2021
Linh mục – Đức Kitô Thứ Hai (Alter Christus) – phải là người như thế nào?
Linh mục – Đức Kitô Thứ Hai (Alter Christus) – phải là người như thế nào?
Trong phạm vi bài viết này, tôi không muốn đề cập nhiều đến những lý thuyết hay nền tảng thần học cũng như giáo lý của Giáo Hôi về vai trò và sứ mạng của linh mục trong Giáo Hội, vì thiết nghĩ các linh mục và rất nhiều giáo dân ngày nay đều biết rõ.
Điều tôi muốn nói ở đây là trong thực tế, linh mục phải hành xử thế nào để xứng đáng là hiện thân của Chúa Kitô xuyên qua chính đời sống, lời nói và hành động của mình trước mặt người khác trong đó quan trọng là các tín hữu được trao phó cho mình săn sóc và phục vụ về mặt thiêng liêng.
Với tư cách là cộng sự viên đắc lực, thân cận và trung tín của Giám mục, linh mục thi hành sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và cai trị trong giáo hội địa phương (tức giáo Phận) với tất cả thành tâm , thiện chí và xác tín về chức năng và vai trò của mình được nhận lãnh từ bí tích Truyền Chức Thánh cho phép linh mục được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa KItô, “Thầy Cả Thượng Phẩm.. theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5: 10)
Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, đặc biệt là ở các nước Âu Mỹ, người ta không những bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa vật chất vô luân ( immoral materialism) mà đặc biệt còn bị ảnh hưởng ngày một nghiêm trọng bởi trào lưu tục hóa (secularization) đưa đến thực hành vô thần (practical atheism) , chối bỏ Thiên Chúa , “hạ bệ Kitô hóa” (de-christionization) và dửng dưng với mọi tôn giáo nói chung ( Indifference to religions).
Thực trạng này đang là một thách đố to lớn cho những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa tốt lành, đã yêu thương và tha thứ cho con người nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô.
Để đối phó với trào lưu nguy hại nói trên, ngày 12 tháng 10 vừa qua, Tòa Thánh đã công bố quyết định mới của Đức Thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 cho thiết lập một Văn Phòng hay Hội Đồng mới của Tòa Thánh (New Pontifical Council) với chức năng Tân Phúc Âm hóa (New Evangelization) như một nỗ lực nhằm chống lại khuynh hướng tục hóa ở các quốc gia Âu Châu và Tây phương nói chung. Hội Đồng này do Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella làm Chủ Tịch.
Sự kiện trên cho thấy là Đức Thánh Cha đã tỏ ra rất quan tâm về nguy cơ tục hóa đang đe dọa những giá trị và chân lý của Phúc Âm cũng như đời sống luân lý, đạo đức của con người nói chung, và cách riêng, của người tín hữu Chúa Kitô đang sống trong hoàn cảnh suy đồi đạo đức của thế giới ngày nay.
Là Đức Kitô thứ hai, tức là hiện thân của Chúa trong sứ vụ, linh mục trước hết phải là người nêu gương sáng trước tiên về thái độ cương quyết “ thoát tục” hay “đạp đổ trào lưu tục hóa” (de- secularization) để tân phúc âm hóa chính mình trước khi rao giảng Phúc Âm Sự Sống của Chúa Kitô cho người khác nhằm chống lại “ văn hóa sự chết” và trào lưu tục hóa đang bành trướng ở khắp nơi hiện nay.
Do đó, Linh mục cần thiết phải :
I- Tách mình ra khỏi dính díu với mọi quyền lực và tham vọng trần thế để không vô tình hay cố ý làm tay sai cho một chế độ chính trị nào để cầu lợi cá nhân và nhiên hậu gây thương tổn nặng nề cho chức năng (competence) và vai trò của mình là linh mục của Chúa Kitô.
Trong điễn từ đọc tại Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Mẹ Lên Trời ở Parlemo ( Italia) trước hàng trăm Giám mục, Linh mục, và Tu sĩ nam nữ ngày 3 tháng 10 vừa qua, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 đã nói riêng với các linh mục hiện diện như sau “chính Chúa Kitô, chứ không phải thế gian – đã thiết lập cương vị cho linh mục”… Và với cương vị đó, linh mục phải luôn chú tâm đến ơn cứu độ và Vương Quốc của Thiên Chúa.” (Christ establishes the priest’s status, not the world… as a priest, he must be always with a view to salvation and the Kingdom of God.( cf.L’ Osservatore Romano. Oct 6, 2010). Hơn nữa, linh mục “không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác với đời sống thế tục” ( cf. Presbyterium Ordinis.no.3)
Nói khác đi, linh mục chỉ có một vai trò và chức năng quan trọng nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh để phục vụ hữu hiệu cho các linh hồn đang cần đến Chúa và mong lãnh nhận ơn cứu độ của Người. Do đó, linh mục tuyệt đối không có chức năng chính trị hay xã hội nào để tự nguyện làm tay sai phục vụ, tâng bấc, ca tụng hay chống đối một chế độ nào vì lý do thuần chính trị.
Nhưng, nếu chế độ nào, không tôn trọng nhân quyền (human rights), – nhưng không phải nhân quyền của thần học giải phóng, là thứ nhân quyền cổ võ đấu tranh giai cấp, tạo ra những “đàn két” chỉ biết ca tụng bợ đợ chế độ để an thân trục lợi – mà là những quyền căn bản của con người, như quyền tự do phát biểu, quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền hành Đạo trong đó bao gồm việc tổ chức, đào tạo, và bổ nhiệm các chức sắc lãnh đạo trong giáo hội địa phương. Nếu chế độ không tôn trọng những quyền căn bản này cũng như dung dưỡng cho những sa đọa, suy thoái về luân lý, đạo đức trong xã hội cai trị, thì linh mục – và nhất là Giám mục – phải có can đảm lên tiếng đòi hỏi chế độ phải tôn trọng những tư do căn bản và thiêng liêng của con người, cũng như mạnh mẽ lên án thực trạng suy thoái đạo đức và luân lý để đòi nhà cầm quyền dân sự phải có biện pháp thích đáng để lành mạnh xã hội hầu tạo môi trưởng thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh đời sống tinh thần và đạo lý của người dân.
Xã hội vô luân, vô đạo và đầy bất công sẽ xô nhanh người dân xuống hố diệt vong vì thiếu nền tảng tinh thần cần thiết để giúp phân biệt con người với mọi loài cầm thú chỉ có bản năng và vô lương tri.
Như thế, làm ngơ hay nhắm mắt bịt tai trước những vi phạm về quyền thiêng liêng của con người và tụt hậu về luân lý, đạo đức, sẽ trở thành đồng lõa với chế độ, với xã hội làm phát sinh mọi tội ác vì thiếu căn bản đạo làm người.
