2023
Tại sao việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đã bị cấm trong 20 năm?
Ban đầu Vatican cấm việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót là do bản dịch sai cuốn “Nhật Ký Nhỏ” của thánh Faustina Kowalska.
Nếu ngày nay Giáo hội Công giáo chấp nhận việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót được mạc khải cho thánh Faustina Kowalska, thì điều này không phải lúc nào cũng thế. Thật vậy, Vatican đã kiểm duyệt việc sùng kính này trong hai mươi năm, từ 1959 đến 1979, cấm phổ biến và quảng bá việc sùng kính này. Các linh mục Dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội giải thích lý do cho điều này trên trang web Lòng Chúa Thương Xót của họ:
Cha Sopocko chăm lo việc phổ biến lòng sùng kính này. […] Năm 1959, Vatican nhận được các bản dịch sai và khó hiểu của cuốn « Nhật Ký Nhỏ » và đã cấm phổ biến việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót dưới các hình thức do nữ tu Faustina đề xuất.
Đây là bản dịch sắc lệnh chính thức của Vatican ngày 19 tháng 11 năm 1958, và sau đó được tái khẳng định vào năm 1959:
Bản chất siêu nhiên của những điều mặc khải cho nữ tu Faustina là không rõ ràng. Không được thiết lập bất cứ lễ nào về Lòng Chúa Thương Xót. Cấm tiết lộ những hình ảnh và bài viết tuyên truyền lòng sùng kính này dưới hình thức mà nữ tu Faustina nhận được.
Tuy nhiên, Cha Sopocko, người trực tiếp tiếp xúc với nữ tu Faustina, đã tự an ủi mình khi biết rằng tất cả những điều này là ứng nghiệm một lời tiên tri của nữ tu Faustina. Sơ đã viết (mục 378): « Sẽ đến lúc công việc này [của Lòng Thương Xót], mà Thiên Chúa đang đòi hỏi rất nhiều, sẽ như thể hoàn toàn bị hủy bỏ. Và rồi Chúa sẽ hành động với quyền năng to lớn, vốn sẽ đưa ra bằng chứng về tính xác thực của nó. Nó sẽ là một vẻ huy hoàng mới cho Giáo hội, mặc dù nó đã tiềm tàng trong đó từ lâu ».
Lệnh cấm này đã bị Tổng Giám mục Krakow, Karol Wojtyła, đặt vấn đề vì ngài biết rõ rằng Vatican đã nhận được những bản dịch sai của cuốn Nhật ký. Vị Giáo hoàng tương lai chắc chắn rằng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót không trái với đức tin Công giáo và đã coi đó là sứ mệnh của mình để chứng minh quan điểm của mình.
Do đó, vào năm 1965, ngài bắt đầu quá trình điều tra về cuộc đời và nhân đức của nữ tu Faustina Kowalska và giao cuốn « Nhật Ký Nhỏ » cho một trong những nhà thần học hàng đầu của Ba Lan là cha Ignacy Różycki. Tuy nhiên, cha không thực sự muốn lãng phí thời gian để phân tích những gì mà người ta đồn đại với ngài là ảo giác của một nữ tu ít học. Tuy nhiên, ngay trước khi gửi lá thư từ chối cho Đức Tổng Giám mục, cha cầm cuốn Nhật ký lên và tình cờ bắt đầu đọc vài trang « chỉ để giết thời gian. » Thành kiến của cha đối với nó ngay lập tức bị lung lay. Rồi, ngài đọc hết toàn bộ, và sau đó đã quyết định dành phần đời còn lại của mình để nghiên cứu và truyền bá thông điệp của nữ tu.
Văn bản đã được xem xét lại và Đức Wojtyła đã đệ trình lại cho Vatican để xem xét vào năm 1977. Vài tháng sau, vào năm 1978, Đức Hồng y Karol Wojtyła trở thành Giáo hoàng Gioan-Phaolô II.
