2023
Các tham dự viên Đại hội Thượng Hội đồng kết thúc 3 ngày tĩnh tâm
Thượng Hội đồng, các Phái đoàn Huynh đệ và các khách mời đặc biệt đã rời nhà tĩnh tâm Fraterna Domus ở Sacrofano để trở về Vatican, chuẩn bị cho Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng vào sáng thứ Tư 4/10/2023.
Sau Thánh lễ chiều thứ Ba 3/10/2023 do Đức cha Jaime Spengler, Tổng Giám mục của Porto Alegre, Brazil chủ sự, và sau cơm tối, lúc 9 giờ tối, các thành viên Thượng Hội đồng, các Phái đoàn Huynh đệ và các khách mời đặc biệt đã rời nhà tĩnh tâm Fraterna Domus ở Sacrofano để trở về Vatican, chuẩn bị cho Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng vào sáng thứ Tư 4/10/2023.
Lắng nghe Chúa, lắng nghe nhau
Mở đầu bài giảng, Đức cha Spengler nói: “Trong những ngày này, chúng ta gặp nhau ở đây để kiến tạo sự hòa hợp hơn với Thánh Thần của Chúa: Người muốn nói với Giáo hội! Người luôn nói với Giáo hội! Tĩnh tâm, vào trong thinh lặng có nghĩa là lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh”.
“Trong những thời gian gần đây, theo yêu cầu của Đức Thánh Cha, chúng ta cũng đã thực hiện một hành trình dài lắng nghe: lắng nghe cộng đoàn của chúng ta; lắng nghe người dân”.
Giáo hội là sự phản chiếu của Ba Ngôi Chí Thánh
Ngài nói thêm: “Chúng ta ở đây vì chúng ta được chọn! Được chọn để, trong sự hòa hợp với toàn thể Giáo hội, chúng ta có thể suy tư, suy niệm, cầu nguyện, đối thoại, xây dựng những đường lối khả thi để Giáo hội ngày càng trở thành sự phản chiếu của Ba Ngôi Chí Thánh: hiệp thông, sứ vụ và tham gia”.
Mở ra những chân trời hy vọng
Và Đức cha đưa ra những câu hỏi: “Đức tin Kitô giáo có còn chỗ trong xã hội ngày nay không? Cộng đồng đức tin có tìm được một vị trí và không gian trong nền văn hóa ngày nay không? Chúng ta nên sử dụng ngôn ngữ nào, cách nói nào để truyền tải thông điệp? Đâu là những trường hợp cần thiết để củng cố sự hiệp thông, sứ mạng và sự tham gia? Cần có những thừa tác vụ nào?”
Kết thúc bài chia sẻ ngắn, Đức cha Spengler khẳng định “Chúa ở cùng chúng ta! Với Người, chúng ta hiểu rằng nhiệm vụ của chúng ta là cố gắng “mở ra những chân trời hy vọng cho việc hoàn thành sứ mạng của Giáo hội”.
Quyền bính
Vào ban sáng, Cha giảng thuyết Timothy Radcliffe, dòng Đaminh, đã chia sẻ về hai chủ đề. Trước hết là về quyền bính, trong đó ngài nói rằng “quyền bính có tính đa dạng và tăng cường lẫn nhau. Không cần phải có sự cạnh tranh, như thể giáo dân chỉ có thể có nhiều quyền lực hơn nếu các giám mục có ít quyền lực hơn, hay những người gọi là bảo thủ cạnh tranh quyền lực với những người cấp tiến”.
“Trong Chúa Ba Ngôi không có sự cạnh tranh… Chúng ta sẽ lên tiếng với thẩm quyền đối với thế giới đã mất của mình nếu trong Thượng Hội đồng này chúng ta vượt qua những cách tồn tại kiểu cạnh tranh. Khi đó thế giới sẽ nhận ra tiếng của người mục tử kêu gọi họ đến với sự sống”.