II- Trong lãnh vực giảng dạy chân lý và cử hành các Bí tích,
Không linh mục nào được phép dạy và thực hành giáo lý , bí tích riêng của mình mà phải dạy cũng như thực hành đúng giáo lý (doctrines), tín lý (dogmas) và kỷ luật bí tích của Giáo Hội,
Cụ thể, Giáo Lý và Kinh Thánh của Giáo Hội nhìn nhận sự kiện có tội Tổ Tông (Original sin) do Nguyên Tổ loài người là Adam và Eva vấp phạm khiến con người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng chính tội bất trung này của Nguyên Tổ loài người lại được Giáo Hội sau này ca ngợi là “Tội sinh ơn phúc” ( Felix culpa) vì bởi tội này mà Thiên Chúa đã sai Con Một của Người là Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội. Ơn cứu chuộc và tha thứ này của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội bất trung của Nguyên Tổ rất nhiều như Thánh Phaolô đã nói: “Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa… Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5: 15).
Như thế ai phủ nhận hay đặt vắn đề “tội Tổ Tông” dưới ánh sáng tâm lý học là đã đi ngược lại với giáo lý hiện hành của Giáo Hội về vấn đề rất hệ trọng này. ( x.SGLGHCG, số 402-407)
Mặt khác, cũng vì tội Nguyên Tổ đã gây ra “sự chết của linh hồn” như Công Đồng Trentô đã dạy ( DS 1512), mà Giáo Hội cử hành bí tích Rửa Tội để tha không những tội nguyên tổ mà còn tha một lần tất cả mọi tội cá nhân con người đã phạm cho đến lúc lãnh nhận Phép Rửa..
Cũng liên quan đến vấn đề tội và Phép Rửa, Giáo Hội chỉ ban bí tích này cho người còn sống ( trẻ con và người lớn ) chứ không hề dạy phải rửa tội cho người chết qua trung gian người sống như một linh mục kia đã “có sáng kiến phăng ra” để gây hoang mang cho giáo dân.
Liên quan đến bí tích Thánh Thể, không có giáo lý, giáo luật nào dạy mọi người tham dự Thánh Lễ đều được rước Minh, Máu Thánh Chúa, vì đây là bữa tiệc Chúa mời mọi người tham dự ăn và uống không phân biệt Công Giáo hay Tin lành, trẻ em đã rước lễ lần đầu hay chưa. Ngược lại, giáo lý và giáo luật nói rõ : ai mắc tội trọng ,chưa kịp đi xưng tội thì không được làm lễ và rước Minh Thánh Chúa. ( x, giáo luật số 916; SGLGHCG số 1415). Như vậy, không thể mời hết mọi người tham dự Thánh Lễ ở tư gia hay ở nhà thờ lên rước Mình Máu Thánh Chúa lấy lý do là Chúa đã tha hết mọi tội cho con người, như một số linh mục Việt Nam , Mỹ, và Cadada đã làm. ( có nhân chứng kể lại). Chúa tha thứ tội lỗi cho con người. Đúng, nhưng người ta vẫn còn phạm tội trở lại vì bản tính yếu đuối và vì được tự do chọn lựa sự lành sự dữ để hoặc sống cho Chúa, sống theo đường lối của Người hay muốn sống ttheo thế tục , theo “văn hóa của sự chết” đang tràn lan khắp nơi trên thế giới ngày nay..
Lại nữa, linh mục cũng không được phép biến lễ tang (Funeral mass) thành lễ Phong Thánh (Canonization Mass) cho ai khi giảng rằng linh hồn này chắc chắn đã lên Thiên Đàng rồi, vì đã được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết.!
Giáo lý và bí tích của Giáo Hội chỉ qui định việc xức dầu thánh, ban của ăn đàng ( Viaticum) cũng như nghi thức phó linh hồn cho ai sắp ly trần, nhưng không hề dạy là nếu ai được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết thì chắc chắn đã lên Thiên Đàng. Nếu đã chắc chắn như vậy thi cử hành lễ an táng làm gì nữa, vì có giáo lý, tín lý nào dạy phải cầu nguyện cho các thánh ở trên Thiên Đàng đâu ?
Giáo Hội có phong thánh cho ai thì cũng phải đòi hỏi thời gian và những điều kiện cần thiết, chứ chưa hề tức khắc phong thánh cho ai ngay sau khi người đó chết, dù là các Đức Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục…
Sau hết, với tư cách và cương vị là thừa tác viên và là hiện thân của Chúa Kitô trong trần thế, linh mục không thể coi nhẹ cương vị của mình để dẽ dãi tham gia giúp vui trong những bữa tiệc cưới, đứng lên ca hát hoặc kể truyện tếu. Nói rõ hơn, linh mục không nên ôm cây đàn, ca hát và nhảy nhót với ai vì mục đích ca tụng quê hương, đất nước hoặc gây quỹ cho cá nhân hay cơ quan, đoàn thể nào. Làm như vậy, linh mục đã quên cương vị của mình khi tự cho phép hòa mình vào những sinh hoạt có tinh chất thế tục.
Sân khấu và nơi tổ chức ca hát, nhảy nhót chắc chắn không phải là nơi tụ họp, giúp vui của linh mục. Chỗ đứng và nơi trình diễn của linh mục là bàn thánh, là giảng đài (pulpit) và Tòa giải tội, tức là những nơi linh mục thi hành tác vụ thánh đã được lãnh nhận từ Bí Tích Truyền Chức Thánh và năng quyền thi hành từ giám mục mình trực thuộc để phục vụ cho những lợi ích thiêng liêng của giáo dân.
Tóm lại, là Linh mục của Chúa Kitô giữa trần gian, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội khắp nơi ngày một thêm “tục hóa” và vô luân hiện nay, mọi linh mục đều được mong đợi sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với người phàm trong mọi chiều kích thế tục mà trở nên Con Người để thần linh hóa (divinize) loài người hầu cho phép con người được sống hạnh phúc và “thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” này như Thánh Phêrô đã dạy. ( 2 Pr 1:4).
LM . Phanxiô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Suy nghĩ về lời khuyên cho các tân linh mục thời Covid
Ngày 15-8-2021 vừa qua, Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Sài Gòn Giu-se Nguyễn Năng, kiêm Giám quản Tông tòa Giáo phận Phát Diệm đã viết một lá thư gửi các Phó tế chuẩn bị thụ phong linh mục dự kiến vào ngày 25-8 sắp tới. [1]
Mở đầu lá thư, ngài viết như sau:
“Các con thân mến,
“Chỉ còn vài ngày nữa, các con sẽ tĩnh tâm chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận thánh chức linh mục vào ngày 25-8-2021. Vì nguy cơ lây nhiễm do đại dịch Covid, cha không thể ra Phát Diệm cử hành thánh lễ phong chức linh mục được. Cha đã ủy quyền cho Đức Cha Giuse Nguyễn Đức Cường, Giám mục giáo phận Thanh Hóa, phong chức cho các con.
