2023
KINH THÁNH VÀ VIỆC CẦU NGUYỆN
KINH THÁNH VÀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Văn kiện của Uỷ ban Giáo hoàng Thánh Kinh bàn về việc giải thích Kinh Thánh đặc biệt nhấn mạnh rằng việc chú giải Kinh Thánh không thể dừng lại ở chỗ tìm ra ý nghĩa của bản văn dựa theo ý định của tác giả khi viết ra nó, nhưng làm sao để giúp cho cộng đồng tín hữu nhờ Kinh Thánh để tiếp xúc được với Lời Chúa hôm nay. Phải nhìn nhận rằng từ công đồng Vaticanô II đến nay, các tín hữu công giáo đã có dịp làm quen với Kinh Thánh hơn trước nhiều. Không kể các lớp thần học phải quy chiếu về Kinh Thánh như là nền tảng, các tín hữu cũng lĩnh nhận Lời Chúa nhiều hơn qua các buổi cử hành Thánh Lễ, những lớp học hỏi Thánh Kinh, những buổi chia sẻ Lời Chúa. Bài này giới thiệu việc dùng Kinh Thánh trong việc cầu nguyện công và tư.
Chúng tôi đã nhận xét rằng các phương pháp được áp dụng gần đây trong khoa chú giải Kinh Thánh thường lấy từ các ngành khảo cứu văn chương hay ngôn ngữ học. Tuy nhiên, cũng nên thêm rằng có một ngành đang chớm nở, đó là “lịch sử của khoa chú giải” nghĩa là xét xem một bản văn nào đó của sách thánh đã được hiểu và giải thích như thế nào trải qua 20 thế kỷ của lịch sử của Giáo hội. Chính trong khi khảo cứu lịch sử của khoa chú giải mà các học giả đã trở lại với vấn đề các nghĩa của Sách thánh, được sách Giáo lý Hội thánh công giáo trình bày ở số 115-117. Và cũng chính khi khảo cứu lịch sử của khoa chú giải, đặc biệt là thời các giáo phụ, mà người ta đã học phương pháp sử dụng Thánh kinh trong việc cầu nguyện. Có hai đường lối đáng được lưu ý:
- Việc giải thích các ý nghĩa khác nhau của Thánh vịnh;
- Lectio divina.
I. Các ý nghĩa khác nhau của thánh vịnh
Thánh vịnh được phụng vụ sử dụng nhiều nhất cho việc cầu nguyện, đặc biệt là trong Giờ kinh Phụng vụ và trong các đáp ca. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta đã hơn một lần cảm thấy khó khăn khi cầu nguyện với các thánh vịnh. Chính vì vậy mà đã có nhiều sáng tác trong lãnh vực này, nhằm giúp vượt qua những trở ngại đó. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nói tới vấn đề này trong những số 2585-2589.
1. Bước đầu tiên là tìm hiểu nghĩa văn của các thánh vịnh. Tuy rằng các thánh vịnh đều là thể thơ (nghĩa là một lối hành văn khác với văn xuôi), nhưng trong thể thơ lại còn có những hình thức khác nhau nữa, tỉ như: ngợi khen, khẩn cầu, tín thác, tạ ơn, ca thán, dạy khôn. Mỗi hình thức tuân theo một khung diễn tả riêng của nó.
2. Tuy nhiên, ngoài việc tìm hiểu nghĩa văn, để cho thánh vịnh trở thành kinh nguyện Kitô giáo, chúng ta cần phải giải thích nó trong khung cảnh của Tân Ước, như là lời của Đức Kitô, của Hội thánh, của mỗi Kitô hữu. Đây là cách thức cầu nguyện bằng thánh vịnh mà các giáo phụ đã áp dụng. Vì thế, dựa theo sự gợi ý của văn kiện trình bày sách Giờ kinh Phụng vụ số 109, nhiều tác giả đã xuất bản những chú giải đi kèm các thánh vịnh dựa theo tư tưởng của các giáo phụ. Thí dụ, thánh vịnh thứ 1: ta có thể áp dungj hình ảnh người công chính là Đức Kitô, đấng hằng tuân giữa luật Chúa; ta cũng có thể áp dụng cho Hội thánh và các tín hữu, nếu được tháp nhập và Đức Kitô là cây nho và tuân giữ luật đức ái, thì sẽ sinh ra nhiều hoa trái phúc lộc.