Năm 1979, Bộ Giáo lý Đức tin nhận được kết quả nghiên cứu của cha Różycki cũng như các bản dịch chính xác hơn. Bộ nghiên cứu văn bản về việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót với bản dịch chính xác hơn này và không tìm thấy điều gì có thể ngăn cản sự lan truyền của nó. Bộ đã thông báo cho Dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội rằng lệnh cấm về lòng tôn sùng của nữ tu Faustina cuối cùng đã được dỡ bỏ. Trong một lá thư giải thích về quyết định này, Bộ đã viết: « Về phía Thánh Bộ này, không còn tồn tại bất kỳ trở ngại nào đối với việc truyền bá việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót dưới những hình thức đích thực do Nữ tu [Faustina] đề xuất. » Cuối cùng, đó là: « Nihil Obstat » từ chính Vatican!
Với lệnh cấm được bãi bỏ, Bức Ảnh, Nhật Ký, Tràng Chuỗi, đánh dấu ngày Lễ và Giờ cầu nguyện với Lòng Chúa Thương Xót lan rộng nhanh chóng trên khắp thế giới.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, trong thánh lễ phong thánh cho nữ tu Faustina Kowalska, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết lập Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh theo lịch phụng vụ, và kể từ đó, lòng sùng kính này đã lan rộng khắp thế giới.
Tý Linh (theo Philip Kosloski, Aleteia , và The Mercy Devotion)
2023
9 Câu nói đáng nhớ của ĐTC Phanxicô từ ĐHGTTG 2023
Trong những ngày gần đây, chúng ta đã vừa chứng kiến và theo dõi sát sao chương trình bận rộn của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Đại hội Giới trẻ Thế giới 2023 ở Lisbon.
Trong các cuộc gặp gỡ khác nhau mà Người kế vị Thánh Phêrô đã có với vô số thanh thiếu niên hành hương và tình nguyện viên, ngài đã truyền đạt một số thông điệp mạnh mẽ được nhiều người Công giáo trên khắp thế giới đón nhận.
Dưới đây chúng tôi xin chia sẻ 9 câu nói chứa đựng sự khôn ngoan tuyệt vời để chúng ta trân trọng gìn giữ trong trái tim mình.
1-3. Không ai bị bỏ lại hoặc bỏ quên
Từ nghi thức chào đón:
“Có rất nhiều điều lôi cuốn và hứa hẹn đem đến hạnh phúc cho chúng ta nhưng sau đó lại lộ rõ chúng thật sự là gì: những thứ phù phiếm, thừa thải mà chúng ta không cần đến và chỉ mang lại cho chúng ta sự trống rỗng bên trong.”
“Các bạn thân mến, Cha muốn làm rõ với các con rằng vì chúng con dị ứng với sự giả dối và những lời lẽ sáo rỗng: trong Giáo Hội, có chỗ cho tất cả mọi người. Tất cả mọi người. Trong Giáo Hội, không ai bị bỏ lại hay bị bỏ rơi. Có chỗ cho tất cả mọi người. Khi chúng ta là chính mình. Tất cả mọi người.”
“Chúa không chỉ tay, nhưng mở rộng vòng tay. Thật kỳ lạ: Chúa không biết cách làm điều này [chỉ tay], mà biết cách làm điều kia [mở rộng vòng tay]. Người ôm lấy tất cả chúng ta. Người tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu trên thập giá, Đấng đã dang rộng vòng tay để chịu đóng đinh và chết thay cho chúng ta.”
(Thứ Tư, ngày 03 tháng 8 năm 2023)
4. Yêu là mạo hiểm
Từ buổi Chặng đàng Thánh giá:
“Yêu là mạo hiểm. Chúng ta phải chấp nhận mạo hiểm khi yêu. Tuy nhiên, mặc dù đó là một mạo hiểm, nhưng đó là một mạo hiểm đáng để chấp nhận, và Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta khi chúng ta yêu. Người luôn đồng hành với chúng ta, luôn sánh bước cùng chúng ta. Trong suốt cuộc đời của chúng ta, Người luôn ở bên cạnh chúng ta.”
(Thứ Sáu, ngày 4 tháng 8 năm 2023)
5. Từ ngờ vực đến ước mơ
Từ buổi gặp gỡ với các sinh viên đại học:
“Vì vậy hãy can đảm để thay thế những ngờ vực của các con bằng những ước mơ. Hãy thay thế những nghi ngờ của bạn bằng những ước mơ: đừng làm con tin cho nỗi sợ hãi của các con, mà hãy bắt tay vào thực hiện mục tiêu của mình!”