“Thánh lễ phong chức sẽ được cử hành với sự giới hạn người tham dự. Trong thời gian vừa qua, tại Saigon, cha đã cử hành nhiều thánh lễ phong chức hoặc khấn dòng trong sự âm thầm, chỉ có ban nghi lễ phụng vụ, ngay cả cha mẹ cũng không thể tham dự. Sau thánh lễ, các tân linh mục hoặc tân khấn sinh đều nói lên cảm nghiệm sốt sắng đặc biệt. Có thể ban đầu là một thoáng buồn buồn tiếc nuối vì không có sự trang trọng hay niềm vui bên ngoài, nhưng cuối cùng lại rất thích thú vì trong chính hoàn cảnh thâm trầm lặng lẽ, họ lại có cơ hội tập trung vào điều chính yếu, vì không còn bị phân tâm vì khách mời, tiệc tùng, chụp ảnh, trang trí…, mà hoàn toàn hướng lòng về Chúa và cảm nghiệm sâu xa ân sủng biến đổi mình.”
Đọc qua phần mở đầu lá thư này, chúng ta có thể nhận ra điều Đức Tổng muốn nhấn mạnh như là chủ điểm của lá thư tâm tình, đó là trong đời sống mục tử cũng như trong các việc mục vụ hãy loại bỏ những điều phụ thuộc và tập trung vào điều chính yếu.
Đào sâu ý hướng đó, phần tiếp theo Đức Tổng Giu-se đã nói rõ thêm về điều căn cốt mà ngài muốn lưu ý các tân chức, như sau:
“Gạt bỏ điều phụ thuộc để tập trung vào điều chính yếu! Chúng ta nói nhiều, chúng ta ao ước, nhưng không làm được. Covid lại giúp ta làm được! Có thể chúng ta bất đắc dĩ phải chấp nhận hoàn cảnh này, nhưng thực sự đây là cơ hội ân phúc cho chúng ta để trở về với điều chính yếu. Tinh thần thế tục đã lôi chúng ta đi xa tinh thần của Chúa nhiều quá. Phải quay về thôi.
“Cách đây vài chục năm, thế hệ các linh mục sống trong thời kỳ khó khăn đã không hề có sự trang trọng bên ngoài, chỉ có điều chính yếu. Chỉ có một giám mục với người thụ phong. Không ai biết, không ai dự, không áo lễ mới, không lễ tạ ơn tưng bừng, không lời chúc mừng, không quà cáp, không tiệc tùng, không chụp ảnh, không có gì…Tuyệt nhiên không có gì, ngoài thánh chức linh mục.”
Quả thực, dịch Covid đã như một tiếng chuông giúp cảnh tỉnh các tân chức của chúng ta, đó là dứt bỏ những điều phụ thuộc và trở về với điều chính yếu. Đọc tiếp lá thư, ta thấy Đức Tổng Giu-se đã nêu rõ như sau:
“Nhưng nhờ được thanh luyện để tập trung vào điều chính yếu, các linh mục của thời khó khăn ấy đã sống chức linh mục của mình cách phong phú, đầy sức sống nội tâm, đầy nhiệt thành dấn thân phục vụ, đầy can đảm và sức mạnh để hy sinh chịu đựng gian khổ, đầy niềm vui và trung tín tuân giữ lời cam kết khi thụ phong. Ngược lại, khi người ta có nhiều niềm vui bên ngoài thì con người nội tâm lại dễ có nguy cơ yếu đi và phẩm chất đời linh mục cũng bị ảnh hưởng. Cám ơn Chúa đã để cho Covid huấn luyện ta.”
Nhân lá thư này, xin mạn phép chia sẻ vài suy nghĩ của một tín hữu về lời khuyên của ĐTGM Saigon Giu-se Nguyễn Năng đối với các tân chức linh mục thuộc giáo phận Phát Diệm. Lời khuyên đó là “Hãy gạt bỏ điều phụ thuộc, và tập trung vào điều chính yếu”.
Bài viết này gồm 3 phần sau:
1- Tập trung vào Đức Ki-tô Mục Tử – Canh tân đời sống nội tâm
2- Tập trung vào ơn gọi phục vụ
3- Tập trung vào việc nâng cao phẩm chất linh mục
* * *
1- TẬP TRUNG VÀO ĐỨC KI-TÔ MỤC TỬ VÀ CANH TÂN ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô từng nhắc nhở các linh mục là phải lấy Chúa Giê-su làm trung tâm đời sống và luôn kết hợp mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện, suy niệm cá nhân hằng ngày, cũng như sốt sắng cử hành Phụng vụ các Giờ Kinh và Thánh Thể. Ngài nhấn mạnh: “Nếu các con đầy Chúa, các con sẽ là những tông đồ đích thực của công cuộc truyền giáo mới, vì không ai có thể cho cái mà họ không có trong tâm hồn”. [2]
Như vậy tập trung vào Chúa Ki-tô có nghĩa là luôn quy về Chúa như là trung tâm của đời mình, lấy Chúa làm mục đích và cứu cánh tối thượng cho đời sống mục vụ của mình. Linh mục vốn là hiện thân của Đức Ki-tô nên các ngài chẳng những biểu lộ hình ảnh Đức Ki-tô mục tử, mà còn lan tỏa sự sống của Chúa nữa. Như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Không còn coi mình là trung tâm. Trung tâm giờ đây là Chúa. Ta đặt Ngài làm trung tâm đời mình.
Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ bí quyết nên thánh của ngài như sau: “Hãy chọn Chúa hơn là những việc của Chúa”. Nói cách khác, chọn Chúa vì Chúa quan trọng hơn là việc của Chúa. Đây có thể coi là “bí quyết vàng” sau 13 năm sống trong lao tù và sau nhiều năm sống đời linh mục và giám mục của Đức cố H.Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê. [3]
Như vậy, ta thấy chọn Chúa là điều ưu tiên số một, nó quan trọng hơn gấp nhiều lần khi ta chọn làm những công việc của Chúa. Tất nhiên, chọn Chúa không hề là một việc dễ dàng chút nào. Bởi vì, khi chọn Chúa, chúng ta phải hy sinh cái “Tôi”, phải chịu từ bỏ ý riêng để chu toàn thánh ý Chúa, phải vâng lời Chúa hơn là nghe theo người phàm. Trong khi đó, kinh nghiệm cho thấy khi say mê làm những công việc của Chúa, chúng ta thường đem cái “Tôi” vào trong đó để đánh bóng, tô son những việc chúng ta làm. Và như thế chúng ta đã dần dần loại Chúa ra khỏi những gì mà chúng ta tưởng rằng mình làm vì Chúa, cho Chúa.