II. Lectio divina
Một cách thức khác nữa để cầu nguyện với sách thách là Lectio divina. Thường thì người ta không muốn dịch từ này ra sinh ngữ (thí dụ Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 1177), bởi vì muốn duy trì nội dung phong phú của nó. Thực vậy, “lectio” không phải chỉ là đọc; theo nguyên ngữ latinh, “legere” có nghĩa là: hái, thu lượm; do đó lectio có nghĩa là hái tư tưởng gói ghém trong đoạn sách, thu lượm sứ điệp chứa đựng trong đó. Thêm vào đó tính từ “divina” muốn nêu bật rằng đối tượng của nó là Thiên Chúa; đồng thời con người cũng nhờ Thiên Chúa mở hco thấy chân lý chứa đựng trong Lời của Ngài. Từ ngữ “lectio divina” (hay lectio sacra) đã xuất hiện trong các tác phẩm của các giáo phụ từ thế kỷ 4-5, và được ghi vào thời khoá biểu hằng ngày của các đan sĩ, thí dụ như trong luật thánh Biển Đức. Các giáo phụ quan niệm rằng Sách thánh là nơi hẹn hò chính yếu của con người với Chúa: khi đọc sách thánh là ta lắng nghe Chúa nói, còn khi cầu nguyện là ta thưa chuyện với Ngài. Khi đọc Sách thánh, ta không phải chỉ lo tìm hiểu ý nghĩa của các từ ngữ trong đó, nhưng mà, dưới sự hướng dẫn của Thánh thần, ta còn khám phá ra Đức Kitô, nội dung và đối tượng của toàn Sách thánh. Sang thời Trung cổ, các đan sĩ dần dẫn đã truyền lại những kinh nghiệm thực hành của họ, đặc biệt là Guigô II, viện phụ dòng Chartreux hồi thế kỷ 12 (1173-1180), đã tóm lại bốn động tác chính của lectio divina: lectio, meditatio, oratio, contemplatio, và được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trích ở số 2654: “Hãy tìm qua việc đọc, và sẽ tìm qua việc gẫm suy; hãy gõ qua việc cầu khẩn và sẽ mở nhờ chiêm ngắm”. Dĩ nhiên, giả thiết là tiên vàn đã phải chuẩn bị tâm hồn, tỉ như thanh tẩy lương tâm khỏi tội lỗi, khung cảnh thinh lặng để có thể gặp gỡ Chúa. Bây giờ chúng ta đã xét tới bốn động tác:
1. Động tác đầu tiên là “lectio”: nó không hệ tại việc đọc cho bằng việc chăm chú lắng nghe Chúa qua đoạn Sách thánh.
2. Tiếp đó là “meditatio”, có nghĩa là để cho Lời Chúa thấm nhập toàn thể các quan năng của ta. Một vài tác giả gọi là “nhai đi nhai lại” (ruminatio), nhằm để cho Lời Chúa thấm nhiễm vào tư tưởng, tâm tình của ta, thấm nhập vào đời sống của ta.
3. “Oratio” là lời cầu nguyện bộc phát lên từ con tim sau khi đã được Lời Chúa đánh động; lời nguyện ấy có thể mang lấy hình thức của chính Lời của Chúa. Khi ta thưa lại với Chúa bằng chính Lời của Người thì tất nhiên là ta đã chấp nhận: Amen, xin vâng theo Lời Người.
4. Sau cùng “Contemplatio” nói lên tâm tình biết ơn, thán phục, thờ lạy, ngợi ca, khi nếm được vẻ ngon ngọt của Lời Chúa.
Dĩ nhiên, trải qua các thế kỷ, cái sườn đơn giản của Guigo được thêm bớt châm chế. Một cái lược đồ tương tự đã có thể tìm thấy trong Phụng vụ Lời Chúa:
- Công bố Lời Chúa với đôi lời chú giải tiếp theo;
- Thinh lặng để suy niệm’
- Đáp ca bằng lời của thánh vịnh;
- Tung hô ngợi khen “alleluia”.
Một lược đồ khác đã muốn bổ túc thêm vài động tác khác nữa.
- Lectio
- Meditatio
- Collatio
- Oratio
- Contemplatio
- Operatio
Như vậy sau khi đã chú ý đón nghe lời Chúa, và suy gẫm, các đan sĩ chia sẻ với nhau (collatio), hoặc giúp nhau đào sâu hơn những ý nghĩa của sách thánh. Ngoài ra, người ta còn thêm một động tác chót nữa (operatio), nhằm kéo dài buổi cầu nguyện ra cuộc sống, cố gắng tìm gặp Thiên Chúa hiện diện qua công việc bổn phận, đồng thời đem thực hành điều mà Chúa đã soi sáng trong lúc cầu nguyện. Dù sao chăng nữa, ta thấy “lectio divina” là một thức giải thích Kinh Thánh, khi mà không để cho nó thành chữ chết, cũng không phải chỉ tìm hiểu ý nghĩa văn chương của các câu văn, nhưng là khám phá ra cái nghĩa sống động của Sách thánh, như là lời nói của Chúa làm ánh sáng và nuôi dưỡng tín hữu trên đường lữ hành.