(Thứ Năm, ngày 3 tháng 8 năm 2023)
6. Bạn thật tốt đẹp
Từ buổi đọc Kinh Truyền Tin:
“Chúa nhìn thấy tất cả những điều tốt đẹp mà các con đang có, chỉ một mình Người mới biết những gì Người đã gieo vào lòng các con. ”
(Thứ Bảy, ngày 5 tháng 8 năm 2023)
7-9. Niềm vui là truyền giáo
Từ buổi canh thức với giới trẻ:
“Cha để lại cho các con những suy nghĩ này. Hãy tiến lên; nếu các con ngã, hãy đứng dậy; hãy bước đi với một mục tiêu trong đầu, và rèn luyện mỗi ngày trong cuộc sống của các con. Trong cuộc sống, không có gì là miễn phí, mọi thứ đều có giá của nó. Chỉ có một điều là miễn phí: tình yêu của Chúa Giêsu! Vì vậy, với món quà nhưng không này mà chúng ta có được – tình yêu của Chúa Giêsu – và với ước muốn tiếp tục cuộc hành trình, chúng ta hãy bước đi trong hy vọng, chúng ta hãy lưu tâm đến cội nguồn của mình và tiến bước mà không sợ hãi. Đừng sợ.”
“Đó là lần duy nhất, lần duy nhất mà chúng ta được phép nhìn người khác từ trên cao xuống: khi chúng ta tỏ ý muốn giúp họ đứng dậy.”
“Niềm vui là truyền giáo. Niềm vui không chỉ dành cho riêng mình; niềm vui là để chia sẻ điều gì đó với người khác.”
Tác giả: Mia Schroeder
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Nguồn: Aleteia (16/8/2023)
2023
Ký ức về lỗi lầm và công bằng xã hội, hai khía cạnh của sự cứu chuộc
“Trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều thiếu thốn và chúng ta cần lòng thương xót. […] Tất cả chúng ta đang mắc nợ Thiên Chúa, Đấng rất quảng đại, và mắc nợ anh chị em. Mọi người đều biết rằng chúng ta chưa thực sự là cha mẹ, chồng hay vợ, anh chị em như chúng ta phải là”. Những lời này của Đức Thánh Cha Phanxicô, được nói vào tháng 4/2021, giúp hiểu không chỉ về trọng tâm của khái niệm lòng thương xót trong thông điệp thần học của ngài, nhưng còn là bản chất của lòng thương xót trong đời sống Giáo hội và của mỗi Kitô hữu. Do tầm quan trọng của cả hai khía cạnh này, Báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh có cuộc phỏng vấn với giáo sư Giacomo Canobbio của Phân khoa Thần học Bắc Ý ở Milano, và giám đốc khoa học của Hàn lâm viện Công giáo Brescia, nhằm giúp khám phá mối liên hệ của chúng với những “hạt giống” thần học khác của Đức Thánh Cha.
Trong ngôn ngữ hàng ngày, “thực thi công bằng” đôi khi đồng nghĩa với việc trả thù: bắt một người phải chịu một hình phạt tương ứng với điều xấu họ đã làm, đến mức loại bỏ họ nếu điều ác được thực hiện là nghiêm trọng và là mối đe dọa cho xã hội. Theo quan điểm này, tiêu chí mà người ta tiến hành là hình phạt phải tương xứng với tội đã gây ra. Tuy nhiên, bằng cách này, người ta đặt quá nhiều niềm tin vào hình phạt, cho rằng nó có thể phục hồi con người và chữa lành điều ác gây ra cho xã hội. Để sửa chữa giới hạn của quan điểm này, trong vài thập kỷ qua trong lĩnh vực luật hình sự, một con đường gọi là công lý phục hồi đã được đưa ra. Mục tiêu của công lý là phục hồi phẩm giá của người phạm tội, tái hòa nhập người này vào xã hội với một khuôn mặt mới, tương ứng với những gì người này phải là.
