BĐĐ dễ hoặc khó, đơn giản hay phức tạp, mà nó có phải là thành phần không thể thiếu của một bài ca hay không, hoặc nó có xứng hợp để đánh nổi, để bổ túc cho bài ca hay không, đặc biệt là các bài thánh ca phụng vụ.
Sau đây, là sáu kiểu viết hòa âm cho BĐĐ (gồm 3 kiểu thông thường và 3 kiểu biệt lập) dựa trên nhạc đề của Lm. Kim Long, đó là bài LỜI CHÂN THÀNH.
- BẢN ĐỆM ĐÀN THÔNG THƯỜNG:
- Nhạc đề là bè trên cùng của BĐĐ:
- Ô nhịp 1: Dấu SO ở dòng ca là dấu hoa mỹ, có thể coi đó là dấu nhấn, vì nhấn ở thì yếu nên không hiệu quả lắm.
- Ô nhịp 4: DO-RE-MI-FA và LA-TI-DO-RE ở hai bè trong có ý để phỏng diễn lại ý nhạc trước đó ở ô nhịp 3 (SO–LA–TI) để tạo thành đoạn nối câu, đồng thời sau đó thêm dấu RE và FA ở hai bè trong (DO–RE–MI–FA và LA–TI–DO–RE) thì trở thành một nét nhạc đảo lộn sẽ được giới thiệu ngay sau đó ở ô nhịp 5 (RE–DO–TI–LA).
- Cũng vậy, ở ô nhịp 6 có bè trong là LA–SO–FA–MI–REchuyển hành nhanh để phỏng diễn ý RE–DO–TI–LA trước đó, tuy là những dấu nhạc hoa mỹ ở bè trong, nhưng lại là nhạc đề sẽ được đánh nổi ngay sau đó ở bè trên trong cùng ô nhịp 7 – 8 (LA–SO–FA–MI–RE).
- Câu tiểu khúc được hòa âm bằng việc “Ghi động” (agitato), kỹ thuật này rất được ưa chuộng vào thời kỳ Baroque (TK.17), tức là mỗi thì nhịp trong nhạc đề đều được thay phiên nhau bị động liên tục, khi thì bè trên, lúc thì bè dưới hoặc bè giữa, nét nhạc ghi động này được lấy từ nhạc đề của Điệp khúc (SO–FA–MI–RE/ DO–TI–LA–SOL/ FA–MI–MIb–RE ở các ô nhịp 11, 13 và 15).
Lời bình:
Đây là lối viết BĐĐ được xem là lý tưởng nhất và phổ biến nhất, có thể áp dụng cho hầu hết các ca khúc. Vì dòng ca của bài hát lại là bè trên cùng của BĐĐ nên lối viết này dễ giúp cho người hát giữ vững được cung giọng trong khi hát, nhất là đối với những ban hát ca đoàn còn giới hạn về khả năng chuyên môn, cũng dễ cho người chơi đàn nhận ra diễn tiến của bài ca mà phối hợp nhịp nhàng trong khi hát. Lối viết hòa âm BĐĐ này không quá khó cho tác giả, nhưng muốn viết hòa âm cho hay cũng không phải là dễ như ta thường thấy trong khi học hòa âm, và thực sự cách này đã thể hiện được điều mong muốn của Giáo hội : nhạc cụ dùng trong nhà thờ là để nâng đỡ tiếng hát.
(Lời Chân Thành 1)
- Nhạc đề là bè giữa của BĐĐ:
Cũng được dùng với kỹ thuật ghi động như đã mô tả ở 1.d nhưng không mất tính đồng nhất. Trong 3 ô nhịp đầu, bè trên cùng được chuyển hành lên, có ý tạo nên sự tương phản với bè trầm chuyển hành xuống đồng thời (RE–DO#–DO–TI–LA), là một ý của nhạc đề nhằm giới thiệu trước sẽ xuất hiện sau cùng của phần ĐK (LA–SO–FA–MI–RE). Sự tương phản này như cái khung để trưng ra một bức tranh là nhạc đề được xuất hiện ở khu vực giữa.
- Đoạn nối câu ở ô nhịp 4 được sử dụng dấu trì hoãn và dấu lượn.
- Ô nhịp 6cũng cùng một ý như đã mô tả ở số 1.c.
