2023
Biết ơn Công đồng và Thượng Hội đồng
Biết ơn Công đồng và Thượng Hội đồng
Lịch sử Giáo hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã để lại cho chúng ta một bài học cay đắng về sự trì trệ mà chúng ta không được lặp lại sai lầm đã gây ra. Hơn nữa, xã hội không những không dừng lại vào thời Công đồng Vatican II, mà còn tăng tốc chóng mặt. Những thay đổi trước đây mất một hoặc hai thế kỷ, giờ đây mất một thập niên. Do đó, nhu cầu đổi mới liên tục, nhu cầu hoán cải liên tục, phải được mở rộng từ cá nhân tín hữu cho đến toàn thể Giáo hội. Giáo hội đang cùng với Chúa Thánh Thần tiếp tục công cuộc đổi mới của Công đồng. Cùng với Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II và Thượng Hội đồng đã hiến tặng cho Giáo hội và nhân loại, ngàn năm thứ Ba, chìa khóa vàng: “Cân bằng và hài hòa”. Chìa khóa này, không đi ngược lại với quy luật tự nhiên, “luật Cân bằng”. Đó là “ân huệ” trân quý. Nhận ơn thì phải biết ơn. Cổ nhân dạy: “Ơn như giọt nước, trả bằng giòng sông”.
Tâm hồn biết ơn làm nảy sinh lòng quyết tâm khiêm tốn, dấn thân phục vụ theo định hướng của Công đồng và Thượng Hội đồng. Đặc trưng lòng biết ơn, đó là Giáo hội tập trung vào Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu hứa ban. Và thực hành con đường: Đối thoại và hòa giải.
CHÚA THÁNH THẦN: SỰ CÂN BẰNG
Đó là điều chắc chắn mà Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần qua hình ảnh “Lửa và Gió”. Như Người đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16); “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Và một lần nữa: “Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16, 13).
Đặt Chúa Thánh Thần ở trung tâm của toàn bộ đời sống Giáo hội, và đặc biệt, trong thời điểm tiến trình Hiệp hành. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy một Giáo hội từng bước được Thánh Thần hướng dẫn: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định …” (Cv 15,28). “Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?” (Cv 11,17)
ĐỐI THOẠI VÀ HÒA GIẢI: HÀI HÒA
Đối thoại
Đức Hồng y Matteo Zuppi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý đã từng khẳng định “Đối thoại là cách tốt nhất cho tất cả. Chúng ta phải học cách đối thoại. Chiến tranh gây chia rẽ, làm cho người ta không còn nhận ra mình là anh chị em. Hãy học cách ở bên nhau vì khi đó chúng ta sẽ tìm thấy anh chị em mình, tìm thấy chính mình”. Đối thoại là con đường, bước bắt đầu từ việc lắng nghe. Đức Thánh Cha Phanxicô, dịp tông du Hungary, trong cuộc gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên vào ngày 29.4.2023, đã cảnh báo rằng việc thiếu đối thoại đã đẩy một số người theo chủ nghĩa hiện đại nổi tiếng nhất vào những quan điểm ngày càng cực đoan và cuối cùng rõ ràng là dị giáo. Con đường Thượng Hội đồng gợi mở hướng đi: gặp gỡ, lắng nghe, cầu nguyện, phân định. Phân định bao gồm: cùng với Chúa Thánh Thần định hướng, định hình và định hành.
Hòa giải
Nhà bác học Albert Einstein nói: “Cứ đòi hỏi người ta phải làm cùng một việc, đang khi mong chờ những kết quả khác thì quả là không lành mạnh”. Đôi khi trong Giáo hội, chúng ta thường nghĩ “điều này đã là như thế cả hai ngàn năm rồi, cho nên không cần phải thay đổi gì hết”; hoặc “theo truyền thống thì phải thế này, thế kia!”. Đức Hồng y Americo Aguiar, người tổ chức và điều hành Đại hội giới trẻ thế giới Lisbon, Bồ Đào Nha, đã cho rằng lập luận như thế là thứ mục vụ bảo quản! Cứ như thế đi cho đến lúc nó không còn như thế nữa vì chẳng có ai lo việc bảo quản nữa. Và ngài đã bày tỏ: “Ước mơ của tôi là các bạn trẻ đến Lisbon sẽ trở về quê hương mình với ước muốn sống tốt hơn, dù họ theo tôn giáo nào. Bởi lẽ ở Lisbon này họ gặp được cả người da trắng cũng như da màu, cao lớn hay thấp bé, từ Nam hay Bắc bán cầu, giàu hay nghèo, Hồi giáo, Do Thái giáo hay các tôn giáo khác, và họ khám phá ra rằng sự khác biệt ấy làm nên sự phong phú. Và như thế mọi khác biệt giữa các anh chị em trở thành cơ may cho chúng ta”.