Trong “Mười điều răn của linh mục”, Đức cố H.Y Phan-xi-cô Xav. Nguyễn Văn Thuận cũng đã nhắn nhủ các mục tử như sau: “Những gì tôi sống trong tư cách là một linh mục, thì quan trọng hơn những gì tôi làm. Những gì Chúa Kitô làm qua trung gian của tôi, thì quan trọng hơn những gì do chính tôi làm.” [4]
Trên thực tế, ngày nay có một số linh mục vì quá hướng ngoại nên đã dần xa lìa Đức Ki-tô là trung tâm của đời sống mục vụ của ngài. Rồi từ đó, người tín hữu giáo dân cũng bị lôi cuốn theo và đi ra khỏi quỹ đạo “hướng về Chúa Ki-tô” như các ngài. Chính vì vậy, hiện nay người ta nói nhiều đến nào là “đạo hình thức”, “đạo phô trương”, “đạo đoàn thể” vv… Chẳng hạn, Đức cố H.Y Phan-xi-cô Xav. Nguyễn Văn Thuận cũng đã có dịp đề cập đến “Bệnh phô trương” của người Công giáo, như sau:
“Bệnh phô trương chiến thắng: Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì cái chiều sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?
“Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn hiệp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.” [5]
Như vậy, lời khuyên nhủ các tân chức phải trở về với đời sống nội tâm, cả con người và cuộc sống các ngài phải luôn quy về Đức Ki-tô được xem là kim chỉ nam định hướng cho những ai dâng mình cho Chúa, bởi vì “Tinh thần thế tục đã lôi chúng ta đi xa tinh thần của Chúa nhiều quá. Phải quay về thôi.”[6].
2- TẬP TRUNG VÀO ƠN GỌI PHỤC VỤ
Chúng ta xác tín rằng, linh mục được tuyển chọn để phục vụ cộng đồng Dân Chúa, phục vụ chương trình cứu rỗi của Chúa Cứu Thế và phục vụ Nước Trời. Các ngài chính là hiện thân của mẫu gương phục vụ như Đức Ki-tô Mục Tử.
Đức Giê-su cũng đã khẳng định trước mặt các môn đệ là Ngài đến để phục vụ chứ không để được phục vụ. “Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 43-45)
Trong dịp truyền chức cho 10 tân linh mục tại Roma ngày 7-5-2017, ĐTC đã nhắn nhủ các tân chức như sau: “Chúa Giêsu là Thượng Tế duy nhất trong Tân Ước, nhưng Chúa đã muốn chọn riêng một số người nhất định trong số các môn đệ của mình. Nên Giáo hội nhân danh Chúa mà thực hành chức linh mục, để họ tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu như là thầy giảng, linh mục, và mục tử. Chúa Giêsu không chọn những người đó để cho họ một nghề nghiệp, một sự nghiệp, nhưng là để phục vụ. Trên tất cả, ơn gọi của linh mục là phục vụ dân Chúa, chính điều này hiệp nhất các linh mục với Chúa Kitô. Các linh mục sẽ là thầy giảng Tin mừng, mục tử của dân Chúa, và sẽ chủ trì các nghi thức thờ phượng, nhất là việc cử hành tưởng niệm lễ hy sinh của Chúa Chí Thánh.” [7]
Việc phục vụ luôn nhắc đến nhiệm vụ và đức tính của người đầy tớ. Đi theo ơn gọi làm linh mục là chấp làm đầy tớ Dân Chúa. Khái niệm làm đầy tớ không hạ thấp tư cách và phẩm chất linh mục, nhưng nó đòi hỏi người phục vụ luôn có thái độ khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, bao dung, nhiệt thành, tế nhị trong khi thi hành sứ vụ mục tử.
Về điều này, xin nhắc lại đoạn thư đã dẫn của ĐTGM Giu-se Nguyễn Năng nhắc nhở các tân linh mục: “Cách đây vài tháng, ngày các con thụ phong phó tế, cha đã nói các con hãy nhớ mình chỉ là đầy tớ. Muốn làm linh mục thì phải biết làm đầy tớ. Chịu chức phó tế là tập làm đầy tớ, để sau này khi thụ phong linh mục sẽ biết làm đầy tớ của Dân Chúa. Thụ phong linh mục không có nghĩa là từ nay không còn là đầy tớ nữa, trái lại, phải là đầy tớ đi xuống thấp hơn nữa, là đầy tớ suốt đời. Hãy nhớ mình chả là gì đâu. Từ bụi tro Chúa nâng con lên ; Chúa nâng con lên nhưng con vẫn chỉ là bụi tro.”
Nhân đây, cũng xin được nhắc lại một đoạn trong bài giảng của ĐTGM Giu-se Nguyễn Năng tại buổi lễ phong chức linh mục cách đây một năm, ngày 25-8-2020 tại giáo phận Phát Diệm, như sau: “Chúng con phục vụ, quản trị cộng đoàn như thế nào để người ta thấy Chúa Giêsu ở nơi chúng con. Và nhất là, chúng con cùng với toàn thể Giáo hội loại trừ cái ‘Óc Giáo sĩ trị’ ra khỏi Giáo hội tuyệt đối. Lấy quyền mà dọa nạt, rồi la lối, rồi mắng mỏ, rồi đe dọa, rồi vạ tuyệt thông…Tất cả những cái đó là những cái lỗi thời và sai tinh thần Phúc Âm và làm cho người ta không thấy được Chúa Giêsu nơi con người của mình, mà như vậy thì không bao giờ có thể loan báo Tin Mừng hay Truyền giáo được. Dứt khoát loại trừ ‘Óc Giáo sĩ trị’.” [8]
Quả vậy, phục vụ là cung cách hành động và ứng xử của một đầy tớ chứ không phải của ông chủ. Hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ đã minh họa rõ ràng về điều đó. Và còn hơn thế nữa, đối với Chúa, tột cùng của phục vụ là hy sinh mạng sống và chịu chết vì đàn chiên. Cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh hùng hồn cho điều đó. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8); “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13).
ĐTC Phan-xi-cô cũng đã có dịp nhắn nhủ các tân linh mục như sau: “Giáo Hội không ở bên trên thế giới, nhưng ở bên trong thế giới để làm cho nó dậy men. Vì vậy phải loại bỏ mọi hình thức Giáo sĩ trị: chúng ta không được có các thái độ kênh kiệu, ngạo mạn hay uy quyền. Để là các chứng nhân đáng tin cậy, cần nhớ rằng trước khi là linh mục, chúng ta luôn luôn là phó tế; trước khi là thừa tác được thánh hiến, chúng ta là anh em của mọi người. Cả óc tìm kiếm địa vị và gia đình trị cũng phải gạt bỏ bởi vì cái luận lý của chúng là thứ luận lý của quyền bính, nhưng linh mục không phải là người của quyền bính mà của việc phục vụ. Thề rồi làm chứng tá có nghĩa là trốn chạy mọi kiểu sống hai mặt trong chủng viện, trong đời tu, trong đời linh mục. Không thể sống luân lý hai mặt: một cho dân Chúa, một trong nhà riêng. Chứng nhân của Chúa Giêsu phải luôn luôn thuộc về Ngài. Vì tình yêu Ngài mà ta dấn thân chiến đấu mỗi ngày chống lại các tật xấu của mình và mọi tinh thần thế tục tha hóa.” [9]
3- TẬP TRUNG VÀO VIỆC NÂNG CAO PHẨM CHẤT LINH MỤC
Trong phần cuối lá thư ngày 15-8-2021 dẫn trên, ĐTGM Saigon Giu-se Nguyễn Năng đã nhắn nhủ quý thầy phó tế như sau: “Trong ngày vui của các con, cha cùng với giáo phận tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các con. Dân Chúa khao khát những linh mục có phẩm chất cao. Đúng vậy, khao khát lắm! Ai cũng thích mua hàng chất lượng cao. Hàng kém chất lượng sẽ bị ế và tồn kho, không biết đẩy đi đâu. Các con hãy đáp lại kỳ vọng thánh thiện của Dân Chúa.”