- Ô nhịp 8 có bè trên cùng (RE–DO–TI–LA–SO) là phỏng diễn ý cuối của nhạc đề (LA–SO–FA–MI–RE) ở ô nhịp 7 trước đó.
- Phần TK cũng được ghi động, và cố gắng phỏng diễn nét chính tuy không cân đối.
Lời bình:
Lối viết hoà âm BĐĐ này nếu điều chỉnh lại một chút để đem ra thực hiện trên bốn bè hát dị giọng Soprano, Alto, Tenore và Basso thì phải khéo léo lắm mới có thể làm nổi được dòng ca chính, có nghĩa là cách thức này dễ làm cho dòng ca bị che lấp, điều này cũng là một thách đố đối với tác giả. Và như vậy, sẽ không quá khó khi ta xét về phương diện âm sắc và âm lượng, ý muốn nói đến sự khác biệt âm sắc và âm lượng của tiếng đàn với tiếng hát, nếu biết điều chỉnh hợp lý sao cho tiếng hát vẫn được tiếng đàn làm cho nổi bật do sự tương phản về âm sắc thì cũng dễ dàng chấp nhận. Ví dụ nếu dùng sắc tiếng Choir Ahhs hoặc Voice Ohhs hoặc sắc tiếng gần giống giọng người như bộ kèn Sax của đàn organo để chơi Bđđ loại này thì có thể sẽ phủ lấp dòng ca của bè hát; tốt hơn là dùng những âm sắc khác biệt với giọng hát nhưng không chói tai như Strings, như Organ Pipe … thì khá lý tưởng. Đó là chúng ta vẫn chưa bàn đến sự tương phản của nhịp điệu, khi dòng ca chuyển hành thì các bè còn lại của Bđđ đứng yên chẳng hạn, hoặc khi dòng ca đứng yên vì hết câu nhạc thì các bè còn lại chuyển hành … vậy nói cho đúng, mặc dù dòng ca nằm ở bè giữa hay khu vực giữa của BĐĐ, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội để thực hiện các giải pháp sao cho dòng ca được đánh nổi, vấn đề còn lại là sự hiểu biết, là khả năng chuyên môn, là tính thẩm mỹ và lương tri của chúng ta.
(Lời Chân Thành 2)
- Nhạc đề là bè trầm của BĐĐ:
Có nhiều hạn chế hơn để phỏng diễn ý nhạc, các bè trên thường giữ vai trò hòa âm đắp cho đầy, tuy nhiên ta cũng thấy:
- Ô nhịp 2 sang đầu ô nhịp 3: Bè trên cùng như giới thiệu trước (RE–DO#–DO–TI ) nét nhạc cuối cùng của phần ĐK (SO–FA–MI–RE).
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5 cũng là hình thức đó ở bè trên cùng. Rồi sau này lại tái diễn bằng hình thức đảo lộn ở ô nhịp 12 sang đầu ô nhịp 13 và cũng ở bè trên cùng.
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5, ở bè giữa (RE–MI–FA–RE–MI) là nét phỏng diễn của ý nhạc đề trong ô nhịp 3 trước đó (SO–LA–TI–SO–LA).
- Nét nhạc này cũng được phỏng diễn ở bè trên cùng từ giữa ô nhịp 5 sang ô nhịp 6 (LA–TI–DO–LA–TI ).
- Một lần nữa, nét nhạc cuối cùng từ ô nhịp 7 sang ô nhịp 8 (LA–SO–FA–MI–RE) cũng được mô phỏng bằng việc đảo lộn nét nhạc ngay sau đó ở bè trên cùng (SO–LA–TI–DO–RE) để kết thúc phần ĐK.
- Ô nhịp 13 : Có 2 bè trong là nét mô phỏng phóng khoáng của ý nhạc đề vừa đi qua trong ô nhịp 12 (FA–SO–LA–FA–RE), đồng thời nó cũng đóng vai trò là đoạn nối câu.
- Ô nhịp 15: Bè trên cùng đã giới thiệu 1 nét nhạc mà nhạc đề sẽ xuất hiện thực sự ngay sau đó ở ô nhịp 16.