LỜI KHUYÊN
Trân trọng quá khứ, nhưng hiện tại và tương lai phải tiến lên. Theo nguyên tắc: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Và tiếp nhận cái mới có chọn lọc. Cảnh giác văn hóa trì trệ, bảo thủ, chống lại tiến bộ. Chúng ta hãy xin Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi những kẻ muốn làm cho Hội Thánh già đi, giam hãm Hội Thánh trong quá khứ, kềm hãm hay làm cho Hội Thánh bị tê liệt. Chúng ta cũng hãy xin Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi một cơn cám dỗ khác, là tin rằng mình trẻ trung vì đã chấp nhận tất cả những gì thế giới mời mọc, tin rằng mình đổi mới vì đã quên đi sứ điệp của mình mà bắt chước người khác. Hội Thánh trẻ trung khi Hội Thánh là chính mình, khi Hội Thánh đón nhận sức mạnh luôn mới mẻ của Lời Chúa, của Thánh Thể, của sự hiện diện Đức Kitô và sức mạnh Thánh Thần của Người mỗi ngày. Hội Thánh trẻ trung khi Hội Thánh có khả năng không ngừng trở về nguồn. Biết ơn Công đồng Vatican II và Thượng Hội đồng Giám mục thế giới là như thế!
Lm. Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
2023
Bế mạc Năm Thánh nhà thờ Chánh tòa Long Xuyên
Bế mạc Năm Thánh nhà thờ Chánh tòa Long Xuyên
Đức cha Giuse Trần Văn Toản, Giám mục giáo phận Long Xuyên, cử hành thánh lễ bế mạc Năm Thánh kỷ niệm 50 năm cung hiến nhà thờ Chánh tòa Long Xuyên vào sáng 15.8.2023. Đức Giám mục Giuse đã khuyến khích cộng đoàn mừng kỷ niệm 50 năm cung hiến nhà thờ “trong tâm tình vui mừng, bởi Thiên Chúa đã hiện diện giữa dân của Ngài với biểu tượng là nhà thờ. Hãy biết phó thác và ý thức về cách sống trong tương lai để Thiên Chúa tiếp tục hiện diện giữa dân của Ngài qua các nhà thờ, qua từng người, từng cộng đoàn”. Năm Thánh với ơn toàn xá được giáo phận Long Xuyên mở từ ngày 15.8.2022 đến 15.8.2023. Trong Năm Thánh, vị chủ chăn giáo phận đã khuyến khích cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân qua việc tham gia những sinh hoạt tôn giáo như tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, giờ kinh gia đình và dấn thân trong các hoạt động bác ái từ thiện.
Nhà thờ chánh tòa Long Xuyên hiện nay nguyên là nhà thờ giáo họ Long Xuyên, giáo phận Cần Thơ, được khởi công từ năm 1958. Khi giáo phận Long Xuyên được thành lập năm 1960, giáo phận xây dựng lại nhà thờ này thành nhà thờ Chánh tòa, được khánh thành và cung hiến ngày 15.8.1973.
2023
Sau gần 60 năm, Tam Tòa lại có một ngôi thánh đường mới
Sau gần 60 năm, Tam Tòa lại có một ngôi thánh đường mới
Sau 7 năm xây dựng, công trình nhà thờ giáo xứ Tam Tòa, giáo phận Hà Tĩnh đã hoàn thành. Ngày 12.8.2023, Ðức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục giáo phận Hà Tĩnh chủ sự thánh lễ tạ ơn khánh thành và cung hiến nhà thờ.
Đồng tế có Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, nguyên Giám mục giáo phận Hà Tĩnh; Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên, giám mục phụ tá giáo phận Vinh; các linh mục, tu sĩ và đông đảo giáo dân. Trước thánh lễ, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã chủ sự nghi thức làm phép nhà xứ, linh đài Đức Mẹ, linh đài thánh Giuse và linh đài Các Thánh Tử Đạo.