Linh mục được Chúa chọn sẽ sống ơn gọi, thể hiện căn tính và thi hành sứ vụ khác với nhãn quan của thế gian. Các ngài sẽ là những mục tử như lòng Chúa mong ước, như Hội thánh mong đợi và như tín hữu kỳ vọng.
Thực vậy, “vì linh mục là hiện thân của Chúa Kitô giữa trần gian, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội khắp nơi ngày một thêm “tục hóa” vô lương tâm và vô luân hiện nay, cho nên mọi linh mục đều được mong đợi sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu, dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với người phàm trong mọi chiều kích thế tục mà trở nên Con Người để cứu chuộc và thần linh hóa (divinize) loài người hầu cho giúp con người được sống hạnh phúc và “được thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” này, như Thánh Phêrô đã dạy (2 Pr 1,4)”. [10]
Có thể nói ngày nay, người ta nhận xét và đánh giá linh mục không dựa trên những yếu tố như bằng cấp, học vị, tài năng, thông thái, uyên bác…cho bằng dựa trên những phẩm chất đặc thù của người môn đệ của Chúa, đó là sự thánh thiện, là sự mẫu mực trong đời sống đức tin và nhân bản, là sự say mê việc tông đồ truyền giáo và sự nhiệt thành thực thi bác ái mục tử.
Dưới đây, xin mạn phép bàn sơ qua về mấy phẩm chất của người mục tử hiện thân của Đức Giê-su Ki-tô giữa trần gian. Đó là: Gương sống thánh thiện, Gương sống đức tin và nhân bản mẫu mực và Gương nhiệt thành bác ái mục tử.
Gương sống thánh thiện
Có thể nói nên thánh là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của linh mục. Bởi vì linh mục không thánh thiện thì làm sao trình bày và nêu gương thánh thiện cho giáo dân được. “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo!”. Muốn cho giáo dân đạo đức sốt sắng thì linh mục cần làm gương thánh thiện. Do đó sự thánh thiện luôn là phẩm chất đáng quý nhất nơi vị linh mục. Khi tiếp xúc với linh mục nào đó, điều mong ước đầu tiên của người tín hữu, đó chính là được đón nhận sự thánh thiện tỏa ra từ các ngài. Sự thánh thiện ấy âm thầm và sâu lắng, nó mang sức sống của hiện thân Đức Ki-tô, mang hơi ấm của tình yêu, sự dịu ngọt của Lời Chúa và sự thân ái của tình người.
Khi đề cập đến vấn đề “Căn tính linh mục là sự thánh thiện”, một tác giả đã viết như sau: “Đặc biệt linh mục, nhờ bí tích Truyền chức, được thông phần chức tư tế của Đức Kitô khác với các tu sĩ và giáo dân, được hành động nhân danh và với tư cách Đức Kitô, cho nên linh mục càng phải lo sống thánh thiện nhiều hơn vì Đức Kitô đã dạy rằng “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều hơn… Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”(Lc 12,47-48). Lời dạy của Đức Kitô quả là “căng’, vậy linh mục phải làm thế nào để nên thánh đúng với căn tính mình, bởi vì căn tính của mình đòi hỏi mình phải thánh thiện. Tông thư “Bước vào ngàn năm mới” (2001) đặt ra bảy ưu tiên mục vụ mà việc đứng hàng đầu là : Sống thánh thiện rồi cầu nguyện, cử hành lễ Chúa nhật, bí tích Hòa giải, dành chỗ đứng tối cao cho ân sủng, lắng nghe Lời, và loan báo Lời (số 27).” [11]
Trong tuyển tập “Được chọn và sai đi”, ĐGM GB Bùi Tuần giáo phận Long Xuyên đã viết như sau: “Làm sao để khi gặp linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng vô hình đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến với lịch sử hôm nay. Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện diện và đến như một tình thương, một hi vọng, một sức mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn.” [12]
Gương sống đức tin và nhân bản mẫu mực
Trở lại bài giảng ngày 25-8-2020 của ĐTGM Saigon Giu-se Nguyễn Năng tại Gp Phát Diệm, ta thấy có đoạn chia sẻ như sau:
“Cho nên cả cuộc đời của chúng ta, bản thân của chúng ta, lối sống của chúng ta, lời ăn tiếng nói của chúng ta, cách cư xử của chúng ta, cách phản ứng của chúng ta, cách giải quyết vấn đề của chúng ta, cách phục vụ của chúng ta, tất cả phải làm sao để cho thấy Chúa Giêsu trong con người của các con. Người ta nhìn vào đời sống của các con người ta thấy Chúa Giêsu và người ta có thể thốt lên rằng: quả thật đây là người Mục Tử của Chúa, quả thật đây là hình ảnh của Chúa Giêsu, là linh mục thật chứ không phải là linh mục giả. Cho nên các con phải cố gắng từng ngày nên hoàn thiện hơn.” [13]
Thực vậy, ngoài việc sống đời nội tâm thánh thiện, linh mục sẽ luôn là tấm gương về đời sống đức tin và nhân bản để tín hữu học hỏi và bắt chước noi theo. Vẫn biết, linh mục cũng là con người như bao nhiêu người khác, cũng yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi, ngài không phải là một “siêu nhân” hay một vị “thánh sống”. Nhưng căn tính, phẩm giá, sứ vụ và ơn gọi của ngài buộc các ngài phải thường xuyên tu luyện để có một đời sống gương mẫu về đức tin và nhân bản. Trong Tông huấn “Evangelii Nuntiandi” (số 41) ĐTC Phao-lô VI đã viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”
LM Đỗ Xuân Quế OP trong bài “Tính nhân bản trong cách hành xử của linh mục”, cũng đã viết như sau: “Ở chủng viện các chủng sinh được học hành nhiều thứ và huấn luyện khá đầy đủ về đường đạo đức, nhưng có một mặt xem ra ít được để ý và coi trọng, đó là tính nhân bản. Nhân bản là lấy con người làm gốc trong cách giao tiếp đối xử, nghĩa là trọng kính người ta, khi nói năng, gặp gỡ, dù người ta ở cấp bậc nào, có học hay không có học, giàu sang hay nghèo hèn, Công giáo hay ngoài Công giáo, hay nói khác đi, tính nhân bản là cách đối xử sao cho có tình người và tính người…” [14]
Đa số những ai quan tâm đến đời sống, tư cách và phẩm chất của linh mục, thì đều nhận xét rằng một số linh mục của chúng ta hiện nay đang thực sự “xuống cấp”. Các ngài quá hướng ngoại, quá lo lắng bận tâm về những vấn đề ít có liên quan gì tới mục vụ. Trong khi đó, giáo dân khao khát những của ăn tinh thần, mong đợi những hướng dẫn đạo đức, những giải đáp của Tin Mừng cho những vấn nạn trong cuộc sống, việc cử hành Phụng vụ sốt sắng, bài giảng chất lượng cao, những lớp giáo lý phổ thông, những học hỏi thiết thực cho đời sống đức tin và nhu cầu cộng đoàn, những đồng cảm, chia sẻ qua việc thăm viếng mục vụ vv.
Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận cũng đã nhắc nhở linh mục như sau: “Mở rộng tâm hồn đến những thao thức của cộng đoàn, của Giáo phận và Giáo hội toàn cầu, thì quan trọng hơn chăm chú vào những bận tâm riêng, cho dù thiết yếu đến đâu đi nữa.” (x. Mười điều răn cho linh mục).
Đức TGM Vũ Văn Thiên đã chia sẻ thao thức của ngài trong một buổi huấn đức các chủng sinh và ứng sinh linh mục, có đoạn ngài đặt câu như sau:
“Tại sao một số tu sĩ, chủng sinh và linh mục thời nay say mê rượu chè, tiệc tùng, du lịch, hò hát, nhảy nhót, chơi xe, chơi cây, chơi đồ cổ, chơi động vật quý hiếm và nhiều thú vui phù phiếm phàm tục khác?”
Rồi ngài giải đáp: “Đó là những hệ lụy do đời sống nội tâm không có.
“Vì thế, chúng ta là chủng sinh, ứng sinh linh mục, người cử hành Phụng vụ, giáo dân là người tham gia. Nếu không có đời sống nội tâm, thì tất cả chỉ là những việc làm hời hợt bên ngoài và không đem lại ích lợi gì. Nó giống như một sự kiện văn hoá ngoài đời, người ta chú ý đến việc lôi kéo người khác đến thật đông, thật vui để kinh doanh lợi nhuận. Nếu thiếu đời sống nội tâm, thì đời tu sẽ trống rỗng, vô nghĩa, uổng công.” [15]
Gương nhiệt thành bác ái mục tử.
Chúng ta biết rằng, hiện nay do tình hình dịch bệnh Covid-19 giai đoạn 4 xem ra khá trầm trọng và diễn biến phức tạp. Thống kê hằng ngày cho thấy mỗi ngày cả ngày cả ngàn người nhiễm, cả trăm người chết. Nhiều gia đình rơi vào cảnh túng thiếu, đói khổ vì thất nghiệp và bệnh tật. Trước tình cảnh này, giáo quyền khắp nơi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa ra tay giúp đỡ bằng đủ mọi cách và với nhiều nguồn lực. Đặc biệt, đã nhiều linh mục, tu sĩ, dòng tu, chủng viện, đoàn thể tín hữu…tình nguyện tham gia chống dịch và công tác cứu trợ. Đây là biểu hiện của việc thực thi bác ái Ki-tô giáo cách chung và cũng nhắc ta suy nghĩ về đức ái mục tử cách riêng.
Trong bài viết tựa “Vài suy tư về đức ái mục tử”, tác giả viết như sau: “Đức ái mục tử chính là tình yêu của Đức Kitô – Linh Mục Thượng Phẩm và Mục Tử nhân lành. Linh mục là họa ảnh của Đức Kitô nên đức ái mục tử không thể vắng bóng trong tâm hồn và đời sống của linh mục (x. Ga 13, 34-35). Đức ái mục tử có tầm quan trọng rất lớn và là tâm điểm của mọi chương trình huấn luyện mục vụ: “Toàn bộ công cuộc đào tạo đại chủng sinh phải nhắm đến mục tiêu là giúp họ trở thành những mục tử đích thực của các linh hồn, theo mẫu gương của Đức Kitô” (PDV, số 57).
“Linh mục được kêu gọi trở nên giống Đức Kitô qua việc sống và thể hiện đức ái mục tử đã được Chúa Thánh Thần tuôn đổ qua và trong Bí tích Rửa tội và Truyền Chức thánh (x. Rm 5, 5). Do đó, đức ái mục tử không là sự nhiệt tâm, mối ưu tư mục vụ hay những bổn phận của linh mục nhưng phải là căn tính và nền tảng của thiên chức linh mục. Nhờ đức ái mục tử, linh mục sẽ có thể đáp ứng các nhu cầu cùng những nỗi khổ đau của con người như chính Đức Kitô đã làm. Nhờ đó, linh mục sẽ mang tình yêu và lòng thương xót của Đức Kitô – Mục Tử nhân lành đến cho mọi người.” [16]
ĐTC Phan-xi-cô cũng đã có dịp kêu gọi các linh mục thực thi đức bác ái mục tử, yêu mến Chúa hết lòng, vượt thắng cá nhân chủ nghĩa và có tinh thần hy sinh từ bỏ. Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 1-4-2017 dành cho 160 người thuộc ban giám đốc, các linh mục sinh viên và cựu sinh viên Học viện Giáo Hoàng Tây Ban Nha tại Roma, nhân dịp kỷ niệm 125 năm thành lập Học Viện này.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa lời Chúa Giêsu trả lời cho một thầy Lêvi: “Con hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực” (Mc 12,30), và ngài rút ra những kết luận thực hành: Đức bác ái mục tử đòi chúng ta phải đi ra ngoài, gặp gỡ tha nhân, cảm thông, đón nhận và thành tâm tha thứ cho họ. Nhưng không thể có sự tăng trưởng trong bác ái nếu sống trong cô độc. Vì thế, Chúa kêu gọi chúng ta họp thành một cộng đoàn, để đức bác ái tụ tập tất cả các linh mục trong mối liên hệ đặc biệt của sứ vụ và tình huynh đệ”. [17]
ĐTGM John R. Quinn, nguyên là TGM San Francisco, California Mỹ, trong bài viết “Linh mục ngày nay” đăng trong tuần báo America, tháng 7- 2002 đã viết như sau:
“Các linh mục không chỉ nguyên lo cho đời sống thiêng liêng của mình, nhưng các ngài được nâng đỡ, được phong phú hóa và tìm thấy sức mạnh ngay khi sống cho giáo dân và sống giữa giáo dân. Họ gặp thấy Chúa Ki-tô ngay khi làm việc với giáo dân cũng như khi âm thầm cầu nguyện một mình. Họ thật sự đã sống sâu xa lý tưởng linh mục đã được ghi lại trong Phúc Âm thánh Gioan, chương 10: ‘Người mục tử tốt lành là người mục tử dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’…” [18]
[1] https://phatdiem.org/thu-muc-vu/thu-gui-cac-pho-te-chuan-bi-thu-phong-linh-muc.html
[2] http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module3&v=chapter&ib=48&ict=604
[3] https://vntaiwan.catholic.org.tw/banhca/banhca02.htm
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/10-dieu-ran-cua-linh-muc-26022
[5] http://conggiao.info/muoi-can-benh-lam-bang-hoai-nguoi-cong-giao-d-48860
[6] https://phatdiem.org/thu-muc-vu/thu-gui-cac-pho-te-chuan-bi-thu-phong-linh-muc.html
[7] http://phanxico.vn/2017/05/07/linh-muc-hay-phuc-vu-voi-niem-vui/
[8] https://www.youtube.com/watch?v=cAKgpB8G9uw
[9] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2018-09/dgh-phanxico-palermo-linh-muc-tu-si-chung-sinh.html
[10] LM Ngô Tôn Huấn – Linh mục, Đức Ki-tô thứ hai (alter Christus) phải là người như thế nào? – Đặc san giáo sĩ Việt Nam, số 279, CN 17-7-2016
[11] https://gpcantho.com/bai-6tim-hieu-ve-can-tinh-linh-muc/
[12] ĐGM GB Bùi Tuần – Được chọn và sai đi – Gp Long Xuyên 2003 – trang 62