Lời bình:
Để viết hòa âm cho một bè trầm có sẵn ở giai đoạn đầu của môn học này thì thường rất đơn giản, nhưng thật không phải dễ ở mức độ sâu hơn. Theo cách này thì nhạc đề chính nằm ở bè thấp nhất, vậy nhạc đề càng khó được nổi bật hơn, nhạc đề càng ít có cơ hội được nâng đỡ nên ta có thể nhận xét ngay: không mấy thích hợp để thực hiện trong thánh ca thánh nhạc. Nói rằng không mấy thích hợp ở đây chỉ là theo nhãn quan của giới bình dân, theo quan điểm của nghệ thuật thì giải pháp nào cũng tốt đẹp nếu người nghệ sĩ biết khéo léo vận dụng các qui tắc khách quan của nghệ thuật, rồi ca đoàn và dàn nhạc phụ họa được vị chỉ huy có hiểu biết và kinh nghiệm đứng ra hướng dẫn điều khiển thì chắc chắn vẫn tốt đẹp và xứng đáng như thường. Ta có thể dễ thấy rất nhiều bài thánh ca, trong các version của nó, bè trầm là nhạc đề chính như bài “Away in a manger”, “Adeste Fideles” … Mà hai ban hợp xướng Mormon Tabernacle và Mendalion đã từng trình bày… Hoặc hơn nữa, một số tác phẩm thánh ca VN mà phần hòa âm (nguyên chỉ nói đến 4 bè hợp xướng) đã để dòng ca chính làm bè trầm mà chúng ta vẫn dễ dàng chấp nhận như nhiều ca đoàn đã thể hiện, mặc dù ở tầm tiếng thấp nhưng nhạc đề chính vẫn được nổi bật, như: “Chiên vượt qua”, của Cát Minh – hòa âm TL, “Tâm tình hiến dâng” của Oanh Sông Lam – hòa âm: CH.
(Lời Chân Thành 3)
- BẢN ĐỆM ĐÀN BIỆT LẬP
- BĐĐ được viết bằng những HT rập dấu cùng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ:
- Đoạn nhạc mở đầu được lấy từ các HT móc nối trong đoạn cuối của Điệp khúc (ô nhịp 8-9-10).
- Cơ cấu hoà âm được lấy từ BĐĐ kiểu 1.
- Dấu RÊ ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 là dấu trì hoãn (retard) sẽ được giải nghịch sang DO, nhưng không sang ngay mà lượn xuống nốt TI trước, có ý tạo ra nét nhạc TI–DO–RE–MIlà nét đảo lộn của ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó ở ô nhịp 8 (RE–DO–TI–LA) đồng thời làm nhiệm vụ nối câu.
- Bè trên của BĐĐ ở ô nhịp 8-9-10 (FA–MI–RE–DO#) như giới thiệu trước ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó.
- Ở ô nhịp 9, BĐĐ có bè trong chuyển hành cũng là để giới thiệu nguyên vẹn hình ảnh của nhạc đề (LA–SO–FA–MI) sẽ được trình diện ngay sau đó.
- Cũng trong 3 ô nhịp 8,9,10bè trầm chuyển hành cũng lấy nguyên ý cuối của nhạc đề sau đó nhưng đã được đảo lộn và nới rộng (RE–MI–FA–SO–LA). Nét nhạc này cũng lập lại ở ô nhịp 11 (MI–FA–FA–SO).
- Cũng bằng cách ghi động, các bè của BĐĐ trong phần phiên khúc thay phiên nhau, làm cho đầy đặn bằng những HT rập dấu, bằng một chút phỏng diễn, bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ để bổ túc vào những chỗ trống của nhạc đề và để đối đáp với nhạc đề.
- Phần kết thúc cũng giống như những điều đã mô tả ở 1.c.
Lời bình:
Nói chung BĐĐ biệt lập là BĐĐ mà trong đó không có sự hiện diện của nhạc đề chính, rồi chính BĐĐ cũng có thể trở thành một tác phẩm riêng biệt để độc tấu mà không cần sự xuất hiện của nhạc đề. Thông thường thì BĐĐ biệt lập cho người nghe một hiệu ứng rất tráng lệ huy hoàng, các BĐĐ biệt lập mà không theo công thức nhịp điệu thường đòi hỏi ca đoàn và người chơi đàn phải có một trình độ nhất định, theo cách này thì chức năng của BĐĐ như để trải thảm, nhạc đề chính như những con ong con bướm bay lượn lên trên nó. Như vậy, cách này đòi hỏi người viết BĐĐ phải có kiến thức và người chơi đàn cũng như ca đoàn phải có trình độ nhất định, cách này rất xứng hợp với phụng vụ vì bản thân nó dễ tạo nên những điều kiện cho dòng ca chính được đánh nổi.