Thần Khí của sự thật
Trong bài suy niệm cuối cùng, về chủ đề “Thần Khí của sự thật”, trong khi lưu ý rằng xã hội ngày nay sợ đối diện với sự thật, Cha Radcliffe khẳng định: “Nếu chúng ta để Thánh Thần chân lý hướng dẫn mình, chắc chắn chúng ta sẽ tranh luận, đôi khi nó sẽ rất đau đớn. Sẽ có những sự thật mà chúng ta không muốn đối diện. Nhưng chúng ta sẽ được dẫn sâu hơn một chút vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa và chúng ta sẽ biết niềm vui đến nỗi người ta sẽ ghen tị vì chúng ta có mặt ở đây và sẽ mong mỏi được tham dự phiên họp tiếp theo của Thượng Hội đồng!” (CSR_3853_2023).
Hồng Thủy – Vatican News
2023
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ TRẢ LỜI CÁC NGHI VẤN CỦA 5 HỒNG Y
TRẢ LỜI CÁC NGHI VẤN CỦA 5 HỒNG Y
1. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng Mặc khải của Thiên Chúa nên được diễn giải lại dựa trên những thay đổi về văn hóa và nhân chủng học hiện nay.
Tiếp theo những tuyên bố của một số giám mục, những điều chưa được sửa chữa cũng như chưa rút lại, chúng con tự hỏi liệu Mặc khải của Thiên Chúa có nên được diễn giải lại trong Giáo hội theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và tầm nhìn nhân học mới được thúc đẩy bởi những thay đổi này hay không. Hoặc nếu, ngược lại, Mặc khải của Thiên Chúa là ràng buộc vĩnh viễn, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo Công đồng Vatican II, vốn khẳng định rằng “sự vâng phục bằng đức tin” phải được bày tỏ với Thiên Chúa, Đấng Mặc khải, (Dei Verbum 5); rằng những gì được mặc khải để cứu rỗi mọi dân tộc phải “mãi mãi nguyên vẹn và sống động”, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7), và rằng sự tiến bộ về hiểu biết không bao hàm bất kỳ sự thay đổi nào về sự thật của sự vật và lời nói bởi vì đức tin “được truyền lại một lần cho tất cả” (8), và Huấn quyền của Giáo hội không cao hơn Lời Chúa, nhưng chỉ dạy những gì đã được truyền lại (10).
Trả lời cho Nghi vấn thứ nhất
a) Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa mà anh em gán cho từ “diễn giải lại”. Nếu nó được hiểu là “diễn giải tốt hơn” thì cách nói đó hợp lệ. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định rằng điều cần thiết là với công việc của các nhà chú giải – và tôi muốn thêm vào các nhà thần học – “phán quyết của Giáo hội có thể thêm hoàn hảo” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 12).
b) Vì vậy, mặc dù sự thật là Mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, nhưng Giáo hội phải khiêm tốn và nhận ra rằng mình không bao giờ hiểu hết sự phong phú khôn dò của Mặc khải và cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c) Do đó, Giáo Hội cũng trưởng thành trong sự hiểu biết về những điều Giáo Hội đã khẳng định trong Huấn Quyền của mình.
d) Những thay đổi về văn hóa và những thách đố mới trong lịch sử không làm thay đổi Mặc khải nhưng có thể kích thích chúng ta diễn tả cách tốt hơn một số khía cạnh của sự phong phú tràn đầy của Mặc khải, điều luôn mặc khải nhiều hơn.
e) Thật không thể tránh khỏi rằng điều này có thể dẫn đến việc diễn đạt tốt hơn của Huấn quyền về một số tuyên bố trước đây, và quả thực, điều này đã xảy ra trong suốt lịch sử.