Theo các tài liệu, Tam Tòa là nơi hạt giống đức tin được gieo vãi khá sớm so với các vùng khác thuộc tỉnh Quảng Bình. Đầu thế kỷ 17, từ những giáo dân đầu tiên, một xứ đạo được hình thành vào khoảng năm 1631 với tên gọi Ðông Hải, hay còn gọi là Họ Lũy. Đến khoảng năm 1774, nhà thờ được chuyển về khu vực Cầu Ngắn, nay thuộc phường Phú Hải và được gọi là giáo xứ Sáo Bùn. Đến năm 1886, Sáo Bùn có khoảng 200 nóc nhà với khoảng 1200 giáo hữu. Cũng trong năm ấy, do thời cuộc, giáo dân chuyển về Đồng Hới lánh nạn, dựng nhà thờ bên bờ sông Nhật Lệ và lập thành giáo xứ với tên gọi mới là Tam Tòa.
Tam Tòa là quê hương của bảy chứng nhân tử đạo. Giáo dân đã xây một tượng đài kỷ niệm để kính nhớ các vị, tuy nhiên qua thời gian, tượng đài kỷ niệm đã không còn. Nơi đây cũng là quê hương thánh tử đạo Matthêu Nguyễn Văn Phượng. Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc) sinh năm 1801 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, là trùm họ. Thánh nhân bị xử trảm ngày 26.5.1861 tại Ðồng Hới, được Ðức Piô X tuyên chân phước ngày 11.4.1909. Ngày 19.6.1988, Ðức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc hiển thánh cùng với 116 vị Tử đạo Việt Nam. Tam Tòa cũng là quê hương của nhà thơ Hàn Mạc Tử, tên khai sinh Nguyễn Trọng Trí. Theo tài liệu, Hàn Mạc Tử sinh ngày 22.9.1912, tại làng Lệ Mỹ, Quảng Bình; và được rửa tội tại nhà thờ Tam Tòa – Quảng Bình với tên thánh Phanxicô Xaviê.
Nhà thờ Tam Tòa lần đầu tiên được xây dựng năm 1887, đến năm 1940 được tái thiết khang trang và hoàn chỉnh hơn. Năm 1965, nhà thờ bị bom đạn phá nát, chỉ còn phần tháp và tồn tại trong tình trạng này cho đến ngày nay, như một chứng tích chiến tranh. Khách đi qua vùng đất Tam Tòa (Đồng Hới) chỉ còn nhìn thấy một ngọn tháp nằm ở tả ngạn dòng Nhật Lệ đã bị đạn bom và thời gian tàn phá nặng nề, không ai nghĩ đó từng là thánh đường của một xứ đạo lớn. Ngày 8.1.2011, tại nhà nguyện tư gia, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã công bố tái thành lập giáo xứ Tam Tòa và đặt cha Phêrô Lê Thanh Hồng làm linh mục quản xứ. Đến ngày 26.12.2014, Đức cha Phaolô bổ nhiệm cha Phêrô Trần Văn Thành làm linh mục quản xứ giáo xứ Tam Tòa. Thánh đường hiện nay đã được khởi công vào ngày 21.4.2016.
Trong phần giảng lễ, khởi đi từ bài Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu lên đền thờ Giêrusalem và chứng kiến cảnh đền thờ trở thành nơi buôn bán, đổi chác tiền bạc, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên đã mời gọi cộng đoàn ý thức rằng mỗi người là Đền thờ của Thiên Chúa và nhấn mạnh rằng, mục đích của nhà thờ với ba chữ C: cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa và cử hành các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và mời gọi giáo dân cố gắng thực hành.
Thiên Mi
2023
Tại sao việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đã bị cấm trong 20 năm?
Ban đầu Vatican cấm việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót là do bản dịch sai cuốn “Nhật Ký Nhỏ” của thánh Faustina Kowalska.
Nếu ngày nay Giáo hội Công giáo chấp nhận việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót được mạc khải cho thánh Faustina Kowalska, thì điều này không phải lúc nào cũng thế. Thật vậy, Vatican đã kiểm duyệt việc sùng kính này trong hai mươi năm, từ 1959 đến 1979, cấm phổ biến và quảng bá việc sùng kính này. Các linh mục Dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội giải thích lý do cho điều này trên trang web Lòng Chúa Thương Xót của họ:
Cha Sopocko chăm lo việc phổ biến lòng sùng kính này. […] Năm 1959, Vatican nhận được các bản dịch sai và khó hiểu của cuốn « Nhật Ký Nhỏ » và đã cấm phổ biến việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót dưới các hình thức do nữ tu Faustina đề xuất.