(Lời Chân Thành 4)
- Viết BĐĐ bằng những HT trải dấu và công thức nhịp điệu:
- Đoạn mở đầu được dùng nguyên công thức trải dấu của Bđđ, cuối đoạn mở đầu được dùng các dấu nhạc liền bậc như để lấy đà dẫn vào bài ca một cách tự nhiên (giữa ô nhịp 4).
- Ô nhịp 8 được dùng các dấu nhạc liền bậc làm thành đoạn nối câu.
- Các HT rập dấu ở ô nhịp 13 có ý để lập lại những dấu cuối cùng của nhạc đề (FA-MI-RE).
- Câu tiểu khúc được dùng các HT rập dấu bằng công thức nhịp điệu, nghe có vẻ máy móc tầm thường.
- Ô nhịp 21 và 22 : Công thức nhịp điệu được biến đổi để làm thành đoạn nối câu, để trở về ĐK bằng hình thức trải dấu.
- Phần kết được lấy nguyên vẹn công thức đệm của phần ĐK như để nhắc lại và đóng khung toàn bộ tác phẩm.
Lời bình:
Nhìn kỹ những tác phẩm bậc thầy, ta thấy có muôn vàn kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu, các BĐĐ viết theo kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu thường dễ đàn hơn là các BĐĐ viết theo lối mô phỏng. Kiểu này dễ được chấp nhận trong các ca đoàn mà khả năng còn hạn chế, đặc biệt là những ca đoàn thiếu nhi ở xứ ta. Vì bản thân nó dễ làm cho người hát giữ vững nhịp điệu (tempo) của bài ca, do đó mà các ca viên ca đoàn tự tin hơn khi hát, rồi người chơi đàn cũng dễ luyện tập hơn; Nhưng xem ra, trải dấu kiểu nào cũng mang tính máy móc công thức, mà đã là công thức thì tầm thường nên không phù hợp lắm đối với những bài ca mang tính tôn nghiêm trang trọng, và như vậy càng không thích hợp với việc đệm đàn phụng vụ.
(Lời Chân Thành 5)
- Bằng sự đối chọi nhịp điệu của nhạc đề và bè trên của BĐĐ. Bằng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục:
- Phần đầu gồm 4 ô nhịp, 4 ô nhịp này gần như đã gói trọn các ý chính của nhạc đề trong phần ĐK. Ô nhịp 1 (LA–RE–DO#–RE–MI) là lấy từ nét nhạc của “Lời chân thành dâng tiến”. Ô nhịp 2 (MI–LA–SO–FA#–MI) là lấy từ “Nguyện Chúa Cha nhân từ”. Ô nhịp 3 (LA–SO–FA–MI–RE) và ô nhịp 4 (TI–LA–SO–FA–MI) là lấy từ nét nhạc cuối của phần ĐK “Lễ hy sinh trên bàn thờ”.
- Đồng thời nét nhạc này lại là bè trên của BĐĐ để phụ họa cho vế 1 của phần ĐK (từ ô nhịp 5 đến 8) nhưng có nhịp điệu biệt lập (chuỗi liên 3) và đều đều, gây tương phản với nhịp điệu của đề (hình thức chẵn).
- Ô nhịp 8 là đoạn nối câu (LA–TI–DO#–RE–MI) là sự đảo lộn ý cuối của nhạc đề ĐK (LA–SO–FA–MI–RE) để dẫn vào đầu câu sau một cách tự nhiên, vì nét nhạc này đã được giới thiệu nguyên hình ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 trước đó rồi. Sau đó nó còn được giới thiệu một lần nữa ở bè trầm từ ô nhịp 9 đến 11 cũng bằng hình thức đảo lộn nhưng được nới rộng.