Trong bối cảnh này nảy sinh ý tưởng về lòng thương xót, đặc trưng cho hành động của Thiên Chúa đối với những người có tội và nhân loại nói chung. Tuy nhiên, lòng thương xót không có nghĩa là giả vờ rằng điều ác chưa thực hiện; đúng hơn, đó là một hành động nhằm đổi mới con người và xã hội, làm cho họ tương ứng với bản tính do chính Thiên Chúa thiết lập. Đó là một hành động cứu độ. Về điều này tất cả các môn đệ Chúa Giêsu đều được mời gọi, những người, theo quan điểm Tin Mừng, đã trải nghiệm lòng thương xót, được mời gọi sử dụng lòng thương xót theo mẫu gương của Đấng đã phục hồi chúng ta. Nếu nhân loại bị đánh dấu bởi sự bất bình đẳng và đây là hậu quả của bất công, thì thực hiện công bằng sẽ có nghĩa là thực thi lòng thương xót, nghĩa là thái độ chữa lành. Do đó, lòng thương xót và công bằng xã hội không đối nghịch nhau: đúng hơn, chúng là hai khía cạnh của cùng một hành động nhằm làm cho con người và xã hội tương ứng với những gì họ phải là, nghĩa là theo hình ảnh và giống Thiên Chúa và một nơi trong đó phẩm giá của tất cả mọi người đều được nhìn nhận.
Thông thường công bằng xã hội, theo nghĩa công bằng phân phối và tái phân phối, đòi hỏi không có lòng thương xót. Làm thế nào lòng thương xót có thể củng cố công bằng xã hội trên bình diện đạo đức và chính trị?
Không có lòng thương xót, công bằng không thể đạt được. Vấn đề là làm thế nào mối liên hệ giữa hai “đức tính” có thể được duy trì về mặt chính trị. Nếu nhiệm vụ của chính trị là quản lý xã hội, thì vấn đề đặt ra liên quan đến mô hình xã hội mà người ta muốn thực hiện. Và đây là vấn đề đạo đức. Không có xã hội “công bằng” theo nghĩa được đề cập ở trên, bởi vì nếu nó tồn tại thì sẽ không cần luật pháp và thể chế điều chỉnh trật tự của các quan hệ xã hội. Luật pháp được ban hành để đạt được mục tiêu công lý. Vì lý do này, cần phải có những luật công bằng, nghĩa là, tương ứng với một xã hội công bằng, trong đó tất cả mọi người đều được công nhận một cách hiệu quả về phẩm giá, không tuỳ thuộc vào công trạng. Nhiệm vụ của chính trị là xây dựng và thực thi luật pháp cho phép mọi người được hưởng lợi ích như nhau để họ có thể sống tự do, tương ứng với phẩm giá của họ. Một xã hội công bằng là một xã hội giúp mọi công dân trở nên “công bằng”, nghĩa là có thể đóng góp vào việc xây dựng một cách có trách nhiệm xã hội mà họ thuộc về. Điều này bao gồm hành động chính trị tiến hành với các tiêu chí không mang tính đảng phái, nhưng tìm kiếm công ích, trong khi nhận thức được những hạn chế của chính mình.
Câu hỏi đặt ra là liệu lòng thương xót có thể và / hoặc cũng là động lực của hành động chính trị hay không. Người ta thường cho rằng tình cảm này phải được dành riêng cho các mối quan hệ giữa các cá nhân: chính trị chỉ có nhiệm vụ thực hiện công bằng. Tuy nhiên, nếu công bằng bị tách rời khỏi lòng thương xót, người ta sẽ tiếp tục với một ý tưởng hẹp hòi về công bằng vì nó bị giới hạn trong chiều kích trừng phạt và phân phối, quên đi chiều kích phục hồi. Về vấn đề này, cần nhắc lại nguyên tắc đã được hiền triết Cicero xây dựng, theo đó công bằng bao gồm việc trao cho mỗi người những gì phù hợp với họ theo phẩm giá. Bây giờ, nếu phẩm giá có giá trị “hữu thể học” để thực thi công bằng, thì nó có nghĩa là khôi phục phẩm giá đã mất cho tất cả mọi người; Và đây là công trình của lòng thương xót.