Việc trở về với đường lối giải thích Sách thánh của các giáo phụ (tức là đọc thánh vịnh theo nhãn giới Kitô, và lectio divina), không có nghĩa là hạ giá những phương pháp chú giải cận đại. Những kết quả của những phương pháp giải thích hiện đại mở cho ta thấy nghĩa văn (sensus litteralis) của Kinh Thánh. Thế nhưng, nhưng ta đã biết, ngoài nghĩa văn còn có nghĩa tinh thần nữa (sensus spiritualis), nghĩa là đọc mỗi đoạn văn Kinh Thánh trong bối cảnh của toàn thể lịch sử mạc khải, nhờ đó mà một bản văn của Cựu Ước sẽ sáng nghĩa hơn trong Tân Ước, cũng như toàn thể Cựu Ước lẫn Tân Ước phải dẫn đưa con người tới cứu cánh tối hậu của mạc khải, đó là sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, Thiên Chúa đã muốn cho Kinh Thánh được viết ra không phải chỉ như làm chứng tích của những lời nói và hành động của Người đã tỏ ra trong quá khứ; Người còn muốn sao cho con người nhờ Kinh Thánh có thể nghe lời sống động của Người, và đáp lại bằng trót cả tâm tư và đời sống.
Sau cùng, chúng tôi xin thêm một ghi chú nữa. Các đan sĩ và tu sĩ cho đến đầu thời Trung cổ vẫn nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện bằng “Lectio divina” vừa nói trên. Dần dần, vì tiếng latinh trở nên xa lạ với đời sống thường ngày khiến cho các tu sĩ không thể đọc Sách thánh cách dễ dàng được nữa, nên họ đã thay thế bằng việc đọc sách thiêng liêng (lectio spiritualis).
_Hoa Trang_
2023
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU KINH THÁNH
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU KINH THÁNH
Chúng ta có thể nhận thấy rằng một trong những động lực của sự đổi mới về phương pháp thần học hệ tại việc đặt Kinh Thánh làm nền tảng của mọi suy tư thần học; thay vì khởi sự từ những lý luận siêu hình rồi tiếp đó tìm các câu Kinh Thánh để chứng minh cho kết luận của mình. Tuy nhiên, có thể nói đến thế nhưng ngay trong chính việc học hỏi Kinh Thánh, người ta cũng thấy xuất hiện những phương pháp mới.
Trong bài này chúng tôi điểm qua 6 phương pháp chính để tìm hiểu Kinh Thánh: 1) Phê bình lịch sử; 2) hiện sinh; 3) duy vật; 4) xã hội; 5) phân tâm; 6) cấu trúc.
I. Phương pháp phê bình lịch sử (Méthode historico-critique)
Phương pháp đơn giản nhất thường được áp dụng để tìm hiểu ý nghĩa Kinh Thánh là tìm hiểu từ ngữ (cái từ này có nghĩa là gì?) Đó là đường lối cổ truyền và phổ thông hơn cả; người ta mổ xẻ ý nghĩa của các từ, xem nghĩa đen và nghĩa bóng của nó, dựa theo thể văn và mạch văn.
Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20, một trường phái mới đã xuất hiện, chủ trương rằng muốn hiểu ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh, thì việc tìm hiểu ý nghĩa của các từ chưa đủ, cần phải đi ngược lên tiến trình mà quyển sách đã thành hình.
Thực vậy, tác giả của các Sách thánh không phải là những cá nhân đơn thân độc mã, nhưng tác phẩm của họ (như 4 quyển Tin Mừng) là kết quả của một tiến trình lâu dài: khởi đầu từ những nguồn tư liệu truyền khẩu, kế đó đến giai đoạn trưởng thành giữa lòng cộng đồng tín hữu, và sau cùng, mỗi tác giả mới sử dụng những nguồn ấy để soạn lại theo một chủ ý thần học riêng. Chính vì vậy mà ta thấy vì sao giữa các Tin Mừng vừa có những điểm giống nhau (bởi vì từ những nguồn chung) và vừa có những điểm khác nhau (bởi vì lối biên soạn riêng).
Phương pháp phê bình lịch sử muốn đi tìm về nguồn gốc sự kiện (như Đức Giêsu lịch sử), trước khi có những nhào nặn của cộng đồng và của các soạn giả (trình bày Đức Kitô của lòng tin).
II. Phương pháp giải thích hiện sinh (Interprétation existentiale)
Trong khi mà phương pháp phê bình lịch sử muốn tìm về khuôn mặt lịch sử của Đức Giêsu, thì Rudolph Bultmann, do ảnh hưởng của Martin Heidgger, chủ trương rằng vấn đề tìm hiểu lịch sử của Đức Giê-su không quan hệ cho bằng khám phá ra sứ điệp cứu độ dành cho con người, sứ điệp của sự hy vọng vào một cuộc sống mai sau khi đã chấm dứt cuộc đời dương thế.
Việc chú giải Kinh Thánh phải nhằm gột rửa những quan niệm, từ ngữ lệ thuộc vào một thời đại xa xưa, ngõ hầu trình bày một sứ điệp sống động dành cho con người của thời đại hôm nay.