- Như vậy, trong phần ĐK, toàn bộ ý tưởng của BĐĐ luôn được gắn chặt với nhạc đề, tương phản và đối đáp với nhạc đề để cái này đánh nổi cái kia, sự tương phản về nhịp điệu thì ta thấy rõ, còn về nét nhạc chuyển hành lênxuống thì được BĐĐ đối đáp hoặc mô phỏng trên bình diện khác, khi thì chỗ này lúc thì chỗ kia, ví dụ ý nhạc của ô nhịp 9 (LA–RE–DO–TI–LA) được BĐĐ giới thiệu ở ô nhịp 6 (MI–LA–SO–FA#–MI) rồi lại được mô phỏng ngay sau đó từ cuối ô nhịp 10 sang đầu ô nhịp 11 (RE–SO–FA–MI–RE).
- Phần TK được BĐĐ áp dụng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục (Basso continuo) bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ như dấu nối, dấu lượn, dấu nhấn.
- Đoạn kết (từ ô nhịp 23 trở đi) mô phỏng lại ý nhạc của vế 2 phần ĐK nhưng được biến đổi nhịp điệu.
Lời bình:
Một tác phẩm âm nhạc giá trị nào bao giờ cũng tiềm ẩn các yếu tố của sự tương phản, bởi lẽ để thưởng thức được một tác phẩm nghệ thuật thì thông thường tác phẩm ấy phải có tính hấp dẫn, mà tính hấp dẫn được thể hiện nhiều nhất qua sự tương phản. BĐĐ biệt lập được viết theo kiểu mô phỏng nhằm để thực hiện điều đó, nhưng thường thì rất khó viết. Để viết BĐĐ theo cách này thành một tác phẩm có giá trị thì đòi hỏi nhạc sĩ phải có khá nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhất là phải thông thạo về các kỹ thuật của bộ môn đối âm (contra puntum); lại đòi hỏi cả người chơi đàn cũng phải giỏi, hay ít ra cũng phải được rèn luyện công phu để ngón đàn trở nên thông thạo xuôi chảy thì mới có thể ráp nối với ca đoàn; rồi khi ráp chung, ca đoàn và người chỉ huy cũng phải có một trình độ nhất định mới giải quyết được tất cả các vấn đề chi tiết của tác phẩm … nếu thiếu hiểu biết, các BĐĐ loại này rất dễ làm dịp tội cho người chơi đàn, vì nếu họ không được chỉ dẫn cặn kẽ sẽ vướng phải điều tối kị là “khoe tiếng đàn”, làm cho tiếng đàn lấn át tiếng hát thì phản tác dụng rồi, điều đó thật không phù hợp, không đúng tinh thần mà Hội thánh mong muốn.
Như vậy, để có thể thực hiện tác phẩm với BĐĐ loại này, ta thấy có khá nhiều đòi hỏi về trình độ chuyên môn của các thành phần liên quan, không mấy thích hợp cho các ca đoàn bình dân còn có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu nơi nào có khả năng thực hiện thì nó rất xứng đáng, vì nó có có khả năng làm tăng thêm vẻ trang trọng, lộng lẫy huy hoàng của khung cảnh lễ nghi phụng vụ.
(Lời Chân Thành 6)
Ta có thể nói tóm tắt rằng, tầm quan trọng của BĐĐ trong việc sáng tác, dù là bài thánh ca lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp, để gọi là mặc áo nên tất cả cần phải được viết hoà âm cho bản đệm đàn, để người đàn có thể nhìn vào đó mà cử lên cùng với tiếng hát của ca đoàn. Đó là việc làm đúng đắn và cần thiết, chứ không phải là ta viết tên hợp âm như Am, Dm bên trên dòng nhạc như nhiều nơi thường làm. Như vậy, để viết một bản đệm đàn thì ngoài việc biết chơi đàn, bó buộc chúng ta phải học hoà âm, học để viết được bản đệm đàn cho đúng các giá trị và quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi, như điều mà Hội thánh mẹ mong muốn chúng ta thực hiện khi nói đến đặc tính hình thức tốt đẹp (bonitas formae) trong Huấn thị Âm nhạc trong Phụng vụ, khoản 4.
Để kết thúc, chúng tôi xin trình bày lại một lần nữa bài LỜI CHÂN THÀNH ở một bình diện Hợp xướng bốn bè dị giọng, kết hợp với Bản đệm đàn biệt lập theo hình thức trải thảm.