f) Một mặt, đúng là Huấn Quyền không cao hơn Lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Kinh Thánh lẫn các chứng từ của Thánh Truyền đều cần sự giải thích để phân biệt bản chất vĩnh tồn của những điều này với các hoàn cảnh văn hóa. Ví dụ, điều này được thể hiện rõ ràng trong các bản văn Kinh Thánh (như Xuất hành 21,20-21) và trong một số can thiệp của huấn quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (Cf. Pope Nicholas V, Bull Dum diversas, 1452). Đây không phải là một vấn đề nhỏ vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý ngàn đời về phẩm giá bất khả nhượng của con người. Những văn bản này cần được giải thích. Điều tương tự cũng áp dụng cho một số điều cân nhắc trong Tân Ước liên quan đến phụ nữ (1 Cr 11,3-10; 1 Tm 2,11-14) và các đoạn Kinh Thánh khác cũng như những chứng từ Truyền thống mà ngày nay không thể được lặp lại một cách cụ thể nguyên văn.
g) Điều quan trọng cần nhấn mạnh là điều không thể thay đổi chính là những gì đã được mặc khải “vì ơn cứu độ của mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 7). Vì vậy, Giáo hội phải không ngừng phân biệt giữa điều gì là cốt yếu cho ơn cứu độ và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp hơn đến mục tiêu này. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại điều Thánh Tôma Aquinô đã khẳng định: “Càng đi sâu vào các vấn đề chi tiết, chúng ta càng thường xuyên gặp phải những điều bất tất” (Summa Theologiae I/II q. 94, art. 4).
h) Cuối cùng, một công thức đơn lẻ của chân lý không bao giờ có thể được hiểu một cách đầy đủ nếu nó được trình bày một cách cô lập, tách rời khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ Mặc khải. “Phẩm trật các chân lý” cũng bao hàm việc đặt mỗi chân lý trong mối liên hệ đúng đắn với các chân lý trung tâm và với toàn bộ giáo huấn của Giáo hội. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến những cách khác nhau để trình bày cùng một học thuyết, mặc dù “đối với những ai ao ước có một tổng thể học thuyết đồng nhất buộc mọi người phải theo và không có chỗ cho những khác biệt, thì điều này có thể có vẻ không nên và có thể dẫn tới tình trạng hỗn độn. Nhưng trên thực tế, sự khác biệt có thể giúp làm sáng tỏ và phát triển các góc cạnh khác nhau trong sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (Evangelii gaudium, 40). Mọi luồng thần học đều có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2. Nghi vấn liên quan đến việc khẳng định rằng việc thực hành rộng rãi việc chúc lành cho các cặp đồng tính là phù hợp với Mặc khải và Huấn Quyền (CCC 2357).
Theo Mặc khải của Thiên Chúa, được chứng thực trong Kinh Thánh, mà Giáo hội “sốt sắng lắng nghe, cẩn trọng gìn giữ và trung thành trình bày theo lệnh truyền của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (Dei Verbum, 10): “Lúc khởi đầu,” Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã tạo dựng họ; Người đã tạo dựng người nam và người nữ, và chúc lành cho họ sinh sôi nảy nở (x. St 1,27-28) và do đó, Thánh Tông đồ Phaolô dạy rằng phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc phủ nhận Đấng Tạo Hóa (Rm 1,24-32). Chúng tôi tự hỏi liệu Giáo hội có thể đi chệch khỏi “nguyên tắc” này, trái ngược với những gì đã được dạy trong Veritatis splendor – Ánh quang Chân lý – số 103, như một lý tưởng đơn thuần, và chấp nhận những tình huống tội lỗi khách quan như “điều tốt có thể”, ví dụ như sự kết hợp của những người cùng giới tính, mà vẫn không rời xa giáo lý mặc khải?