Đàng sau ý hướng thần học của Bultmann, người ta nhận thấy chủ trương về sự chú giải chịu ảnh hưởng của Martin Heidegger và H.G. Gadamer, đó là chủ trương cho rằng ý nghĩa của một tác phẩm không phải tìm nơi tác giả (người viết) cho bằng nơi người đọc, xem họ muốn tìm cái gì cầm cuốn sách trên tay.
III. Giải thích duy vật (Lecture matérialiste de la Bible)
Phương pháp này phát nguyên từ một số học giả mácxít từ cuối thế chiến thứ hai áp dụng để tìm hiểu thân thế của Đức Giêsu, và đã được bổ túc bởi một vài học giả Kinh Thánh, tựa như Fernand Belo và M. Clévenot, đó là chưa kể các nhà thần học giải phóng. Dĩ nhiên, các học giả ấy không phải chỉ dựa trên lý thuyết của Marx và Engels, nhưng họ còn chịu ảnh hưởng của Louis Althuser, cũng như của học phái cấu trúc nữa.
Đại khái, họ giả thuyết rằng Kinh Thánh đã ra đời trong một khung cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, ý thức hệ của thời đại. Bởi vậy, muốn hiểu và giải thích Tin Mừng cho đúng, thì cần phải phân tích thái độ của Đức Giêsu trước thực trạng của xã hội đương thời, và những đường hướng canh tân cách mạng mà Ngài muốn đề ra.
Sự tìm hiểu Kinh Thánh đòi hỏi sự áp dụng phương pháp phân tích xã hội của mácxít: các liên hệ sản xuất, sự đấu tranh giai cấp, v.v…
IV. Phương pháp xã hội học (Exégèse sociologique)
Nhiều người thường đồng hóa xã hội chủ nghĩa hay xã hội học với học thuyết của Marx. Sự thực không phải như vậy. Marx chỉ tượng trưng một khuynh hướng học hỏi xã hội, đặc biệt nhìn dưới khía cạnh sản xuất kinh tế.
Các phương pháp xã hội học mà một số học giả áp dụng vào việc nghiên cứu Kinh Thánh nhằm tìm hiểu không những là khung cảnh xã hội của thời Đức Giêsu, nhưng còn muốn tìm hiểu thêm về sự thành hình của phong trào những người theo Ngài, từ đó, những tác phẩm Kinh Thánh đã ra đời.
Nói khác đi, các phương pháp xã hội học nói đây là xã hội về tri thức, về các vai trò của vị cứu tinh, về những định chế. Tác phẩm cổ điển của khoa xã hội học là của Max Weber, khi ông ta nghiên cứu những ảnh hưởng của Do thái giáo đối với đời sống của người dân và sinh hoạt cộng đoàn. Kế đó, người ta đã áp dụng vào việc nghiên cứu các hình thức xã hội của Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Một cách cụ thể hơn, áp dụng vào Tân Ước, G.Theissen tìm hiểu cái mà ông gọi là “phong trào của ông Giêsu”, đặt trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, cảnh vực của Palestina. Phong trào đó ra đời trong bầu khí thời đại của các phong trào thế mạt (apocalyptique).
V. Phương pháp tâm lý chiều sâu
Dĩ nhiên xưa nay không thiếu những người đã tìm cách tìm hiểu tính tình, tâm lý của các nhân vật trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, phương pháp mà chúng ta nói đây muốn mở cửa đối thoại với những ngôn ngữ và tư tưởng của khoa tâm lý học hiện đại, đặc biệt là khoa tâm lý chiều sâu và phân tâm học, để tìm hiểu chính tâm lý của tác giả quyển sách.
Thực ra phương pháp này hãy còn mới mẻ, và chỉ được áp dụng một cách giới hạn vào việc phân tích một vài bản văn, tựa như dụ ngôn người con hoang đàng, người Samaritanô nhân hậu, hoặc hai chương 7, 8 của thư gửi giáo đoàn Rôma.
M.A. Tolbert giải thích dụ ngôn người con hoang đàng như sau: dụ ngôn này biểu lộ ước muốn căn bản của con người tìm về kết hợp và hòa đồng trong đời sống. Đứa em đi tìm sự thỏa mãn tính dục ở “hạ ngã” (infra ego), tượng trưng cho con người muốn phá bỏ những cấm lệnh (tabu); đứa con cả tượng trưng cho cái mà Freud gọi là “siêu ngã” (super ego), trụ sở của luân thường, đạo giáo, luật lệ. Người cha tượng trưng cho cái “ngã”, vừa muốn thỏa mãn yêu sách của đôi bên, vừa muốn hòa hợp với thực tế.