Vai trò của lòng thương xót trong đời sống Giáo hội ngày nay là gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải tìm hiểu thực hành và giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chính các môn đệ của Người phải thi hành. Cần phải xác định rõ rằng lòng thương xót không có nghĩa là buông lỏng. Thật vậy, nếu lòng thương xót có mục đích chữa lành con người, thì điều này cần phải có những con đường hoán cải, nghĩa là điều chỉnh cảm xúc, hành động, tư tưởng, phù hợp với phẩm giá Thiên Chúa ban. Khi đọc lại cuộc đời mình, Thánh Phaolô đã thú nhận chính lòng thương xót đã làm cho đời sống ngài thay đổi (x. 1 Tm 1, 13-16).
Bối cảnh văn hóa cũng ảnh hưởng trên các môn đệ Chúa Giêsu, theo hướng hợp pháp hóa mọi hình thức suy nghĩ và hành động, và mọi người có xu hướng trước hết là mong đợi được nhìn nhận. Tuy nhiên, bằng cách này, lòng thương xót bị giảm xuống thành sự chấp nhận vốn không làm cho chúng ta lớn lên. Trái lại, lòng thương xót Chúa làm cho sự biến đổi chuyển động. Và Giáo hội có nhiệm vụ làm cho tiến trình này trở nên khả thi. Nếu Tin Mừng không đưa ra các tiến trình thay đổi, Tin Mừng sẽ không còn là một sứ điệp cứu độ, nghĩa là người tạo ra những cách sống mới. Rõ ràng là điểm khởi đầu của tiến trình biến đổi được đưa ra là việc đón nhận mọi người, không thành kiến hay phân biệt, về khả năng hiệu quả: không có hai yếu tố này, con người không thể sống kinh nghiệm về Thiên Chúa Cứu Độ.
Mối quan hệ giữa ân sủng, lòng thương xót và sự tha thứ là gì? Ba chiều kích có nhất thiết phải kết nối với nhau không?
Khởi đầu là ân sủng, nghĩa là cử chỉ nhân từ của Thiên Chúa, được tỏ lộ cả trong việc đưa thực tại vào hiện hữu và phục hồi nó khi nó đã bị biến dạng. Trong Tông sắc Misericordiae vultus – Dung mạo Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô lấy từ Thánh Tôma Aquinô ý tưởng rằng quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa được thể hiện trước hết trong lòng thương xót và tha thứ, như vẫn được cầu nguyện trong Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật XXVI thường niên. Trong bối cảnh của mối liên hệ giữa ba chiều kích – ân sủng, lòng thương xót, sự tha thứ – là những đặc điểm của Thiên Chúa được minh họa bởi các bản văn Kinh Thánh. Thiên Chúa là Đấng thương xót và thành tín. Người ta có thể nói: Chúa thương xót vì Người thành tín. Thực vậy, Thiên Chúa trung tín trong việc làm cho nhân loại được sống, và khi nhân loại tỏ ra không thể giữ giao ước, Thiên Chúa ban cho con người khả thể mới cho phép họ trở về với Người. Do đó, lòng thương xót là sự thể hiện vĩnh viễn và vô điều kiện về căn tính của Thiên Chúa, nó chuyển thành sự tha thứ khi sự bất trung của con người lấn át.
Tha thứ không đồng nghĩa với việc phủ nhận điều ác đã làm; đúng hơn, nó bao gồm việc cung cấp một cách vô điều kiện sự khởi đầu của một tiến trình phục hồi, thoát khỏi những tội lỗi làm con người biến dạng. Vì lý do này, như lời nguyện nhập lễ được trích dẫn trên, quyền năng Thiên Chúa đang bị đe dọa trong sự tha thứ. Không phải ngẫu nhiên mà trong phụng vụ Bí tích Rửa tội và Hòa giải, lặp lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô, ngôn ngữ tái sinh được sử dụng, đó là hoạt động của Thánh Thần, nghĩa là sức mạnh sống động và ban sự sống của Thiên Chúa.