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ hai
a) Giáo hội hiểu rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc nhất, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, một cách tự nhiên hướng đến việc sinh sản. Chỉ có sự kết hợp này mới có thể được gọi là “hôn nhân”. Các hình thức kết hợp khác chỉ thể hiện điều đó “một phần và tương tự” (Amoris Laetitia 292), vì vậy chúng không thể được gọi là “hôn nhân” theo nghĩa chặt.
b) Đây không chỉ là vấn đề tên gọi, nhưng thực tại mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất đòi hỏi một cái tên độc quyền, không thể áp dụng cho các thực tại khác. Chắc chắn nó không chỉ là một “lý tưởng” đơn thuần.
c) Vì lý do này, Giáo hội tránh bất kỳ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với xác tín này và khiến nghĩ rằng Giáo hội nhìn nhận là hôn nhân điều không phải là hôn nhân.
d) Tuy nhiên, trong các mối quan hệ của chúng ta với mọi người, chúng ta không được đánh mất lòng bác ái mục vụ, điều thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ sự thật khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của lòng bác ái này, điều cũng bao gồm lòng tốt, sự kiên nhẫn, sự hiểu biết, sự dịu dàng và sự khích lệ. Vì vậy, chúng ta không thể là những thẩm phán chỉ phủ nhận, bác bỏ và loại trừ.
e) Do đó, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định một cách thích đáng xem có những hình thức chúc lành nào, được một hoặc nhiều người yêu cầu, mà không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Vì khi cầu xin một phước lành, đó là bày tỏ lời cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ, cầu xin để sống tốt hơn, tin tưởng vào một người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f) Mặt khác, mặc dù có những tình huống, từ quan điểm khách quan, không thể chấp nhận được về mặt luân lý, nhưng cùng đức ái mục vụ đòi hỏi chúng ta không chỉ đơn giản coi những người khác là “tội nhân”, những người mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bởi các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến trách nhiệm chủ quan của họ (xem Thánh Gioan Phaolô l II, Reconciliatio et paenitentia, 17).
g) Những quyết định mà có thể là một phần của sự thận trọng mục vụ trong một số hoàn cảnh nhất định không nhất thiết phải trở thành một quy luật. Nghĩa là, sẽ không thích hợp nếu một Giáo phận, một Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu Giáo hội nào khác liên tục và chính thức cho phép các thủ tục hoặc nghi lễ đối với mọi loại vấn đề, bởi vì không phải mọi thứ “làm nên sự phân định thực tế trước những hoàn cảnh cụ thể đều có thể được nâng lên mức độ của một quy luật” vì điều này “sẽ làm nảy sinh một lối ngụy biện không thể chấp nhận được” (Amoris laetitia, 304). Giáo luật không nên và không thể bao gồm tất cả mọi thứ, và ngay cả các Hội đồng Giám mục với các tài liệu và nghi thức khác nhau của họ cũng thế, vì đời sống của Giáo hội thể hiện qua nhiều kênh khác ngoài các kênh quy phạm.
3. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng tính hiệp hành là một “chiều kích cấu thành của Giáo hội” (Tông hiến Episcopalis communio, 6), đến mức Giáo hội về bản chất là có tính hiệp hành.
Xét rằng Thượng Hội đồng Giám mục không đại diện cho giám mục đoàn mà chỉ đơn thuần là cơ quan cố vấn của Giáo hoàng, vì các giám mục, với tư cách là những nhân chứng của đức tin, họ không thể uỷ thác việc tuyên xưng sự thật của họ, nên câu hỏi đặt ra là liệu tính hiệp hành có thể là tiêu chuẩn quy định tối cao của việc quản trị thường trực của Giáo hội mà không làm sai lệch cơ cấu cấu thành của Giáo hội hay không, điều mà Đấng sáng lập Giáo hội mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi cả Giáo hoàng do chức vụ của ngài, và bởi Giám mục đoàn cùng với người đứng đầu của họ, là Đức Giáo hoàng (Lumen gentium, 22).