Một cách tương tự, P.E. Langevin đã muốn cho thấy rằng những gì mà thánh Phaolô viết trong chương 7 và 8 của thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói lên những thảm cảnh của nội tâm con người giống như tâm phân học đã khám phá trong cuộc phát triển nhân cách.
Thiết tưởng cũng nên thêm rằng, đã hơn một nhà thần học đã mất ghế giáo sư (E. Drewemann) khi không thấy nhãn giới nào khác trong Kinh Thánh ngoài phân tâm học!
VI. Phương pháp cấu trúc (Structuralisme)
Cấu trúc hay cơ cấu luận ám chỉ một phong trào triết học, với những khuynh hướng khác nhau, cũng như ám chỉ một phương pháp nghiên cứu khoa học áp dụng vào nhân chủng học, tâm lý, xã hội, văn chương, âm nhạc.
Lãnh vực mà cấu trúc được sử dụng vào việc tìm hiểu Kinh Thánh là thuyết cấu trúc về ngôn ngữ, đặc biệt là ký hiệu học (sémiotique), khoa tìm hiểu các ký hiệu, nghĩa là vì đâu mà ký hiệu mang một ý nghĩa.
Phương pháp này mới được sử dụng vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ 20 ở Pháp, dưới sự hướng dẫn của Roland Barthes. Phương pháp cấu trúc nhấn mạnh đến sự cấu tạo các bản văn hơn là chủ ý của tác giả, tìm hiểu cách xếp đặt của các tổng hợp của các từ ngữ, các đoạn văn, các chương và toàn quyển sách. Phương pháp xem ra hấp dẫn, nhưng ngữ vựng phức tạp của khoa ngôn ngữ học đã làm một số chú giải Kinh Thánh đầu hàng, ấy là chưa kể những tiền đề triết lý của thuyết cơ cấu.
Trên đây, chúng tôi chỉ mới thuật lại một vài phương pháp để tìm hiểu ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh. Điều đó giả thiết các phương pháp phê bình khác đã được áp dụng để thiết lập nguyên bản (critique textuelle), dựa từ cả trăm thủ bản lưu truyền.
Mặt khác, chúng ta đừng nên quên rằng trong việc chú giải Kinh Thánh, sau giai đoạn tìm hiểu ý nghĩa của tác giả văn bản xét như là một tác phẩm văn chương, nhà chú giải còn phải đi thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của đoạn văn với tâm tình đức tin, trong khung cảnh của chương trình mạc khải cứu độ. Người ta thường gọi chặng này là “thần học Thánh kinh” (théo-logie biblique) sau giai đoạn chú giải Kinh Thánh (exégèse biblique). Đó là nói trên nguyên tắc, chứ trên thực tế thì sự phân biệt ấy có vẻ không tưởng.
Như chúng ta đã thấy, mỗi phương pháp làm việc trên đây đều giả thiết một thứ thần học nào đó, tuy rằng đôi khi chỉ là ý thức hệ; tỉ dụ như khi đọc Kinh Thánh theo phương pháp duy vật, thì người ta không phải chỉ chủ ý tìm ý nghĩa của từng đoạn văn, nhưng người ta đã giả thiết rằng tất cả vai trò của Đức Kitô chẳng có gì là tôn giáo cả, song chỉ là cải tổ xã hội.
Mặt khác, phương pháp phê bình lịch sử cho thấy rằng chính mỗi tác giả Kinh Thánh đã có một thứ thần học nào đó, tỉ như thần học của Mátthêu thì khác của Gioan. Nhận xét vừa nói tuy rằng có thể dẫn tới kết luận là có bao nhiêu thánh sử thì có bấy nhiêu thần học Kinh Thánh; song, mặt khác, xét dưới khía cạnh khách quan của tiến trình thành hình của Sách thánh, nó cho ta thấy rằng muốn hiểu đúng nghĩa của bản văn Kinh Thánh, cần phải đi vào tâm tình của người viết, cũng như khung cảnh cộng đồng đức tin của soạn giả. Nói khác đi, không thể nào chỉ khảo sát Thánh kinh như một tác phẩm văn chương thuần túy, nhưng cần phải chia sẻ đức tin của cả cộng đồng Hội Thánh nữa. Vì thế mà bên cạnh những phương pháp cận đại khảo cứu Kinh Thánh vừa nói, người ta nhận thấy một ngành khác chuyên về lịch sử khoa chú giải theo truyền thống Giáo hội, đặc biệt là của các thánh Giáo phụ.
_Bình Hoà_
2023
Đừng kìm nén những giọt nước mắt
Đừng kìm nén những giọt nước mắt
Nước mắt thường được xem như biểu hiệu của sự yếu đuối, nhưng thực ra nó là dấu hiệu của sự trưởng thành.