Đây là bản dịch sắc lệnh chính thức của Vatican ngày 19 tháng 11 năm 1958, và sau đó được tái khẳng định vào năm 1959:
Bản chất siêu nhiên của những điều mặc khải cho nữ tu Faustina là không rõ ràng. Không được thiết lập bất cứ lễ nào về Lòng Chúa Thương Xót. Cấm tiết lộ những hình ảnh và bài viết tuyên truyền lòng sùng kính này dưới hình thức mà nữ tu Faustina nhận được.
Tuy nhiên, Cha Sopocko, người trực tiếp tiếp xúc với nữ tu Faustina, đã tự an ủi mình khi biết rằng tất cả những điều này là ứng nghiệm một lời tiên tri của nữ tu Faustina. Sơ đã viết (mục 378): « Sẽ đến lúc công việc này [của Lòng Thương Xót], mà Thiên Chúa đang đòi hỏi rất nhiều, sẽ như thể hoàn toàn bị hủy bỏ. Và rồi Chúa sẽ hành động với quyền năng to lớn, vốn sẽ đưa ra bằng chứng về tính xác thực của nó. Nó sẽ là một vẻ huy hoàng mới cho Giáo hội, mặc dù nó đã tiềm tàng trong đó từ lâu ».
Lệnh cấm này đã bị Tổng Giám mục Krakow, Karol Wojtyła, đặt vấn đề vì ngài biết rõ rằng Vatican đã nhận được những bản dịch sai của cuốn Nhật ký. Vị Giáo hoàng tương lai chắc chắn rằng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót không trái với đức tin Công giáo và đã coi đó là sứ mệnh của mình để chứng minh quan điểm của mình.
Do đó, vào năm 1965, ngài bắt đầu quá trình điều tra về cuộc đời và nhân đức của nữ tu Faustina Kowalska và giao cuốn « Nhật Ký Nhỏ » cho một trong những nhà thần học hàng đầu của Ba Lan là cha Ignacy Różycki. Tuy nhiên, cha không thực sự muốn lãng phí thời gian để phân tích những gì mà người ta đồn đại với ngài là ảo giác của một nữ tu ít học. Tuy nhiên, ngay trước khi gửi lá thư từ chối cho Đức Tổng Giám mục, cha cầm cuốn Nhật ký lên và tình cờ bắt đầu đọc vài trang « chỉ để giết thời gian. » Thành kiến của cha đối với nó ngay lập tức bị lung lay. Rồi, ngài đọc hết toàn bộ, và sau đó đã quyết định dành phần đời còn lại của mình để nghiên cứu và truyền bá thông điệp của nữ tu.
Văn bản đã được xem xét lại và Đức Wojtyła đã đệ trình lại cho Vatican để xem xét vào năm 1977. Vài tháng sau, vào năm 1978, Đức Hồng y Karol Wojtyła trở thành Giáo hoàng Gioan-Phaolô II.
Năm 1979, Bộ Giáo lý Đức tin nhận được kết quả nghiên cứu của cha Różycki cũng như các bản dịch chính xác hơn. Bộ nghiên cứu văn bản về việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót với bản dịch chính xác hơn này và không tìm thấy điều gì có thể ngăn cản sự lan truyền của nó. Bộ đã thông báo cho Dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội rằng lệnh cấm về lòng tôn sùng của nữ tu Faustina cuối cùng đã được dỡ bỏ. Trong một lá thư giải thích về quyết định này, Bộ đã viết: « Về phía Thánh Bộ này, không còn tồn tại bất kỳ trở ngại nào đối với việc truyền bá việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót dưới những hình thức đích thực do Nữ tu [Faustina] đề xuất. » Cuối cùng, đó là: « Nihil Obstat » từ chính Vatican!
Với lệnh cấm được bãi bỏ, Bức Ảnh, Nhật Ký, Tràng Chuỗi, đánh dấu ngày Lễ và Giờ cầu nguyện với Lòng Chúa Thương Xót lan rộng nhanh chóng trên khắp thế giới.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, trong thánh lễ phong thánh cho nữ tu Faustina Kowalska, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết lập Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh theo lịch phụng vụ, và kể từ đó, lòng sùng kính này đã lan rộng khắp thế giới.
Tý Linh (theo Philip Kosloski, Aleteia , và The Mercy Devotion)