Đức Thánh Cha trả lời cho nghi vấn thứ ba
a) Vì rằng anh em thừa nhận rằng thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi Giáo hoàng do chức vụ của ngài và bởi giám mục đoàn cùng với người đứng đầu của họ là Đức Giáo hoàng (xem Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 22), với chính những câu hỏi này, anh em bày tỏ nhu cầu tham gia, tự do bày tỏ ý kiến của mình và cộng tác, qua đó yêu cầu một hình thức “hiệp hành” trong việc thi hành thừa tác vụ của tôi.
b) Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay thoát tục; nó nhất thiết hàm ý sự tham gia thực sự. Không chỉ hàng giáo phẩm mà toàn thể Dân Chúa, bằng nhiều cách khác nhau và ở các cấp độ khác nhau, có thể khiến tiếng nói của họ được lắng nghe và cảm nhận là một phần của hành trình của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng tính hiệp hành, như một phong cách và tính năng động, là một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Về điểm này, Thánh Gioan Phaolô II đã nói một số điều rất hay trong Tông thư Novo millennio ineunte – Khởi đầu Thiên niên kỷ mới.
c) Việc thần thánh hóa hoặc áp đặt một phương pháp hiệp hành cụ thể mà một nhóm yêu thích, biến nó thành một chuẩn mực và một con đường bắt buộc đối với mọi người, là một điều hoàn toàn khác, bởi vì điều này sẽ chỉ “đóng băng” hành trình hiệp hành, bỏ qua những đặc điểm khác nhau của các Giáo hội địa phương và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4. Nghi vấn liên quan đến sự ủng hộ của các mục tử và các nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi”, và do đó, có thể ban bí tích truyền chức thánh cho phụ nữ.
Sau những tuyên bố của một số giám chức, vốn chưa được sửa chữa và cũng chưa được rút lại, cho rằng với Vatican II, thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi, người ta hỏi liệu điều Công đồng Vatican II nói có còn giá trị hay không, điều khẳng định rằng chức tư tế chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau về bản chất chứ không chỉ ở cấp độ (Lumen gentium, 10), và rằng các linh mục, do “quyền năng thánh thiêng của bí tích truyền chức thánh để dâng hy lễ và tha tội” (Presbyterorum dinis, 2), hành động nhân danh và in persona (trong ngôi vị) Chúa Kitô Đấng Trung Gian, qua Người, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được nên hoàn hảo? Người ta cũng đặt câu hỏi liệu giáo huấn trong Tông thư Ordinatio sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II có còn giá trị hay không, giáo huấn này dạy như một sự thật phải được thừa nhận một cách dứt khoát về việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, để giáo huấn này không còn có thể thay đổi hay tự do thảo luận bởi các mục tử hoặc nhà thần học.
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ tư
a) “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau về bản chất” (Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10). Thật không thích hợp khi khẳng định một sự khác biệt về cấp độ với hàm ý coi chức tư tế chung của các tín hữu như một thứ thuộc “hạng hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“hạng thấp hơn”). Cả hai hình thức tư tế đều soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b) Khi Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng chúng ta phải khẳng định “dứt khoát” việc không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề hạ thấp phụ nữ và trao quyền tối cao cho nam giới. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Chẳng hạn, khi chúng ta nói về thẩm quyền của linh mục, “chúng ta đang ở trong lĩnh vực chức năng chứ không phải trong phẩm giá và sự thánh thiện” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, 51), những từ ngữ mà chúng ta chưa đón nhận đầy đủ. Ngài cũng khẳng định rõ ràng rằng dù chỉ có linh mục chủ sự Thánh lễ, các nhiệm vụ “không có chỗ cho sự cao trọng của những người này hơn những người khác” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, ghi chú 190; xem Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Inter insigniores, VI). Ngài cũng tuyên bố rằng nếu chức năng của linh mục là “có tính chất phẩm trật” thì không nên hiểu nó như một hình thức thống trị nhưng “hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các phần tử của Chúa Kitô” (Thánh Gioan Phaolô II, Mulieris dignitatem, 27). Nếu điều này không được hiểu và những hệ quả thực tế không được rút ra từ những phân biệt này, thì sẽ khó chấp nhận rằng chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ hoặc sự cần thiết của họ để tham gia theo nhiều cách khác nhau trong sự lãnh đạo của Giáo hội.