Trong Kinh Thánh con người thường hay khóc: Có những giọt nước mắt tang thương, ăn năn, buồn bã và vui mừng. Vua Đavít đẫm lệ khi leo lên Núi Ô-liu vì ông bị chính con trai của mình là Absalom phản bội (2 Sam 15, 30). Còn ông Giuse lại mừng phát khóc vì tìm thấy các anh em của mình sau nhiều năm lưu vong (St 42, 24). Có người phụ nữ hối lỗi, nhỏ những giọt lệ ăn năn dưới chân Chúa Giêsu (Lc 7, 38). Thánh Phêrô cũng từng khóc cay đắng vì đã chối bỏ Chúa ba lần (Lc 22, 62). Phaolô viết thư gửi các tín hữu Côrintô, cũng như cho người khác, “trong nước mắt” để nói với họ về tình cảm của ngài (2 Cor 2, 4). Chính Chúa Giêsu cũng thế, Ngài than khóc cho thành Giêrusalem hoặc kìm nén vì động lòng thương trước mộ của Ladarô (Lc 19,41). Chúa Giêsu xác định phúc lành qua bài giảng trên núi “Phúc thay ai biết khóc than”, thế nhưng tại sao nhiều người trong chúng ta lại kìm nén những giọt nước mắt?
Cậy trông vào Chúa không làm vơi đi nỗi buồn
Con người không muốn khóc lóc vì họ không muốn tỏ ra yếu đuối, họ luôn được dạy rằng “Bạn đừng bao giờ khóc trước mặt mọi người”. Người ta cũng không muốn cho thấy cảm giác thực của họ hiện ra sao, vì sợ gây ra nỗi đau cho người thân hoặc khiến nỗi buồn của chính họ thêm trầm trọng. Người ta tránh khóc than vì họ không muốn lôi kéo sự chú ý về bản thân họ và dường như họ đang tỏ ra cho thấy những vấn đề của họ. Nhiều khi chúng ta cảm thấy nước mắt chả ăn khớp gì với niềm cậy trông vào Chúa Kitô: “Xin đừng đau buồn, nếu bạn yêu mến tôi”, thánh Augustinô đã từng viết như thế khi ám chỉ về cái chết của mình.
Nhưng nếu cái chết là một bi kịch, cũng như những tình huống khác khiến chúng ta cảm thấy đau lòng, thì niềm cậy trông của chúng ta vào Chúa không loại trừ điều đó. Phục sinh không loại trừ ngày Thứ sáu Tuần Thánh. Xác quyết về tình yêu của Thiên Chúa và niềm vui xuất phát từ Chúa không ngăn cản được đau khổ do bởi sự chia cách, những thất bại và tất cả các kiểu đau buồn phát xuất từ lòng thương dành cho người khác. Trái lại, tình yêu khiến một người dễ bị tổn thương. Được gần Chúa thì đừng che lòng – vì nó chỉ khiến ta dễ mủi lòng hơn thôi. Cậy trông không làm cho chúng ta trở nên siêu phàm, lơ lững trong tình trạng tách ra khỏi sự đau khổ và gây đau khổ cho nhiều người. Càng gia tăng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta càng ít lo lắng khi chạm phải khổ đau.
Đừng kìm nén những giọt nước mắt
Nếu Chúa đã ban cho chúng ta khả năng khóc, thì đó là khả năng chúng ta nên sử dụng. Chẳng có gì khó chịu hơn cảm giác đau đớn vì người chúng ta yêu thương và chứng kiến họ cắn răng chịu đựng nó thay vì bày tỏ nỗi đớn đau của mình. Khóc lóc không phải là thiếu niềm tin.
Vậy khóc lóc có phải là biểu hiệu của sự yếu đuối? Đúng vậy, và chúng ta hãy vui vì điều đó! Nó nhắc nhở chúng ta biết rằng chúng ta luôn cần đến Chúa và cần đến anh chị em mình. Như Charles Dickens đã viết: “Chúng ta đừng bao giờ xấu hổ vì những giọt nước mắt của mình, bởi vì chúng là cơn mưa quét đi bụi đất che phủ con tim khô cứng của chúng ta” –
Sao Nguyễn chuyển ngữ
2023
Trước ngưỡng cửa Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 16
Sau 2 năm chuẩn bị, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ 16 với chủ đề: “Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ”, đang tiến vào giai đoạn cuối trước khi khai mạc, với buổi canh thức cầu nguyện đại kết chiều ngày 30/9/2023 và 3 ngày tĩnh tâm của các tham dự viên. Trong những ngày này, bao nhiêu mong đợi, lo âu, hân hoan và dè dặt đã được bày tỏ qua báo chí.
Những mong đợi
Thực vậy, trong số những người đặt nhiều hy vọng nơi Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, mong ước kế hoạch cải tổ Giáo hội, theo chiều hướng “cấp tiến”, người ta phải kể đến đa số các thành viên Hội Đồng Giám mục Đức và nhiều thành phần dân Chúa tại nước này.