[13] https://www.youtube.com/watch?v=Uj3iLRH3DXg
[14] x. VietCatholic News, ngày 23-1-2005
[15] Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên thăm và huấn từ cho các chủng sinh ĐCV Bùi Chu, ngày 16-04-2018, tại https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-cha-giuse-vu-van-thien-tham-va-huan-tu-cho-cac-chung-sinh-dcv-bui-chu-32290
[16] https://giaophanvinhlong.net/vai-suy-tu-ve-duc-ai-muc-tu.html
[17] https://dongcong.us/duc-thanh-cha-keu-goi-cac-linh-muc-thuc-thi-duc-bac-ai-muc-tu/
[18] http://vietcatholic.com/News/Html/24798.htm
Aug. Trần Cao Khải
2021
Là một Tín Hữu nhưng tôi chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, tôi phải bắt đầu từ đâu?
Là một Tín Hữu nhưng tôi chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, tôi phải bắt đầu từ đâu?
Kinh thánh là câu chuyện về Giao Ước giữa Thiên Chúa và loài người. Câu chuyện về một Thiên Chúa yêu thương con người vô bờ bến và câu chuyện về con người, là những người không bao giờ được phép quên Giao ước mà Thiên Chúa muốn ký kết với họ mãi mãi.
Thiên Chúa không mệt mỏi hồi sinh dân tộc của mình và đổi mới kế hoạch liên kết của Ngài với họ. Những bản trình thuật trong Cựu Ước làm chứng cho điều này. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu Kitô, trong Tân Ước, Thiên Chúa đích thân đến gặp gỡ nhân loại để ký kết với họ một Giao ước mà lần này là dứt khoát và vĩnh cửu.
Kinh thánh, nơi gặp gỡ Thiên Chúa
Tin vào Thiên Chúa là chuyện khá đơn giản, chỉ cần nói “đồng ý” với sự Liên kết này: tìm kiếm Thiên Chúa và chuẩn bị sẵn sàng để đón chào Ngài. Kinh thánh là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là sự nuôi dưỡng cần thiết cho đức tin. Nhưng bắt đầu từ đâu?
Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Gioan 14: 9). Như vậy, mỗi cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, mỗi lời nói, mỗi hành động của Ngài đều nói lên điều gì đó về Thiên Chúa. Do đó, những câu chuyện của các thánh sử trong các sách Tin Mừng là cửa ngõ để khám phá Thiên Chúa qua Chúa Kitô.
Lấy ví dụ câu chuyện của người phụ nữ Samaria (Gioan 4). Chúa Giêsu xin chị ấy cho uống nước “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Gioan 4: 7). Chúa Giêsu khao khát được gặp cô ấy! Đổi lại, cô ấy xin Ngài ban cho nguồn nước tạo nên sự sống vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã nói “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Gioan 4: 15). Chúa Kitô soi sáng mọi ngõ ngách của cuộc đời chị, chị đã có 5 đời chồng “Chị nói: “Tôi không có chồng” là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng” (Gioan 4: 17)…Chị không cảm thấy bị phán xét mà ngược lại nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây ” (Gioan 4: 19, 25), là Đấng làm cho chị đứng dậy, chuyển hướng cuộc đời đi theo sự sống mạnh mẽ hơn, khiến con người lớn lên, hướng tới sự thật hơn, được biến đổi “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Gioan 4: 28), và vui mừng làm chứng loan báo Tin Vui cho những người khác “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Ngài, dân Samari xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Gioan 4: 39-42).
Và Giakêu, một người thu thuế bất lương, đã leo lên cây của mình để gặp Chúa Giêsu “Sau khi vào Giêrikhô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó” (Luca 19:1-4). Khi Chúa Giêsu gọi ông ta và ghé về nhà của ông “Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Ngài nhìn lên và nói với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Luca 19:5), ông đã lấy lại được phẩm giá của mình “Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Luca 19: 9-10). Tất nhiên, ông có giá trị nhiều hơn tội lỗi của mình “…mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! ” (Luca 19: 7).
Phêrô, người đầu tiên trong số các tông đồ, cũng cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa qua Chúa Kitô. Ông đã chối Chúa Giêsu ba lần “Họ bắt Đức Giêsu, điệu Ngài đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy! ” Ông liền chối: “Tôi có biết ông ấy đâu, chị ” Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng! ” Nhưng ông Phêrô đáp lại: “Này anh, không phải đâu! ” Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê .” Nhưng ông Phêrô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì! ” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Luca 22:54-62), nhưng Chúa Kitô sau khi phục sinh cũng đã ba lần mời gọi ông làm người chăn bầy chiên của Ngài “Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy .” Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy .” Người lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy .” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy .” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không? ” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy .” Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Gioan 21:15-17), nghĩa là lãnh đạo Giáo hội của Ngài.
Như vậy, mỗi cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đều cho thấy một phần nào đó tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Cuộc hẹn của Thiên Chúa với mỗi chúng ta
Madeleine Delbrêl (1904 – 1964), đã từng là một người vô thần, trở thành giáo hữu, và truyền giáo cho các giới theo chủ thuyết Marxist, đã viết: “Tin Mừng không phải là một cuốn sách giống như bất kỳ cuốn sách nào khác. Tin Mừng giống như một cuộc hẹn với Chúa Kitô mà Ngài dành cho mỗi người chúng ta, cho đến tận cùng thời gian; một cuộc gặp gỡ giữa người với người, giữa một trái tim với trái tim, thân tình, cụ thể… Tin Mừng được viết ra trước hết không phải để chúng ta đọc mà thôi mà còn để chúng ta đón nhận”.