c) Mặt khác, cách chính xác, chúng ta hãy thừa nhận rằng một đạo lý rõ ràng và có thẩm quyền về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát” vẫn chưa được phát triển một cách thấu đáo. Đó không phải là một định nghĩa tín lý, tuy nhiên nó phải được mọi người tuân thủ. Không ai có thể công khai phủ nhận điều đó nhưng nó vẫn có thể là một chủ đề nghiên cứu, như trường hợp tính thành sự của việc truyền chức trong Liên hiệp Anh giáo.
5. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng “ơn tha thứ là một quyền của con người” và việc Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến nghĩa vụ luôn luôn tha tội cho mọi người, do đó việc sám hối có thể không phải là điều kiện cần thiết cho việc giải tội của bí tích.
Chúng ta tự hỏi liệu giáo huấn của Công đồng Trentô có còn hiệu lực hay không, trong đó dạy rằng, để bí tích giải tội thành sự thì sự ăn năn thống hối của hối nhân, bao gồm việc ghét bỏ tội đã phạm với mục đích không tái phạm, là cần thiết (Phần XIV, Chương IV: DH 1676), do đó linh mục phải hoãn việc xá giải khi thấy rõ rằng điều kiện này không được đáp ứng.
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ năm
a) Việc sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực và hàm ý một quyết tâm không phạm tội. Nhưng ở đây không có toán học, và một lần nữa tôi phải nhắc anh em rằng tòa giải tội không phải là sở hải quan. Chúng ta không phải là những ông chủ nhưng là những người quản lý khiêm tốn của các Bí tích nuôi dưỡng các tín hữu bởi vì những hồng ân này của Chúa, hơn cả những thánh tích cần được bảo tồn, là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho cuộc sống con người.
b) Có nhiều cách để bày tỏ sự ăn năn. Thông thường, đối với những người có lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, việc tuyên bố mình có tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng chính hành động đến tòa giải tội là biểu hiện của sự sám hối và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa.
c) Tôi cũng muốn nhắc lại rằng trong việc chăm sóc mục vụ, “đôi khi chúng ta trả giá nhiều cho việc dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa” (Amoris laetitia, 311), nhưng chúng ta phải học cách làm như vậy. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi khẳng định rằng chúng ta không nên đòi hỏi các tín hữu những giải pháp sửa đổi quá chính xác và chắc chắn, những giải pháp mà cuối cùng trở nên trừu tượng hoặc thậm chí trở nên quá quan tâm đến chính mình, và ngay cả việc dự đoán về một sự sa ngã mới cũng “không gây hại đến tính chân thực của ý hướng” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum và những người tham gia khóa học hàng năm của Tòa Ân Giải, ngày 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d) Cuối cùng, phải làm rõ rằng tất cả các điều kiện thường gắn liền với việc xưng tội nói chung không được áp dụng khi một người đang ở trong tình trạng hấp hối, hoặc với khả năng trí tuệ và tâm lý rất hạn chế.
2023
Quyền năng của Chúa
13.10 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Ge 1:13-15; Tv 9:2-3,6,16,8-9; Lc 11:15-26
Quyền năng của Chúa
Trình thuật Tin mừng theo thánh Luca hôm nay khẳng định cho chúng ta thấy sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Với vai trò là Đấng Mesia, Chúa Giêsu mạc khải rõ sứ mệnh của Ngài là đến thế gian để giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của ma quỷ và tội lỗi, cho chúng ta được ơn cứu độ.
Trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đồng thời cũng xuất trừ ma quỷ và chữa mọi bệnh tật của con người. Hôm ấy, khi thấy Chúa Giêsu chữa một người bị quỷ ám, đám đông dân chúng vô cùng ngưỡng mộ trước quyền năng vô song của Ngài, nhưng có một số người tỏ ra cứng lòng tin, họ phủ nhận quyền năng ấy và cho rằng Ngài đã nhờ sự trợ giúp của tướng quỷ Bêelgiêbút.
Chúa Giêsu liền khẳng định cho họ biết sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa là vô biên có khả năng tiêu diệt được ma vương quỷ thần. Sức mạnh ấy phát xuất từ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chỉ cần kêu lên danh xưng Giêsu thì mọi tạo vật, mọi đầu gối phải sụp xuống thờ lạy. Danh xưng ấy có sức công phá mọi bức tường ngăn cách, có sức hủy hoại mọi thế lực quỷ thần, đẩy lui bong tối của sự dữ. Danh xưng ấy xuyên thấu tâm hồn con người khiến mọi miệng lưỡi đều cất tiếng ngợi khen.
Đứng trước quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa, con người chúng ta không đáng bằng hạt bụi nhỏ bé,còn quỷ thần chỉ như sợi tơ nhện mong manh. Trí khôn của chúng ta hạn hẹp chẳng bao giờ suy thấu. Bởi vì trước một tình yêu bao la ấy mọi lý luận đều trở nên vô nghĩa, mọi tư duy đều giới hạn. Chúng ta được mời gọi hãy mở rộng con tim yêu mến để đón nhận hồng ân đức tin, mở rộng tâm hồn để đón nhận những ân ban huyền diệu. Và ngay cả lúc chúng ta nhận ra tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, đó cũng là hồng ân không phải tự sức chúng ta làm được nếu không có ơn sủng của Chúa soi sáng cho.
Chúa Giêsu còn cho ta biết ma quỷ là kẻ thù rất mạnh thế, chúng luôn tìm cách lôi kéo trói buộc chúng ta bằng đủ mọi mưu chước. Vì thế, chúng ta cần tỉnh táo và sáng suốt trước những thử thách, trước những lời mời mọc cám dỗ. Chúa dạy chúng ta cách chiến thắng ma quỷ là phải đoàn kết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa, vì “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau”.
Tâm hồn chúng ta ví như một ngôi nhà, mà “nhà sạch thì mát”. Nếu chúng ta để tâm hồn ô uế, vướng bận nhiều đam mê dục vọng và những thói hư tật xấu thì đó là môi trường thuận tiện để ma quỷ thống trị. Hãy dọn dẹp căn phòng nội tâm của mình bằng thái độ hoán cải mỗi ngày, bằng hy sinh, lời cầu nguyện và phải chiến đấu liên lỉ. Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận cho chúng ta một kinh nghiệm sống với Chúa, người cho rằng “Khí giới của con người là nguyện ngắm, hy sinh, các bí tích, chuỗi Mân côi, tĩnh tâm…Đồng minh của con là Đức Mẹ, thánh Giuse, Thiên thần, thánh bổn mạng. Con chắc chắn thắng trận trừ khi con dần dần hạ khí giới và phản lại đồng minh của con” (Đường hy vọng, số 81).Thiên Chúa không thể cứu chúng ta được nếu chính chúng ta không thực sự có lòng khao khát, nếu chúng ta tự tách mình ra khỏi tình yêu của Chúa. Thiên Chúa không thể bước vào tâm hồn chúng ta được nếu cánh cửa lòng chúng ta luôn khép kín.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những thế lực xấu lôi kéo chúng ta sống xa lìa Thiên Chúa. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy nhưng nó ngấm ngầm ẩn sau tính tham lam ích kỷ, ẩn sau thói ươn hèn yếu đuối của con người. Chúng ta hãy khôn ngoan cậy dựa vào ơn Chúa để nhận ra đâu là ý Chúa, đâu là thói trá hình của ma quỷ mà có thái độ sống tích cực hơn. Hãy lắng nghe và thi hành lời thánh Phaolô khuyên dạy giáo đoàn Galata “những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham”, và họ được cứu rỗi theo như lời đã hứa. Quả thật, tin là điều kiện cần thiết để chúng ta đứng vững trước mọi gian nan thử thách, không thất vọng ngã lòng khi bị cám dỗ…
Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: “Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán”. Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
2023
Thứ Sáu Tuần XXVII – Mùa Thường Niên
Thứ Sáu Tuần XXVII – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Et 13,9.10-11
Lạy Chúa,
Chúa an bài mọi sự theo thánh ý của Ngài
mà không ai cưỡng nổi.