Đâu là những trở ngại hay thách đố mà thế giới ngày nay có thể gặp trong việc chấp nhận và thực hành hòa giải như sự tha thứ?
Trở ngại lớn nhất bao gồm việc cho rằng tha thứ là dấu hiệu của sự yếu đuối, vì nó được hiểu là sự thất bại trong việc nhận ra điều ác đã phạm. Cách suy nghĩ này được phản ánh bởi định hướng tự ái, phổ biến trong văn hóa ngày nay: về cơ bản mọi người đều muốn có sự chấp thuận và, nếu họ không xứng đáng, họ muốn được biện minh. Đây là một nghịch lý: một mặt, người đã phạm sai lầm phải bị trừng phạt. Mặt khác, nếu người ta sai, họ sẽ không muốn bị trừng phạt. Thật ra – như Đức Thánh Cha Phanxicô đã minh họa trong thông điệp Fratelli tutti – tha thứ là một tiến trình vất vả, không che giấu sự dữ đã làm, nhưng không để mình bị lừa gạt trong đó.
2023
Sự tái sinh của Giáo hội Campuchia và việc rao giảng Tin Mừng ngoài chợ của các phụ nữ
Một Giáo hội được tái sinh nhờ việc rao giảng Tin Mừng ở chợ. Đó là câu chuyện của sơ Ang Songvat và sơ Bun Tharin, hai nữ tu Campuchia đầu tiên hồi sinh đời sống tu trì sau chế độ Pol Pot, được kể lại trong số ra tháng này của tạp chí Mondo e Missione của Hội Giáo hoàng Truyền giáo Hải ngoại (PIME).
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX ở Campuchia, sau nỗi kinh hoàng của Khmer Đỏ, cuối cùng dân chúng cũng bắt đầu hít thở một bầu khí mới. Cô Ang Songvat, buổi sáng làm thư ký, buổi chiều đến chợ Kompong Cham làm thợ may, và vào cuối ngày, tham gia lớp học ban đêm để lấy bằng tốt nghiệp trung học. Do các cuộc đụng độ của chiến tranh du kích ở một số khu vực của đất nước, việc học của cô phải ngừng, giờ đây cô quyết tâm theo học lại.
Chính tại chợ, cô kết bạn với một người phụ nữ – người mà cô chưa biết – sẽ thay đổi cuộc đời cô. Đó là Bun Nath, người bán cá cùng với một người bạn khác tên là Bun Tharin. Bun Tharin đã biết đến Kitô giáo qua một linh mục người Pháp, trước khi các nhà truyền giáo bị trục xuất vào năm 1975. Lúc đó Bun Nath chỉ là một bé gái khi theo học tại nhà của cha André Lesouef, thuộc Hội Thừa Sai Paris, người từ năm 1968 được bổ nhiệm làm Phủ doãn Tông tòa đầu tiên của Kompong Cham, nằm cách thủ đô Phnom Penh 120 km về phía đông.
Vào thời điểm đó, cha André đã chào đón các trẻ em chưa biết gì về Kitô giáo vào nhà xứ và trò chuyện với các em và cho các em vui chơi. Khi cha trở lại Campuchia vào năm 1992, tất cả các công trình của Giáo hội Công giáo đã bị mất, hoặc gần như vậy. Lúc này, Bun Nath đã trưởng thành, và khi biết nhà truyền giáo trở lại, cô đã viết một lá thư cho cha đang ở tại thủ đô Phnom Penh và đến gặp cha. Cuộc tái ngộ giữa cha André và Bun Nath kết thúc bằng việc Bun Nath xin rửa tội, trở thành người Công giáo đầu tiên trong Giáo hội Công giáo Campuchia được tái sinh.
Ở chợ, Bun Nath bắt đầu kể lại trải nghiệm của mình về Kitô giáo. Ang Songvat là một trong số người lắng nghe chia sẻ này. Ngày qua ngày, những thắc mắc của thiếu nữ, sau này trở thành nữ tu, ngày càng phức tạp hơn, vì vậy, Bun Nath yêu cầu Bun Tharin đi cùng Ang Songvat đến gặp cha André. Lúc đó, cha đang được hỗ trợ bởi hai nữ tu người Thái, Pelagie và Xavier, thuộc dòng Mến Thánh Giá, một dòng tu được sáng lập ở Thái Lan bởi Đức cha Lambert De la Motte vào thế kỷ 17. Bun Tharin biết cha André qua lời kể của Bun Nath, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến việc chuyển từ Phật giáo sang Kitô giáo. Bun Tharin đã học hết cấp 2 nhưng sau đó do kinh tế gia đình khó khăn nên ra chợ bán cá.