Antôn Tiến Linh
2023
Bác ái vô vị lợi
6.11 Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Rm 11:29-36; Tv 69:30-31,33-34,36-37; Lc 14:12-14
Bác ái vô vị lợi
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyến cáo vị thủ lãnh người Biệt phái hãy loại bỏ lối sống ích kỷ và lòng tham lam tiền bạc, mà hãy quan tâm đến những người nghèo khổ; đồng thời, Người đề nghị khi dọn tiệc nên “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù”. Nếu làm được như vậy, ông sẽ được phúc, vì người nghèo biết ơn ở đời này và được ban thưởng hạnh phúc ở đời sau, nhờ những người công chính sống lại đền ơn cho ông.
Ông bà ta thường nói: “có qua, có lại mới toại lòng nhau” hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Thật vậy, trong cuộc sống có mấy ai cho đi mà không cần lấy lại. Lẽ thường con người ta luôn luôn muốn nhận lại những gì mình đã cho đi. Hôm nay tôi giúp anh việc này, để phòng khi lúc cần anh sang mà giúp lại. Tôi hãnh diện khi được vinh danh là ân nhân cho một chương trình nào đấy.
Chương trình từ thiện của tôi ắt hẳn là vì cộng đồng nhưng buộc phải vang danh, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, để nâng cao uy tín cho bản thân tôi, cho doanh nghiệp của tôi chằng hạn… Tất cả những ý muốn đó dù có được thể hiện qua cách này hay cách khác, một cách lộ liễu hay thầm kín tinh vi nhưng cũng không ngoài mục đích tìm mối lợi cho chính mình.
Còn ngược lại, Chúa Giêsu dạy rằng: thi ân mà không cần đáp trả. Chúng ta sống với nhau, không tính toán chi cả mà bằng tình yêu cho đi nhưng không với mọi người. Đó mới thật là cho đi hết lòng, cho thật tình mà không vị lợi. Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh giác nhắc cho mọi người hiểu rõ rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè anh em, hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ lại mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi”. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hướng chúng ta về một cái nhìn rất khác, đó là bác ái vô vị lợi. Gương bác ái vô vị lợi mà chúng ta tìm thấy đầu tiên chính là hình ảnh của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương nhân loại vô bờ, Chúa Giêsu đã khiêm hạ đến trần gian trong mầu nhiệm nhập thể với thân phận nhỏ bé thấp hèn. Tình thương của Ngài trao ban đi mà không cần chi đáp trả, Chúa quan tâm đến những người nghèo khó, bệnh tật … và mời gọi tất cả cùng dự bàn tiệc nước trời với Ngài.
“Vì quyền năng của Đức Chúa thì lớn lao,
Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường”
Đối với Thiên Chúa, Ngài rất yêu quí, những người sống khiêm nhường vì họ là những người biết chạnh lòng thương tha nhân, biết sống theo tiếng gọi con tim rộng mở, để đón nhận đem ích lợi cho tha nhân, không quản ngại khó khăn gian khổ, họ không mong đền đáp, biết cho đi thật nhiều, nhưng chẳng nhận bao nhiêu với người đời… nhưng thực giản đơn, Thiên Chúa luôn bù đắp những tấm lòng không so đo tính toán, không kiêu căng hay vụ lợi, khi họ cho đi là đã nhận rất nhiều hơn thế, đó là niềm vui vô hình họ không chạm vào được. Vì với Thiên Chúa: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau, về phần thưởng mại hậu dành cho những ai thực hiện lòng bác ái một cách vô vị lợi. Đang lúc dự tiệc ở trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc sẽ hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa. Trong bữa tiệc đó, những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống (Lc1, 52-53), ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi đó, chúng ta tìm thấy được trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu ấy được biểu hiện trong việc Nhập Thể và Nhập Thế. Đây chính là tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Vì yêu, Thiên Chúa đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…”(Pl 2, 6) để cứu độ con người, để cho con người được sống xứng với phẩm giá của mình và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Thật vậy, Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống ngang tầm mức những kẻ bé nhỏ, nghèo hèn; Ngài không tìm địa vị cao sang, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, yếu đau, tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề xã hội (Lc 4, 18).
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm những kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng tôi…”(Mt 11, 28).
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa. Điều quan trọng là có bao giờ bạn biết mở rộng lòng mình, để đón nhận và trao ban Tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người hay không?