Trong bốn thánh sử, thánh Luca là người tường thuật nhiều nhất và có lẽ là dễ hiểu nhất. Thánh Máccô, tường thuật ngắn nhất. Thánh Gioan, biểu tượng nhất và Thánh Mátthêu là người mượn nhiều tài liệu tham khảo nhất từ các sách Cựu ước.
Nhưng một cách tổng quát, Tân Ước là sự ứng nghiệm những gì đã được nói trong Cựu Ước. Tân Ước ẩn mình trong Cựu Ước. Như vậy, hai Giao Ước này đối đáp qua lại với nhau. Nếu Tin Mừng là cánh cửa đi vào nhà dành cho các Kitô hữu, thì Cựu Ước là con đường dẫn đến cánh cửa đó.
Lạy Chúa Kitô, xin Chúa đổ đầy vào lòng con Lời tuyệt vời của Chúa, Lời dẫn đến Chân lý và Tự do đích thực có quyền năng biến đổi con sâu lắng khi con đọc, suy ngẫm và cầu nguyện với Lời Chúa. Xin Lời Chúa thấm đượm lòng con trong giờ tĩnh nguyện và trong đời sống mỗi ngày của con, để con trở thành chứng nhân cho những người chung quanh để họ cũng được Lời Chúa biến đổi. Amen.
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,
theo blog.jeunes-cathos.fr
*Người dịch có bổ sung một số câu trích dẫn tử Kinh Thánh.
2021
Khi nỗi đau cần được chữa lành
Khi nỗi đau cần được chữa lành
Hãy nhớ rằng, có một cội nguồn, mà từ đó ơn phúc được trào ra, nhưng đó cũng là nơi mà sự nổi loạn nảy sinh. Cội nguồn đó là nỗi đau. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành nỗi đau, và chỉ có Ngài mới có thể ban tặng một quả tim mới. Chỉ có Ngài mới có thể chịu đựng đau khổ mà không cay đắng, và rồi Ngài tiêu trừ nguyên nhân gây ra nỗi đau ấy.
Đối với chúng ta, khi nỗi đau còn ẩn sâu trong tâm hồn, thì nó càng nguy hiểm hơn. Bởi vì nỗi đau ấy, như thường thấy, sẽ tìm thấy trăm ngàn lỗ hổng để thoát ra ngoài, và gây nên đủ loại nỗi đau khác, và đó là lý do gây ra bao nhiêu tội lỗi khác.
Khi nỗi đau quá lớn đến mức không thể chịu nổi, chúng ta có thể kêu cầu, kêu gào lên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự, để mong Ngài chấm dứt nỗi đau và xin Ngài lấy lại công lý cho chúng ta, để đảo ngược con đường của kẻ ác. Thế nhưng, bạn thử nghĩ xem, nếu người gây cho bạn tổn thương nhiều nhất lại chính là người bạn yêu thương nhất; thử hỏi, khi đó bạn có còn chút sức lực nào để kêu lên với Chúa thực thi công lý hay không? Chẳng lẽ bạn sẽ không nhân danh tình yêu, mà xin dừng lại cánh tay nhân danh công lý sắp giáng xuống để trừng phạt?
Sự tha thứ có thể xoa dịu và thậm chí chữa lành nỗi đau, chữa lành vết thương. Thế nhưng, chỉ với ơn sủng thì sự tha thứ mới có thể có được, và chỉ với ơn sủng, thì sự chữa lành mới có thể diễn ra. Ơn chữa lành xảy ra khi nỗi đau được chấp nhận như một sự tham dự mật thiết vào nỗi đau của chính Thiên Chúa vì thụ tạo của Ngài. Khi đó, nỗi đau của thụ tạo, bất kể vì lý do gì, sẽ được tham dự vào mầu nhiệm đau khổ của chính Chúa Kitô.
Có một nghịch lý lớn lao ở đây: những gì đáng bị xa tránh theo bản năng, lại trở thành món quà đặc biệt; điều đã từng thúc đẩy cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa, giờ đây được khám phá như là ân sủng thuần khiết. Nghịch lý ấy chính là lẽ khôn ngoan của Thập Giá, là ân sủng tuyệt vời, là đặc quyền của những ai được tuyển chọn.
Quan trọng hơn là, đừng hình dung rằng, bạn có thể đảm bảo trái tim không bị tổn thương do những nỗi đau, bằng cách kìm nén chúng. Nghĩ như thế chỉ là ảo tưởng. Thực tế không phải vậy. Nỗi đau giống như con thú bị thương: nó trở nên hung dữ, ngay cả khi, bình thường nó là con thú hiền lành. Sẽ không thể giữ cho con thú bị thương nằm yên được. Điều chúng ta sẽ phải làm lúc ấy, là cố gắng ngăn chặn các cuộc tấn công mà con thú muốn. Ngay cả khi con thú nằm yên, trong lúc bị thương, thì sự nằm yên ấy chỉ là một sự tĩnh lặng không thật. Bởi lẽ, con thú bị thương sẽ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, sẽ không thể được thuần hóa.
Điều thực sự chúng ta có thể làm là gì? Đó là học cách từ người chủ của con thú. Người chủ nhận ra con chó của anh có một chân bị thương. Anh thận trọng và can đảm tới gần con chó của mình, để chạm tới cái chân bị thương. Mặc cho con chó nhe răng gầm gừ, nhưng người chủ quan tâm, nhìn rõ cái gai cắm vào chân con chó, để lấy cái gai đi, chăm sóc vết thương. Sau khi hết đau và được lành, con chó trở lại rất hiền và ngoan ngoãn nghe theo chủ mình.
Cũng thế, nếu trong trái tim bạn còn những nỗi đau, những vết thương đang rỉ máu, thì việc kiềm chế những đam mê xấu sẽ rất khó khăn. Vì vậy, hãy cầu xin Chúa với sự tin tưởng và kiên nhẫn, để Ngài chữa lành những nỗi đau đang hành hạ bạn, để bạn được tự do.
Chuyển ngữ từ tiếng Ý: Tứ Quyết SJ
Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore, Introduzione di Daniele Libanori, (San Paolo 2020).
Trong tuần tĩnh tâm mùa chay (từ chiều chúa nhật 21/2/2021 đến trưa thứ sáu 26/2/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi Giáo triều Roma và các tín hữu tìm về cùng Thiên Chúa, kín múc nghị lực để đương đầu với những thách đố mới. Vì đại dịch Covid, các vị không tĩnh tâm chung như mọi năm, nhưng mỗi vị tĩnh tâm riêng tại nơi thích hợp. Đức Thánh Cha gửi tặng mỗi vị cuốn sách thiêng liêng giúp suy niệm với tựa đề “Abbi a cuore il Signore” (Hãy có Chúa trong lòng). Sách dầy 320 trang gồm các thủ bản cũ do một đan sĩ thuộc Đan viện thánh Bartolo biên soạn hồi thế kỷ 17, trên từng tờ rời, dường như để hướng dẫn các môn đệ.