Khi gặp cha André, Ang Songvat không còn muốn hỏi những điều mình thắc mắc nữa. Trái lại nhà truyền giáo hỏi cô: “Bạn có muốn học Lời Chúa không?” Sau cuộc gặp gỡ này, hai người bắt đầu hành trình học giáo lý với nhà truyền giáo. Từ năm 1994 đến 1996, khi chưa đến 30 tuổi, cả hai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội với tên thánh là Maria và Têrêsa. Hạnh phúc với lựa chọn của mình nhưng đó không phải là một quyết định đơn giản. Sơ Ang Songvat giải thích: “Theo truyền thống, chúng tôi là Phật tử, nhưng tôi cảm thấy xúc động trước ánh sáng của Chúa. Văn hóa là thứ mà người ta tiếp thu từ bên ngoài, nhưng Lời Chúa đã đến gặp chúng tôi trên đường đi”.
Do sức khoẻ của cha André không được tốt, Ang Songvat và Bun Tharin tiếp tục học giáo lý với các nữ tu Thái Lan. Mặc dù hai sơ nói tiếng Khmer chưa được nhiều, nhưng Ang Songvat và Bun Tharin khẳng định: “Đức tin của chúng tôi đã được xác định và thúc đẩy, vượt ra ngoài hình thức của các bài học”. Đến một thời điểm, sơ Pelagie đã đề nghị Ang Songvat dạy may và viết vào buổi tối tại nhà của cô cho một nhóm các thiếu nữ chưa được rửa tội. Khi đó Bun Tharin cũng đến sống với họ, hai người bắt đầu nghĩ đến việc trở thành nữ tu.
Cha André ngạc nhiên trước yêu cầu của hai người nhưng cha hiểu ơn gọi của họ là chân thành: Ang Songvat và Bun Tharin đã quyết định trở thành thành viên của Dòng Mến Thánh Giá. Sơ Pelagie và sơ Xavier mang hiến pháp của dòng bằng tiếng Thái đến Campuchia, một ngôn ngữ mà Ang Songvat và Bun Tharin học để có thể dịch sang tiếng Khmer. Để chắc chắn nội dung không bị sai, hai người so sánh thêm với bản tiếng Pháp. Và đây là cách mà dòng tái sinh ở Campuchia. Trước đó, đã có các nữ tu Mến Thánh Giá, nhưng tất cả họ đều đã bị giết hoặc trốn ra nước ngoài.
Năm 2002, cả hai bắt đầu chương trình tập viện, và năm 2004 tuyên khấn lần đầu và được sai đi truyền giáo ở Prey Veng. Tại đây hai khấn sinh quản lý một số nhà dành cho sinh viên và dạy giáo lý khai tâm cho họ. Đó là những hoạt động và tới nay hai nữ tu tiếp tục thi hành. Hiện nay, sơ Songvat vẫn đang phục vụ ở Prey Veng, còn sơ Tharin thì ở Stung Treng, phía đông bắc Campuchia, cùng với 9 nữ tu khác.
Nhìn lại những gì đã trải qua, sơ Ang Songvat và sơ Bun Tharin năm nay đã ngoài 60 tuổi, kể lại rằng sau khi được rửa tội, hai người không còn cùng gia đình thực hiện các nghi lễ tôn giáo truyền thống tại các lễ hội chùa Phật giáo nữa. Và chính hai nữ tu cũng không hiểu tại sao mình lại khác như vậy. Hai người thú nhận: “Vào thời điểm đó, chúng tôi không biết làm thế nào để trả lời các câu hỏi của chính mình, nhưng nay chúng tôi hiểu rằng Lời Chúa cần được công bố chính xác trong bối cảnh cụ thể đó”.