Trong chiều hướng đó, Đức Cha Georg Baetzing, Giám mục giáo phận Limburg, Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Đức, hy vọng Thượng Hội đồng Giám mục này sẽ mau lẹ bỏ phiếu ủng hộ các đề nghị cải tổ là truyền chức thánh cho phụ nữ, giải tỏa luật độc thân linh mục, cải tiến luân lý tính dục và những cải tổ khác đang được thảo luận trong Giáo hội Công giáo.
Đức Cha Baetzing, là thành viên của Thượng Hội đồng Giám mục sắp khai diễn. Ngài bày tỏ hy vọng trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần “Die Zeit”, Thời Báo, ở Đức số ra ngày 14/9 vừa qua. Đức Cha nói: “Dân chúng trong Giáo hội chúng tôi không còn kiên nhẫn nữa”.
Đức Cha xác quyết rằng không có đụng độ giữa Roma và các Giám mục Đức. Những văn kiện nghị quyết của Con đường Công nghị của Công giáo Đức đang cải tổ cuộc đối thoại của Giáo hội Công giáo ở Đức, đó là những đề nghị hoạt động, cần được phối hợp với Giáo hội hoàn vũ. Vấn đề ở đây không phải là các bản văn, nhưng là những hành động thay đổi. Điều này đòi phải có những lý lẽ và thỏa hiệp. Đó là điều chúng tôi vẫn quen thực hiện trong nền văn hóa dân chủ của chúng tôi, và trong Giáo triều Roma người ta không hiểu”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức bênh vực Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại những lời cáo cuộc cho rằng ngài muốn trì hoãn việc cải tổ, ví dụ cấm thành lập Hội đồng Công nghị tại Đức, trong đó các Giám mục cùng với giáo dân, với quyền hạn ngang nhau, thảo luận và quyết định với nhau. Roma chỉ khẳng định rằng cần được chuẩn bị. Ngoài ra, theo Đức cha Baetzing, thủ lãnh Giáo hội không thể quyết định điều mà các Giám mục Đức mong muốn, nhưng phải liên kết với Giáo hội hoàn vũ. Đức Cha cho biết là ngài ủng hộ Đức Thánh Cha Phanxicô 100% và nói thêm rằng: “Tôi đã nói với Đức Thánh Cha rằng các tín hữu Công giáo Đức lo lắng về vấn đề: không biết Giáo hội Đức có sống còn hay không. Chúng tôi đã nói với Đức Thánh Cha về điều đó là không chút sợ hãi” (KNA 14-9-2023)
Những tuyên bố trên đây của Đức cha Baetzing dường như không trấn an được phe “cực cấp tiến” trong Giáo hội tại nước này. Vài ngày trước khi các Giám mục Đức bắt đầu khóa họp mùa thu từ 25 đến 29/9 này, một số nhóm áp lực đã lên tiếng kêu gọi Hội đồng Giám mục mau lẹ tiến hành việc cải tổ trong Giáo hội tại nước này và tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới sắp tới tại Roma, các Giám mục Đức cần “can đảm” trình bày những kết quả của công trình cải tổ được thông qua tại Đức và hoạt động để có sự thay đổi não trạng trên mọi bình diện” (KNA 22-9-2023)
Lo âu trước Thượng Hội đồng Giám mục
Đối nghịch với những “hy vọng” trên đây, không thiếu những tín hữu bày tỏ lo âu trước công nghị các Giám mục thế giới sắp tới.
Mới đây một nhóm các tín hữu Công giáo Ý đã nhóm họp tại Assisi. Họ gửi thư ngỏ cho Đức Thánh Cha trong đó có đoạn viết:
“Chúng con lo âu và kinh sợ trước Thượng Hội đồng Giám mục khóa thường kỳ được triệu tập tại Roma vào tháng 10 tới đây về sự “hiệp hành”. Như những người con của Giáo hội và là công dân của đại quốc này, chúng con ngỏ lời với Đức Thánh Cha Phanxicô, xin ngài có nhiều can đảm, như các vị tiền nhiệm đáng kính của ngài, đừng để cho Thượng Hội đồng Giám mục này xa lìa đạo lý Công giáo trong vấn đề nào cả, tái khẳng định chân lý Tin Mừng, có khả năng biểu lộ và trả lại cho con người và các dân tộc, ơn gọi nguyên thủy và rất cao cả của họ”.
Thượng Hội đồng Giám mục đừng dám làm thương tổn bản chất của Giáo hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền. Những lo âu này không nảy sinh từ một ý thức hệ nào, nhưng từ những tiến trình mà Đức Thánh Cha đã khởi xướng và khuyến khích, như đã tâm sự với một Giám mục Ý, trong một Thượng Hội đồng Giám mục trước đây”.
Đạo lý không là gì khác hơn là giáo huấn Công giáo, mà thánh Phaolô gọi là “sức mạnh của Tin Mừng”. Đạo lý không thu hẹp vào kinh Tin Kính, nhưng cũng nới rộng tới Sách Giáo Lý, đây không phải là nước lọc, nhưng là cô đọng sự sống và sự thánh thiện của Giáo hội.”