Ngài tạo thành vũ trụ
cùng muôn loài hiện hữu dưới bầu trời.
Chính Ngài là Chúa Tể càn khôn.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Ngày của Đức Chúa đến rồi, Ngày tối tăm u ám.
Bài trích sách ngôn sứ Giô-en.
113Hỡi các tư tế, hãy mặc áo vải thô mà than van kêu khóc !
Rú lên đi, hỡi những người phục vụ bàn thờ !
Hãy đến, mặc áo vải thô mà thức suốt đêm,
hỡi những người phục vụ Thiên Chúa,
vì lễ hiến dâng và lễ tưới rượu
đã bị cấm cử hành nơi Nhà Thiên Chúa.
14Hãy ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng,
triệu tập các cụ già và toàn thể cư dân trong xứ
tại Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.
Hãy kêu lên Đức Chúa.
15Ôi, ngày đáng sợ thay ! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề !
Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng.
21Hãy rúc tù và tại Xi-on, hãy kêu la trên núi thánh của Ta !
Run lên đi, mọi cư dân trong xứ,
vì Ngày của Đức Chúa đến rồi, Ngày ấy đã kề bên.
2Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen.
Một dân đông đúc và hùng mạnh
đang tràn ngập núi đồi như thể ánh bình minh.
Một dân như vậy xưa nay chưa hề có,
và muôn năm muôn đời cũng sẽ chẳng bao giờ có nữa.
Đáp ca
Tv 9,2-3.6 và 16.8-9 (Đ. c.9a)
Đ.Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh.
2Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm.3Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa,
đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
Đ.Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh.
6Ngài hăm doạ chư dân, tiêu diệt lũ gian tà,
tên tuổi chúng, cũng xoá đi vĩnh viễn.16Kìa chư dân sa vào hố chúng đào,
chân mắc lưới chính mình giăng sẵn.
Đ.Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh.
8Về phần Chúa, Chúa ngự trị ngàn đời,
Người lập toà xét xử.9Người xét xử thế giới theo lẽ công minh,
cai trị muôn dân theo đường chính trực.
Đ.Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh.
Tung hô Tin Mừng
Ga 12,31b-32
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài ! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 11,15-26
Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
15 Khi ấy, Đức Giê-su trừ một tên quỷ, nhưng có mấy người lại bảo : “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói : “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được ?… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
23 “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.
24 “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói : ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.’ 25 Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chính Chúa đã thiết lập lễ tế này để chúng con dâng lên mà tỏ lòng thần phục tôn kính; xin Chúa thương chấp nhận và thánh hoá chúng con, xin cho chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì lượng từ bi, Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Ðấng Cứu Chuộc đến với chúng con. Người vô tội mà Chúa muốn Người sống như chúng con, để Chúa yêu thương nơi chúng con/ điều Chúa quý mến nơi Con Chúa. Nhờ sự vâng phục của Người, chúng con được phục hồi để lãnh nhận những ơn Chúa mà chúng con đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Vì thế, lạy Chúa cùng với toàn thể Thiên thầnvà các thánh, chúng con tuyên xưng Chúa và hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Ac 3,25
Chúa nhân hậu từ bi
với những kẻ một niềm trông cậy,
và tha thiết kiếm tìm Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Ðức Kitô, xin cho chúng con được nên một với Người và no say tình Chúa. Chúng con cầu xin…