Như Đức Hồng Y Caffara (cố Tổng Giám mục Bologna) đã nói: một Giáo hội không đạo lý chỉ là một Giáo hội dốt nát….
Ngày nay, trong Giáo hội đang có toan tính thuyết phục chúng con chấp nhận rằng lạc giáo và vô luân không phải là tội, nhưng đúng hơn đó là lời đáp lại tiếng Chúa Thánh Linh, Đấng nói qua những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề.
Kính thưa Đức Thánh Cha, Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới không phải là một tổng hợp đức tin Công giáo và cũng không phải là giáo huấn của Tân Ước. Nó hoàn toàn trái ngược, mơ hồ và thù nghịch, bằng nhiều cách, đối với truyền thống tông đồ ngàn đời. Trong đó người ta không hề nhìn nhận Tân Ước như Lời Chúa, quy luật cho mọi giáo huấn về đức tin và luân lý… (blog.messainlatino.it 16-9-2023)
Những dè dặt khác
Cũng có những vị chủ chăn khác, lên tiếng cảnh giác về một số vấn đề được nói tới trong Tài liệu làm việc, như Đức Hồng Y Anders Arborelius, Giám mục giáo phận Stockholm, Thụy Điển, tuyên bố rằng vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ không được trở thành tâm điểm tại Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới đây, vì thế cuộc trao đổi không thể bị sa lầy vào vấn đề Giáo hội có thể truyền chức cho phụ nữ hay không.
Đức Hồng Y Arborerelius, dòng Camêlô Nhặt phép, tuyên bố như trên như một phản ứng về lời một số Giám mục Đức mong muốn Thượng Hội đồng Giám mục mau lẹ bỏ phiếu thuận về vấn đề này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí trực tuyến “National Catholic Reporter”, Phóng viên Công giáo quốc gia, truyền đi hôm 13/9 vừa qua từ Mỹ, Đức Hồng Y Giám mục giáo phận Stockholm nói rằng: “Thật là điều gây thất vọng nếu cuộc thảo luận tại Thượng Hội đồng Giám mục không thể dẫn đi xa hơn, vì thừa tác vụ linh mục vốn dành cho người nam theo đạo lý Công giáo và Chính Thống giáo”.
Tuy ban đặc trách tổ chức Công nghị này vẫn nhấn mạnh rằng Thượng Hội đồng Giám mục tới đây không phải là để thay đổi đạo lý, nhưng tài liệu làm việc của Công nghị có đoạn đặt hỏi rõ ràng: có thể cứu xét việc truyền chức phó tế cho phụ nữ hay không? Một số tham dự viên như Đức Hồng Y Robert McElroy, Giám mục giáo phận San Diego, bên Mỹ, tích cực cổ võ làm sao để vấn đề truyền chức cho phụ nữ trở thành tâm điểm của Thượng Hội đồng Giám mục, giống như Con đường Công nghị ở Đức. (CNA 14-9-2023)
Đừng quá mong đợi
Về phần Đức Hồng Y Jean Claude Hollerich, Tổng Giám mục Luxemburg, Tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, ngài cảnh giác các tín hữu đừng đặt quá nhiều mong đợi nơi khóa họp sắp tới, vì đây chỉ là khóa đầu, sẽ được tiếp nối với khóa thứ hai vào tháng 10 năm tới, 2024.
Đức Hồng Y nói: vấn đề truyền chức cho phụ nữ và chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính luyến ái là những đề tài chủ yếu trong Con đường Công nghị của Công giáo Đức, nhưng tại các nước khác, người ta không muốn các điều đó bao nhiêu. “Giáo hội cần tìm ra những câu trả lời cho các vấn đề đó. Nhưng không phải mọi sự đều diễn ra trong khóa họp này của Thượng Hội đồng Giám mục. Không thể chồng chất trên khóa họp những mong đợi, nếu không chúng ta sẽ bị thất vọng”.
Theo Đức Hồng Y Hollerich, khóa họp tháng 10 này chỉ là chuẩn bị một lộ trình những vấn đề cần được giải quyết trong khóa họp vào tháng 10 năm tới. Ngoài ra, ngài cũng kêu gọi mọi tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục hãy cởi mở và sẵn sàng thống hối bản thân: “Nếu tôi đến với một quan điểm đã sẵn sàng, đã biết hết mọi sự, thì tôi sẽ không lắng nghe, và như thế tôi sẽ không thực hiện một sự phân định thiêng liêng… Từ sự cộng tác có thể nảy sinh sự hòa hợp, đó là điều quan trọng hơn là vấn đề đa số qua tiến trình quyết định chung kết trong Giáo hội” (ekai.pl 22-9-2023)
Theo Giuse Trần Đức Anh, O.P.